Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 


 

Nguồn Gốc và Ư Nghĩa của tên SÀIG̉N

Vietsciences-Nguyễn Ngọc Huy        
 

Những bài cùng đề tài

  1. Nguồn gốc và ư nghĩa của tên Sài G̣n
  2. H́nh ảnh Sài G̣n xưa

 

I/ Nguồn gốc  và ư nghĩa của tên Sài G̣n

Trong "Đại Nam Quốc Âm Tự Vị" của ông Huỳnh Tịnh Của th́ Sài tức là củi thổi, G̣n: tên loại cây cỏ bông nhẹ xốp, nhẹ hơn bông thường, trong Nam hay dùng để dồn gối, dồn nệm. Về địa danh Sàig̣n th́ Đại Nam Quốc Âm Tự Vị ghi: tên riêng của đất Chợ Lớn, bây giờ lại hiểu là đất Bến Nghé.

Định nghĩa Sàig̣n của quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị cho ta thấy rằng tên Sàig̣n trước đây dùng để chỉ vùng Chợ Lớn hiện nay, c̣n vùng mà ta gọi là Sàig̣n hiện nay th́ trước đây lại gọi là Bến Nghé. Điều này được xác nhận nhờ hai người Anh là Crawford và Finlayson đă đến vùng này năm 1922. Cứ theo lời những người này thuật lại th́ Sàig̣n và Bến Nghé (mà các tác giả trên đây viết là Bingeh hay Pingeh) là hai thành phố phân biệt nhau và cách xa nhau độ 1 hay 2 dặm, Bến Nghé là nơi đồn binh và đạt cơ quan chánh phủ, c̣n Sàig̣n là trung tâm thương măi và là nơi cư ngụ của người Hoa kiều và các thương gia (tài liệu của Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises tức là Tập san của Hội Cổ Học Ấn Hoa, năm 1942, tập số 2). Vậy, Sàig̣n và Bến Nghé là hai thành phố phân biệt nhau và có hai tên khác nhau đàng hoàng, nhưng đến khi người Pháp chinh phục ba tỉnh phía đông Nam Kỳ năm 1861, họ dùng tên Sàig̣n để chỉ đất Bến Nghé cũ, mà họ dùng làm trung tâm hành chánh, v́ Bến Nghé là một tiếng khó cho người ngoại quốc phát âm hơn Sàig̣n. Người Việt Nam bắt buộc phải theo họ mà gọi Bến Nghé là Sàig̣n, c̣n vùng trước đó gọi là Sàig̣n th́ được gọi là Chợ Lớn theo một cái tên mà sử gia Phan Khoang trong bộ Việt Sử, Xứ Đằng Trong, cho là dường như đă có từ đời vua Gia Long.

Cũng theo quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của ông Huỳnh Tịnh Của th́ tên Sàig̣n có nghĩa là củi g̣n. Nhà học giả Trương Vĩnh Kư đă theo thuyết này mà ông cho biết là dựa vào bộ Gia Định Thông Chí của ông Trịnh Hoài Đức. Trong tập Souvenirs historiques, ông Trương Vĩnh Kư lại kể lại rằng người Khmer xưa có trồng cây g̣n chung quanh đồn Cây Mai và chính ông c̣n thấy vài gốc cổ thụ này tại vùng ấy năm 1885.

Sau ông Trương Vĩnh Kư, c̣n có ông đốc phủ Lê Văn Phát đi xa hơn trong thuyết kể trên đây. Theo ông Lê Văn Phát th́ trước đây, vùng Sàig̣n Chợ Lớn hăy c̣n bị rừng bao phủ và tên Sàig̣n có lẽ phát xuất từ tên Khmer Prei Kor tức là Rừng G̣n (Forêt des Kapokiers). Prei Kor là tên mà người Khmer dùng để gọi một địa phương mà trọng tâm là Chùa Cây Mai ở Phú Lâm ngày nay. Mặt khác, ông Lê Văn Phát cũng cho biết rằng người Lào (mà ngôn ngữ gần như ngôn ngữ Thái) đă gọi vùng này là Cai Ngon, mà Cai Ngon theo tiếng Thái cũng có nghĩa là Rừng Chỗi Cây G̣n (Brousse des kapokiers).

Thuyết về nguồn gốc tên Sàig̣n của các học giả Việt Nam trên đây sau này đă bị một số học giả khác bác bỏ. ông Vương Hồng Sến trong bộ Sàig̣n Năm Xưa cho biết rằng theo tiếng Khmer th́ Kor có nghĩa là g̣n mà cũng có thể có nghĩa là con ḅ, và Prei Kor có thể là Rừng Ḅ chứ chưa ắt hẳn là Rừng G̣n.

Mặt khác, các nhà học giả Pháp nghiên cứu về nước Cam.Bu.Chia đă t́m được trong bộ sử chép tay của nước ấy một dữ kiện quan trọng về vùng này. Theo bộ sử ấy, năm 1623, một sứ bộ của chúa Nguyễn đă đến Cam.Bu.Chia xin vua Cam.Bu.Chia cho đặt một số sở thuế ở vùng Prei Nokor va` Kas Krobey. Vua Cam.Bu.Chia lúc ấy có một hoàng hậu la` con gái chúa Săi (Nguyễn Phúc Nguyên). Bởi đó, ông đă chấp nhận lời yêu cầu của chúa Nguyễn.

Theo ông Etienne Aymonier th́ Nokor là xứ, quốc gia và Prei Nokor là rừng của vua (forf royale). Nhưng linh mục Tandart lại bảo rằng tiếng Nokor do tiếng nam phạn Nagaram mà ra, và có nghĩa là Thành phố của rừng hay thành phố ở giữa rừng (ville de la forêt). Bởi vậy theo ông, Prei Nokor có nghĩa là thành phố.

Nhà học giả Pháp Louis Malleret khi nêu ra tài liệu về Prei Nokor đă dựa vào ư nghĩa của tiếng Khmer này theo linh mục Tandart để bác bỏ thuyết của các học giả Việt Nam trước đó cho rằng Sàig̣n có nghĩa là Củi G̣n. Ông đă theo ư kiến của một người Pháp khác là Maurice Verdeille theo đó tiếng Sàigo`n có lẽ phát xuất từ tiếng Tây ng̣n có nghĩa là cống phẩm của phía tây (tribut de l'ouest). Tiếng Hán Việt có nghĩa là cống phẩm của phía tây nếu đọc theo V.N là Tây Cống và Tây Ng̣n hẳn là Tây Cống, nhưng phát âm theo giọng Trung Hoa. Sở dĩ ông Malleret theo thuyết này là v́ ông đă dựa vào một dữ kiện lịch sử do ông Trịnh Hoài Đức chép lại, là khi Cam Bu Chia bị phân ra cho hai vua th́ cả hai vua nầy đều nạp cống phẩm cho chúa Nguyễn ở Prei Nokor, vốn là thủ đô của vua thứ nh́ từ năm 1674 (trong khi vua thứ nhứt đóng đô ở Oudong ở phía bắc Nam Vang).

Một tác giả khác, ông Vương Hồng Sển, nhắc lại trong quyển Sàig̣n Năm Xưa rằng người Hoa Kiều đă tập trung vào vùng Chợ Lớn ngày nay để mua bán năm 1778 sau khi Cù Lao Phố (gàn tỉnh lị Biên Ḥa ngày nay) là nơi được thành lập để mua bán từ cuối thế kỷ thứ 17 đă bị Tây Sơn phá tan khi họ kéo vào đánh Miền Nam. Sau khi thành phố này đă vững, người Hoa Kiều đă đáp thêm bờ kinh Chợ Lớn, cẩn đá cho cao ráo kiên cố. Và có lẽ để ghi công việc này, họ đặt tên chỗ mới này là Đề Ngạn, tức là bờ sông cao dốc trên có đe ngăn nước. Đề Ngạn là tiếng Hán Việt, chớ người Trung Hoa phát âm theo giọng Quảng Đông th́ nói thành Tài Ngon hay Thầy Ngồnn. Ông Vương Hồng Sển cho rằng tiếng Sàig̣n chính do Thầy Ngồnn mà ra.

Về đất Bến Nghé th́ người Trung Hoa gọi là Xi Cong. Ông Vương Hồng Sển cho rằng đó là họ đọc trại lại tiếng Sàig̣n của ta và khi viết ra Hán văn th́ họ dùng hai chữ mà ta đọc là Tây Cống.

 

Vậy, có ba thuyết về nguồn gốc và ư nghĩa của tên Sàig̣n:

1. Thuyết của các ông Trương Vĩnh Kư và Lê Văn Phát: Sàigon do tiếng Khmer Prei Kor mà ra, và có nghĩa là củi g̣n.

2. Thuyết của ông Louis Malleret: Sàig̣n do tiếng Tây Ng̣n, tức là Tây Cống phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là cống phẩm của phía tây.

3. Thuyết của ông Vương Hồng Sển: Sàig̣n do tiếng Thầy Ngồnn tức là Đề Ngạn phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là bờ sông cao dốc trên có đê ngăn nước. C̣n về tiếng Tây Cống, ông Vương Hồng Sển lại cho rằng nó chỉ được người Trung Hoa dùng sau này để phiên âm lại tên Sàig̣n sau khi tên này được dùng đẻ chỉ đất Bến Nghé cũ.

Ba thuyết trên đây cái nào cũng có vẻ có lư phần nào nhưng thật sự, không cái nào có thể làm cho chúng ta hoàn toàn thỏa măn. Như thế có lẽ v́ những người nêu ra các thuyết ấy đă quên để ư đến cách ông bà chúng ta đặt các địa danh ở Nam Kỳ trước đây. Chúng ta có thể nhận thấy rằng trong việc đạt địa danh này, ông bà chúng ta đă theo một số nguyên tắc:

 

  1. Các cụ có thể phiên âm một địa danh Khmer đă có và bỏ dấu cho thành tiếng Việt Nam. Thí dụ như Psar Deck thiếng Khmer là Chợ Sắt đă được các cụ gọi lại là Sa Đéc, hay Me So tiếng Khmer là Người Đàn Bà Đẹp hay nàng Tiên được các cụ gọi là Mỹ Tho. Trong một bài kỷ niệm ngày 30 tháng tư, đăng trong tờ Việt Báo, ông Phạm Nam Sách khi nói về tỉnh Ba Xuyên đă nhắc đến một địa danh mà ông nói là là Bảy Sào, Bải Sào, Bảy Sau hay Bải Sau chi đó. Thật sự đó là Bải Xào, một tiếng phát xuất từ tiếng Khmer Bai Xao có nghĩa là Cơm Sống. Địa danh này sở dĩ có là v́ trong trận đánh nhau voói người Việt Nam, người Khmer đă thua chạy về đến đó và ngừng lại nấu cơm ăn, nhưng cơm chưa kịp chín th́ quân Việt Nam lại kếo đến và người Khmer phải bỏ chạy. Để đánh dấu việc này, họ gọi đất đó là Cơm Sống, tiếng Khmer là Bai Xao và các cụ ta bỏ dấu thêm thành Bải Xào.

 

  1. Các cụ có thể dịch nghĩa một địa danh Khmer đă có. Thí dụ như tên Bến Nghé phát xuất từ tiếng Khmer Kompong Krabei có nghĩa la Vũng Trâu. Theo sử Khmer mà ông Malleret viện dẫn th́ ngoài Prei Nokor, vua Cam.Bu.Chia c̣n cho chúa Nguyễn đạt sở thuế ở Kas Krobey. Chữ Krobey rất gần Krabei, và có thể Kas Krobey với Kompong Krobei cũng là một và có nghĩa là Vũng Trâu, Bến Trâu ǵ đó.

 

  1. Nhưng tên theo hai loại trên đây là do người Việt Nam b́nh dân đặt ra khi mới đến một địa phương, về sau, khi đă có nhiều người Việt Nam ở và triều đ́nh Việt Nam đặt ra các đơn vị hành chánh, th́ triều đ́nh lại dùng tiếng Hán Việt như Trấn Biên, Phiên Trấn, Phước Long, Phước Tuy v.v... Mặt khác, khi viết sử hay viết sách địa lư mà gặp một tên nôm do người b́nh dân đă đặt, các cụ đă dịch phăng nó ra tiếng Hán Việt chớ ít khi chịu chép tên nôm. Như Ba Giỗng, các cụ dịch là Tam Phụ và Bến Nghé, các cụ dịch lại là Ngưu Chử khi chép vào sách chớ không chịu viết tên nôm là Ba Giồng, Bến Nghé.

 

 

Nếu lấy các qui tắc đặt địa danh của các cụ ngày xưa làm tiêu chuẩn dể suy luận th́ ta thấy ngay các thuyết trên đây về nguồn gốc và ư nghĩa của Sàig̣n không ổn.

 

  1. Nếu các cụ ta ngày xua muốn dịch tiếng Khmer Prei Kor ra tiếng Việt th́ các cụ đă dùng tên Củi G̣n, Cây G̣n hay Rừng G̣n để đạt cho địa phương này, chớ không ghép một tiếng Hán Việt là Sài với một tiếng nôm là G̣n để thành Sàig̣n, cũng nhu khi dịch Kompong Krabei ra tiếng Việt, các cụ đă gọi là Bến Nghé chớ không nói Tân Nghé, Chử Nghế hay Ngạn Nghé (Tân, Chử và Ngạn là những tiếng Hán Việt có nghĩa là cái cồn nhỏ, bến sông, bờ sông). Nếu bảo rằng g̣n là một loại cây không có tên Hán Việt và các cụ đă dùng tên ấy như tiếng Hán Việt th́ các cụ đă theo văn phạm Hán Việt mà gọi Củi G̣n là G̣n Sài chớ không thể gọi là Sài G̣n
  2. Chữ Sài là tiếng Hán Việt có nghĩa là Củi, nhưng cũng chữ ấy mà dùng làm chữ nôm th́ lại đọc là Thầy. Vậy, nếu đọc theo tiếng nôm hoàn toàn hai chữ mà ông bà chúng ta dùng để chỉ tên đất ta đang nghiên cứu th́ ta có Thầy G̣n. Tên này rất gần với Tây Ng̣n hay Thầy Ngồnn là những tiếng Hán Việt Tây Công hay Đề Ngạn đọc theo giọng Trung Hoa. Nhưng các cụ ngày xua rất sính dùng tiếng Hán Việt. Đến như tiếng nôm hoàn toàn là Ba Giồng, Bến Nghé mà các cụ c̣n nhứt định phải dịch ra là Tam Phụ, Ngưu Chử khi viết vào sách vở th́ không lư do ǵ các cụ lại không dùng các tiếng Hán Việt đă sẵn có là Tây Cống hay Đề Ngạn, mà lại dùng tiếng Thầy G̣n là tiếng phiên âm theo giọng của người Trung Hoa.

Vậy, các thuyết kể trên đây đều không vững cả.

Cuối cùng, chỉ c̣n một dấu vết nhỏ trong các tài liệu nói về ư nghĩa và nguồn gốc tên Sàig̣n có thể giúp ta một lối thoát: đó là việc ông Lê Văn Phát cho biết rằng người Lào đă gọi vùng Chợ Lớn ngày nay là Cai ngon, mà Cai ngon theo tiếng Thái có nghĩa là Rừng Chỗi Cây G̣n. Chúng tôi không biết tiếng Lào hay tiếng Thái nên không thể xác nhận được ư nghĩa của Cai Ngon theo tiếng Thái, nhưng nếu quả đúng như ông Lê Văn Phát nói th́ tên Sàig̣n do ông bà ta phiên âm từ tiếng Thái Cai Ngon và bỏ dấu theo giọng Việt Nam như thông lệ.

Xét về mặt nguyên tắc đạt địa danh của ông bà chúng ta ngày xưa, th́ vấn đề này có thể kể là tạm giải quyết. Nhưng nghi vấn c̣n lại là tại sao lại có tiếng Lào hay tiếng Thái lọt vào đây? Hiện nay, không có nhiều tài liệu lịch sử giúp chúng ta có một sự hiểu biết rộng răi và chánh xác về thời kỳ người Việt Nam mới vào ở đất Nam Kỳ. Chúng ta chỉ có thể dựa vào một số dữ kiện sau đây để suy luận:

1. Vào đầu thế kỷ 17, nước Cam Bu Chia đă bị người Xiêm (Thái Lan hiện nay) uy hiếp nặng nề, và chính v́ muốn dựa vào người Việt Nam để chống lại Xiêm mà vua Chey Chetta II đă đi cưới công chúa Ngọc Vạn (là con gái chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên) về làm hoàng hậu năm 1620, rồi đén năm 1623 lại đẻ cho chúa Nguyễn đạt những cơ sở thâu thuế ở vùng Sàig̣n, Chợ Lớn ngày nay.

2. Vùng Chợ Lớn chỉ trở thành một vùng thương măi thạnh vượng từ năm 1788 với khối người Hoa Kiều tụ tập về đó sau khi Cù Lao Phố bị Tây Sơn phá hủy. Vậy, lúc chúa Nguyễn mới đạt cơ sở thuế hơn 150 năm về trước vùng này chưa có mua bán ǵ nhiều.

3. Người Việt Nam chỉ vào ở Nam Kỳ nhiều từ khi có lực lượng của ông Trần Thượng Xuyên đóng thường trực để bảo vệ cho họ từ năm 1680. Vậy, lúc chúa Nguyễn đạt sở thuế ở vùng Chợ Lớn ngày nay, hơn 50 năm trước đó, chưa có đông người Việt Nam và chưa có sản xuất nhiều lúa gạo để bán.

4. Như thế, cơ sở thuế của chúa Nguyễn chắc chỉ đánh vào một vài sự buôn bán nhỏ, không quan trọng lắm, và do đó mà vua Cam Bu Chia đă dễ dàng cho chúa Nguyễn thâu lấy nguồn lợi này, chớ nếu có sự mua bán quan trọng và quyền lợi thuế vụ lớn th́ vua Cam Bu Chia lúc đó vốn c̣n hoàn toàn độc lập với chúa Nguyễn, chắc không phải chấp nhận dễ dàng lời yêu cầu của chúa Nguyễn. Vậy, sự mua bán đó dựa vào móng hàng ǵ? Có thể một trong những món hàng được buôn bán thời đó là g̣n, v́ vùng này có nhiều cây g̣n, có lẽ không nhiều đến thành rừng, nhưng cũng đạt mức quan trọng để có thể gọi là rừng chổi được. Người Xiêm có thể đă đến đó mua g̣n để đem về nước dồn gối, dồn nệm. Một ít thương gia Xiêm có thể đă có mặt ở vùng này trước khi chúa Nguyễn đạt sở thuế tại đó, và v́ thấy vùng này có nhiều cây g̣n, họ gọi nó là Cai Ngon tức là Rừng Chổi Cây G̣n, rồi các viên chức Việt Nam liên lạc với họ để đánh thuế lúc mới đến đă theo họ mà gọi đất này là Sàig̣n, thay v́ phiên âm hay dịch nghĩa tên Khmer của địa phương này.

5. Về cái tên Khmer này, các học giả đă không đồng ư kiến với nhau, người th́ nói là Prei Kor, người th́ nói là Prei Nokor. Ông Malleret đă dựa vào sử Khmer mà bảo đó là Prei Nokor và theo linh mục Tandart để dịch Prie Nokor là thành phố của rừng. V́ không biết tiếng Khmer và văn phạm Khmer, chúng tôi không thể đi sâu vào vấn đề này, nhưng vẫn thấy có những chỗ không ổn.

    1. Nếu Prei Kor có nghĩa là Rùng G̣n hay Rừng Ḅ th́ văn phạm Khmer cũng như văn phạm Việt Nam đạt tiếng rừng lên trên, tiếng phụ nghĩa cho rừng ở dưới. Như vậy Prei Nokor dịch ra là rừng của vua như Aymonier th́ vẫn hợp với văn phạm đó, c̣n dịch ra như linh mục Tandart là thành phố giữa rừng th́ lại đi ngược với văn phạm đó rồi. Hiểu theo văn phạm như nói trên đây th́ Prei Nokor là rừng của thành phố mới phải, nhưng tên Rừng của Thành Phố th́ cố nhiên là không có ư nghĩa ǵ.

    2. Mặt khác, nếu Prei Nokor là thành phố giữa rừng hay rừng của vua th́ nó chỉ có thể có từ năm 1674 là năm mà vua thứ nh́ của Cam-Bu-Chia chua chúa Nguyễn đến đặt sở thuế tại đó th́ đất này hăy c̣n là một thị xă nhỏ, không có vua ở nên không thể mang tên Prei Nokor là thành giữa rừng hay rừng của vua được.

Do các nghi vấn trên đây, chúng ta thấy rằng thuyết của ông Malleret không vững. Và chúng ta có thể đua ra giả thuyết khác: địa điểm mà vua Cam-Bu-Chia cho chúa Nguyễn đạt sở thuế vẫn tên là Prei Kor v́ nơi đó có nhiều g̣n và là nơi mua bán g̣n, nhưng sau đó, khi vua thứ nh́ của Cam-Bu-Chia đến đóng đô tại đó, nó có tên mới là Prei Nokor (hiểu theo nghĩa là rừng của vua hay thành phố giữa rừng đều được cả). Các sử gia Cam-Bu-Chia sau này chép lại việc cho chúa Nguyễn đến địa phương này đặt sở thuế đă chép lại tên Prei Nokor mà họ được biết nhiều hơn mà bỏ tên Prei Kor đi. Với giả thuyết này th́ ư nghĩa và nguồn gốc tên Sàig̣n có thể giải quyết được: đó là một tên phiên âm từ tiếng Xiêm Cai Ngon có nghĩa là Rừng Chổi Cây G̣n, và phù hợp vớ tên Khmer nguyên thủy Prei Kor cũng có ư nghĩa tương tự.

V́ không biết ngôn ngữ và văn phạm Khmer và Thái (Xiêm) nên chúng tôi không thể đi sâu vào vấn đề này và chỉ xin nêu ra những nhận xét trên đây. Chúng tôi mong ước rằng có vị nào thông thạo tiếng Khmer hay tiếng Thái lưu tâm đến vấn đề này để làm sáng thêm ư nghĩa và nguồn gốc tên Sàig̣n yêu dấu của chúng ta.

(Viết vào thập niên 80).

 

H́nh ảnh Sài G̣n xưa

Trích từ trang Việt Nam Quê Hương Tôi cùa Nguyễn Tấn Lộc :

http://nguyentl.free.fr

 

Bưu điện Sài G̣n xưa và

Sài G̣n ngày  nay:

2003 : La foule devant le marché de Ben Thanh

 

© http://vietsciences.free.fr  http://vietsciences.net Nguyễn Ngọc Huy

Nguồn: vietnamtourism

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17