|
Tha La một địa danh lịch
sử
- An-Tiêm Mai Lư Cang
(Paris)
- (Paris Xuân Nhâm-Th́n 2012
Trên đường từ thành phố Hồ-Chí-Minh đi tới cửa khẩu
Mộc-Bài theo quốc lộ 22A, qua khỏi khu công nghiệp hiện đại Trảng-Bàng
là đến trung tâm thương mại chợ búa huyện lị. Từ chợ thị trấn Trảng-Bàng
đi đến trụ sở công quyền của xă An-Ḥa chừng một cây số, và cách đó thêm
độ vài trăm thước nữa là gặp ngay nhà thờ họ đạo Tha-La nằm ở bên trái
ven đường. Xóm đồng ruộng Tha-La tọa lạc trên ấp An-Hội cạnh khu công
nghiệp An-Ḥa và ḍng sông Vàm-Cỏ-Đông nên thơ, nước biếc.
Sông Vàm Cỏ Đông
Sông Vàm Cỏ Đông
Nói cách khác, th́ Tha-La nằm miền ven biên ở hướng
Tây của thị trấn Trảng-Bàng hướng về khu Ba-Thu cạnh vùng biên thùy
Mỏ-Vẹt, giáp giới tỉnh Xvay-Riêng của Cam-Pu-Chia. Cách đây hơn quá nửa
chừng thế kỷ th́ xóm vắng nầy cũng như ngay ở khu đất hoang vu
B́nh-Thạnh, cũng thuộc vùng địa lư Trảng-Bàng, dù là c̣n có chứng tích
của một nền văn minh cổ là ngôi tháp Chàm đă rêu phong. Vậy mà đối với
phần đông nhiều người ở miền Nam, th́ đều được họ kể coi như là những
địa phương hoàn toàn xa lạ chưa từng nghe biết. Ngay cả đối với những
thành phần dân cư bản địa láng giềng cũng vậy. Lúc bấy giờ, ngay tại
trung tâm thành phố Trảng-Bàng đă có nhiều người chỉ có từng được nghe
nhắc tới cái tên của xóm Tha-La mà thôi, chứ họ chưa bao giờ có dịp để
lê bước chân đến tận ở nơi nầy dù rằng từ đây đến đó cách xa nhau chỉ có
bằng một đoạn đường ngắn. Lư do, v́ lúc ấy nơi đây cảnh quang vắng vẻ
đất rộng người thưa, chỉ có độ chừng vài chục nóc gia sinh sống yên lành
hằng ngày với bàn tay cuốc bẫm cày bừa bên cạnh một ngôi giáo đường nho
nhỏ. Ngược ḍng thời gian, nếu khi xưa không có cuộc trường kỳ kháng
chiến của toàn dân nổi lên chống lại bọn thực dân đô hộ, th́ h́nh ảnh
nên thơ của cục đất Tha-La chẳng khác nào như là những nét đan thanh của
gấm vóc ruộng đồng ở các vùng lân cận thuộc huyện Trảng-Bàng. Toạ điểm
nầy, từ năm 1868 khi xưa vốn là một trụ sở Ty Hành-Chánh được lập thành
thuở dưới thời thuộc địa.
Đường vào bến nước Tha-La cách nay hằng thập niên
về trước là một con đường đá đỏ quạch nằm ngay khoảng giữa hai ngôi chùa
Phước-Lưu và Phước-Lâm, cạnh sân đá banh và đồng mả hoang vu kéo dài
theo lộ tŕnh đi tới bờ sông Vàm-Cỏ-Đông. Dạo ấy, hai bên đựng người ta
chỉ thấy có đồng ruộng ao bèo, trúc tre cao vút và lác đác từng những
căn nhà mái tranh vách đất nghèo nàn. Tuy nhiên, không v́ thế mà khách
nhàn du không thể nào không khỏi cảm khái khi thấy ḷng ḿnh bị ḥa ḿnh
vào trong cảnh vật thiên nhiên giữa bức họa đồng quê êm đềm đầy ấn tượng.
Ngoài ra, người ta cũng c̣n có thể xuống thuyền mượn ḍng kinh Gia-Lộc
xuôi về cầu Quan để vào thăm đất Tha-La, để thưởng thức mùi vị của vùng
có cây xanh trái ngọt và có dịp giao lưu thân thiết với dân cư sở tại
vốn chơn chất, từ lâu có truyền thống hiếu khách, hiền ḥa.
Suốt trong thời kỳ đất nước c̣n chiến tranh, th́
h́nh ảnh của cục đất Tha-La cũng đă được đi vào huyền thoại do một
nguyên nhân vô t́nh tạo ra, và từ đó nó được xem như là một địa danh đặc
biệt. Sự kiện nầy, giờ đây đă làm cho nhiều người từ ở khác miền thường
hay lưu ư, và họ cố t́m hiểu về thổ ngơi, địa lư cũng như về lịch sử của
vùng đất nầy. Và dẫu rằng, trước đây đă có những sách báo nói đến rất
nhiều về sự h́nh thành trở nên địa danh đầy gợi cảm của xóm vắng Tha-La.
Nhưng trên thực tế, th́ h́nh ảnh của xóm vắng nầy cần phải được bổ sung
thêm nhiều tài liệu loại trừ tính cách chủ quan, để xác thực làm cơ sở
vốn có yếu tố khả năng thuyết phục. Do vậy, cho nên trước hết người ta
cần phải nên khách quan để đưa ra những nhận định rằng chính rằng thổ âm
là một giọng nói riêng quen thuộc của từng địa phương. Do đó, mà hễ khi
người ta nghe thổ âm của hai địa phương ở cách xa nhau về địa lư, mà nếu
họ có những tiếng nói nào giống in nhau, th́ tức là họ đă có một sự liên
hệ tương quan ràng buộc với nhau ít nhiều về chủng tộc. Sở dĩ, tôi phải
gợi lại vấn đề nầy thêm một lần nữa là v́ muốn để được nói rơ ràng, là
vùng đất Tây-Ninh khi xưa có rất đông người Khmer cư ngụ, và có nhiều
nơi cũng được họ gọi là Schla * mà người Việt ḿnh nói trại ra là Thala.
Do vậy, cho nên người ta có thể nói rằng là nguồn gốc của từ Tha-La ở
Trảng-Bàng mà từ lâu đă được phổ biến trong dân gian, là được nói trại
ra dựa theo âm điệu của từ Schla (ngôn ngữ Khmer). Hơn thế nữa, ngoài
những cái tên Tha-La ở Tây-Ninh th́ ở những vùng miền Tây-Nam phần c̣n
có người Khmer cư ngụ bây giờ cũng có nhiều nơi hẻo lánh được gọi tên là
Tha-La. Tuy nhiên, ngay cả ở cạnh Tây-Ninh là B́nh-Dương cũng có ấp tên
gọi Tha-La là nơi có thắng cảnh đập Ḷng-Hồ, và một ḥn núi nhỏ cũng có
tên Tha-La nằm trong quần thể của núi Lấp-Ṿ mà người dân địa phương lâu
đời từng quen gọi tên là núi Cậu.
Sau ngày thống nhất nước nhà, thỉnh thoảng tôi được
về thăm lại mồ mả tổ tiên, bà con ruột rà, làng mạc quê cũ, th́ lần nào
tôi cũng có dịp nh́n thấy h́nh hài yêu mến Tha-La bây giờ không c̣n
nguyên vẹn giống thuở nào. Ngày xưa, khoảng từ một thế hệ đời người th́
mảnh đất bé nhỏ nầy vốn đă là vùng nông nghiệp có ruộng lúa xinh tươi,
trái cây xanh mượt cam, quít, chuối, chanh. Và cũng không thiếu chi
những nông sản phụ như nào là đậu phộng, mía, khoai ḿ, dưa cà, rau quả
v.v cùng nhiều loài cỏ lạ, hoa cau, hoa bưởi hương thơm phảng phất, tỏa
ra nhè nhẹ trong bầu không khí trong lành. Ngày nay, thế hệ trẻ sau nầy
lớn lên đều có khuynh hướng ly nông, ly hương cho nên phần đông đă về
thành phố sinh sống hoặc đi làm công nhân viên cho các khu công nghiệp
trong thị trấn Trảng-Bàng. C̣n thực tế bây giờ, th́ nó đă bị từ từ lột
xác, hoàn toàn đổi thịt thay da không c̣n thơ mộng được như xưa. Phố sá,
quán hàng xinh xắn thay nhau mọc lên san sát kéo dài tới cạnh bờ sông
Vàm-Cỏ-Đông. Ngoài những đồng ruộng, khoảnh vườn trồng trọt hoa màu c̣n
sót lại, th́ nhà cửa thi nhau xây cất, tiệm tùng nhậu nhẹt cũng được tân
trang chào đón khách hàng, đặc biệt là món ăn heo mọi quay nướng hiện
nay rất có sức hấp dẫn thực khách. Và những tṛ chơi hội chợ thỉnh
thoảng được tổ chức vui nhộn, do nhóm người đồng tính luyến ái kéo nhau
tụ tập về đây sinh sống. Nh́n trong tầm mắt ra tới bờ sông từ dưới chân
cầu Quan bây giờ là một băi đậu xe tải chuyển hàng, xe xúc đất làm đường
hoạt động không ngừng bên cạnh khu công nghiệp An-Ḥa mở rộng có công
nhân làm việc ra vào tấp nập. Nói cách khác, h́nh ảnh sinh hoạt của Tha-La
trên con đường hiện đại hóa bây giờ, đă làm cho nhiều du khách phải tỏ
ra thất vọng với giấc mộng ngày nào mong sẽ có dịp đến thăm miền đất có
"lá rừng cao vàng rụng lá rừng bay". Và viếng ở ngôi nhà thờ, có những
con chiên ngoan đạo nguyện cầu ơn thánh Chúa dưới bầu trời có "gió đùn
quanh mây trắng".
Thời tiền chiến 1945, th́ đất Tha-La vốn là một
trục lộ nhỏ, là vùng địa lư đi vào ngơ cụt do bị ḍng Vàm-Cỏ Đông án ngữ.
Do vậy, người dân Tha-La may mắn có được rất nhiều yếu tố về địa lợi để
ḥa ḿnh vào với thiên nhiên và sống một cuộc đời hạnh phúc, an b́nh.
Hơn thế nữa, lúc bấy giờ th́ nơi thôn trang vắng vẻ nầy duy nhất chỉ có
một cái nhà thờ nhỏ, và chừng vài chục nóc gia có những tín đồ ngoan đạo
hằng ngày thường xuyên đến nguyện cầu thọ ân phép lành của Đức Chúa. Họ
đạo và nhà thờ Tha-La từ lâu đă có một bề dày lịch sử từ thuở thời ông
Coximo Nguyễn-văn-Trí (nguyên là một chức vị cao trong họ đạo) cùng với
vài gia đ́nh con chiên ở từ Huế trốn vào Nam để lẩn tránh cuộc truy sát
gắt gao của triều đ́nh nhà Nguyễn dưới trước cả thời vua Tự-Đức ban hành
sắc dụ 1859 lúc bấy giờ. Sau khi đến đất Tha La, t́m được nơi nương náu
an toàn th́ ông liền tổ chức khẩn hoang lập xóm, làm ruộng, trồng cây
trái, hoa màu. Đồng thời, ông cũng lén lút truyền bá trong công tác
hoằng pháp với những gia đ́nh người lương ở láng giềng. V́ là người đầu
tiên dấn thân có công gieo trồng hạt giống thiên thần Bác-Ái ở nơi nầy,
cho nên về sau ông cùng với một số giáo dân đă phải chịu hi sinh tử v́
đạo pháp vào năm 1869 trong ngục thất. Trước lúc bấy giờ, v́ t́nh h́nh
trong hoàn cảnh không gian phức tạp do thỉnh thoảng đă có xảy ra những
cuộc xung đột lương giáo. Và cũng để cố che mắt triều đ́nh qua sắc chỉ
cấm đạo, cho nên h́nh thức của nhà thờ dạo ấy thường được ngụy trang
dựng lên trong những căn nhà tranh vách đất có gia đ́nh người ở quanh
xóm nhỏ dưới chân cầu B́nh-Thủy vùng Trường-Đà hoặc ở Vàm Trảng. Và do
vậy mà từ trước năm 1840 th́ các tín hữu nào muốn nhận được các phép bí
tích, th́ thường phải đi về tới Chợ-Quán (Sàig̣n) hay lên tận Lái-Thiêu
(Thủ-Dầu-Một). Về sau, do trục lộ giao thông có phần nào được dễ dàng
quen thuộc, cho nên thỉnh thoảng mới có các Cha họ đạo khác đến làm phúc
cho các giáo dân. Giờ đây, trải qua bao thế hệ th́ con số tín đồ
Thiên-Chúa ngày một tăng thêm và h́nh thể kiến trúc nhà thờ cũng đă được
xây cất lại hoàn toàn thay đổi có khác với h́nh ảnh ngày xưa cảnh cũ. Và
bây giờ, theo tổ chức của công giáo th́ họ đạo Tha-La trực thuộc địa
phận Phú-Cường, huyện Thủ-Dầu-Một, tỉnh lị B́nh-Dương.
Tiền đề trên đây nếu chỉ có vậy thôi, th́ Schla
Trảng-Bàng nào có khác chi với những vùng Schla vắng vẻ quạnh hiu khác ở
rải rác miền Tây Nam phần. Vậy nguyên nhân chính nào đă làm cho Tha-La
Trảng-Bàng trở thành một địa danh bất hủ. Và dĩ nhiên, th́ trước hết
phần đông điều mà ai cũng biết đó là do chính nhờ có bài thơ " Tha-La
Xóm Đạo" (1) nổi tiếng của thi sĩ Vũ-Anh-Khanh c̣n để lại sau khi tác
giả qua đời. Cũng giống như trường hợp bài thơ tuyệt tác 'Màu Tím Hoa
Sim" của thi sĩ Nguyễn-Hữu-Loan đă được phổ thành nhạc để đời. Nhưng bài
thơ " Tha-La Xóm Đạo" của Vũ-Anh-Khanh th́ thêm vào đó, nó c̣n có tác
dụng hàm chứa ảnh hưởng trải ra bề rộng lớn hơn nhờ vào những yếu tố của
nguyên nhân tế nhị khác. Ngoại lệ hi hữu đó, nay cũng lại là một dịp để
làm cho người ta thường hay nhắc tới một tác phẩm văn chương rất ngắn
khác sau nầy của tác giả Thích-Nhất-Hạnh là "Bông Hồng Cài Áo". Chỉ với
nội dung cốt truyện chừng vài trang giấy, chuyên chở ư niệm tuyệt vời về
t́nh yêu Mẹ, mà bây giờ nó đă có tác dụng được truyền bá sâu rộng vào
trong ảnh hưởng phong tục của dân gian.
Trở lại thân thế của Vũ-Anh-Khanh và tư liệu về bài
thơ nổi danh đặc biệt đó, th́ hiện nay mọi sự việc đánh giá sưu khảo vẫn
c̣n được coi như là đang ở trong t́nh trạng bỏ ngơ, để mong đón chờ mọi
sự đóng góp ư kiến toàn bích bổ sung. Tuy nhiên, như mọi người đều biết
về địa lư th́ Tha-La cũng như các cục đất quanh vùng Trảng-Bàng đều
giống in nhau, có nghĩa là nơi đây không có núi non, thành quách cổ xưa
ǵ để có thể được gọi là danh lam thắng cảnh. Ngoại trừ dấu tích của một
ngôi tháp cổ mà dân làng quen gọi là tháp Chàm nho nhỏ, nhưng được các
nhà khảo cổ nghiên cứu cho là di sản của nền văn hóa, văn minh Óc-Eo
hoang phế hàng thế kỷ đă rêu phong ở B́nh-Thạnh.
Tháp cổ B́nh-Thạnh
Tháp cổ B́nh-Thạnh
Ngay cả trong suốt thời kỳ chiến tranh trước năm
1954, dù Tha-La không bao giờ quay lưng với cộng đồng dân tộc nhưng trên
thực tế lúc bấy giờ, th́ cục đất Tha-La cũng chưa hề có dấu vết của
chiến tranh tàn phá nặng nề đến nỗi như "bao năm qua khói loạn phủ mịt
mù" mà ở đây cũng lúc bấy giờ, Tha-La lại có niềm tự hào t́nh tự khác
hơn là đă có những "người nước Việt ra đi v́ nước Việt". Và đó mới là
h́nh ảnh nét đẹp lưu truyền của các chàng trai Tha-La anh tuấn năm xưa
đă xếp việc bút nghiên, để hăng hái lên đường theo tiếng gọi của hồn
thiêng tổ quốc.
Trong bài thơ đầy cảm hứng tuyệt vời của họ Vũ đă
có sức gợi cảm nhiệt t́nh cho người thưởng thức, và làm cho họ phải bị
chi phối rất nhiều về mặt tinh thần. Với ư thơ ngọt ngào, lời thơ b́nh
dị, nồng nàn, nhịp thơ nhẹ nhàng, gần gũi, hồn thơ man mác có tác động
mănh liệt làm lay chuyển vào được tâm hồn nhạy cảm của con người. Và
người ta c̣n có dịp, để t́m thấy tận đáy ḷng của ông đă chứa chan một
niềm tâm sự gói ghém nhiệt thành trong t́nh yêu thánh Chúa. Và nghĩa vụ,
với bổn phận của những người con yêu đất nước trong thời kỳ kháng chiến
chống giặc xâm lăng tàn phá quê hương. Do vậy, có thể rất nhiều người từ
lâu chưa từng được đặt chân đến đất nước Tha-La, th́ có thể dễ dàng bị
t́nh cảm con tim xung động qua màu sắc thiên nhiên ḥa quyện trữ t́nh ở
chỗ nào là " đây rừng xanh rừng xanh", nào là "đây mênh mông xóm đạo với
rừng già". Cho nên, có thể họ lại c̣n càng tưởng tượng ra thêm về bối
cảnh của không gian địa lư nầy, lúc bấy giờ, thực tế vốn đă là một mảnh
đất ruộng đồng xanh tươi, cây trái sum suê đă phải bị vô t́nh trở thành
một nơi hoang vắng có cây cối âm u, rậm rạp.
Hơn thế nữa, cùng với ảnh hưởng lưu truyền của
những bài ca, tiếng hát được phổ nhạc ra từ bài thơ "Tha La Xóm Đạo",
cho nên cục đất nầy nghiễm nhiên đă được rất nhiều người nghe biết. Và
họ lại vội vă kết luận khẳng định cho rằng, là chỉ có Vũ-Anh-Khanh là
người duy nhất đă biến cục đất nầy trở thành một địa danh lịch sử. Sự
kiện nầy cần phải được đánh giá nghiêm túc lại, để nghiên cứu, đào sâu
làm sáng tỏ nhiều hơn nữa. Vả lại, nếu xưa nay công tŕnh nghiên cứu
lịch sử của vấn đề được coi như là một bức tranh công phu cần phải được
tô bồi bằng những nét vẽ đứt quảng. Và nếu quả vậy, th́ người ta lại
càng không thể loại trừ ảnh hưởng sâu đậm trong mấy vần thơ sau đây
trong bài " Tha-La Xóm Đạo" đă có tác dụng gợi ư mạnh mẽ về quan niệm
nhân sinh vào trong cuốn tiểu thuyết "Đời Tươi Thắm" của nhà văn
Thẩm-Thệ-Hà xuất bản vào năm 1956.
- " Ờ ơ hơ...có một đám chiên lành
- Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy
- Quỳ cạnh Chúa đám chiên lành run rẩy
- Lạy đức thánh Cha
- Lạy đức thánh Mẹ
- Lạy đức thánh Thần
- Chúng con xin về cơi tục để làm dân
- Rồi...cởi trả áo tu
- Rồi...xếp kinh cầu nguyện
- Rồi...nhẹ bước trở về trần"
Tác phẩm nầy, được tác giả dàn dựng lên trong khung
cảnh ở ngay cạnh tại giáo đường Tha-La nên thơ vắng vẻ. Và cũng nhằm có
mục đích, là để đối chọi lại với quan niệm về nhân sinh ở phần kết cuộc
với cuốn tiểu thuyết lừng danh của nhà văn Khái-Hưng trong Tự-Lực
Văn-Đoàn. Nếu nói thêm về t́nh tiết, th́ dạo ấy cuốn sách nầy bán rất
chạy, v́ đây là lần đầu tiên đă có một nhà văn miền Nam nhập cuộc gián
tiếp chỉ trích, phê b́nh cuốn tiểu thuyết "Hồn Bướm Mơ Tiên" lúc bấy giờ
vốn là một loại cảo thơm đang được các giáo sư sử dụng khai thác, để
giảng dạy trong chương tŕnh giáo dục học đường. Tuy nhiên, người ta
cũng đừng quên rằng, dạo ấy, chính cây bút sắc bén, có tầm cỡ của miền
Nam là Thẩm-Thệ-Hà lúc bấy giờ cũng từng đă có những tác phẩm văn chương
vị nhân sinh cá biệt chuyên chở rất nhiều trọng lượng về văn học, mà
người ta được biết qua các sách vở và báo chí hằng ngày. V́ thế, mà ảnh
hưởng của câu chuyện mối t́nh rực nắng trong độ tuổi đôi mươi bên Tha-La
xóm đạo được lồng vào trong cuốn tiểu thuyết " Đời Tươi Thắm" của ông
rất có nhiều tiếng vang, do được nhiều nguời ham mộ. Và làm cho hàng độc
giả bốn phương phải biết tới nhà thờ và họ đạo Tha-La trên mảnh đất yên
lành, nên thơ, hoang vắng. Chúng ta chỉ thử lướt qua một đoạn văn ngắn
súc tích, tả về cảnh các giáo dân quanh vùng tưng bừng nô nức, vui vẻ rủ
nhau đi xem lễ ở giáo đường Tha-La trong ngày trọng đại đón mừng giáng
sinh Đức Chúa ra đời:
(Trên con đường đỏ quạch, từng đám dân lành lũ lượt
kéo nhau đi. Ánh nắng mai lỗ đỗ rụng trên đầu. Tiếng chim ca ngợi b́nh
minh và tiếng gíó reo vui trên cành lá. Những câu chuyện thân mật vang
lên ḥa nhịp như một khúc thanh b́nh)...
Cuốn sách nổi tiếng "Đời Tươi Thắm" của Thẩm-Thệ-Hà
ra đời và được phổ biến rộng rải, sau thời điểm của hiệp định đ́nh chiến
Genève vừa đă phân chia đất nước Việt-Nam. C̣n tác giả của cuốn sách "Nửa
Bồ Xương Khô" là Vũ-Anh-Khanh, th́ đă tập kết ra Bắc vào mùa Thu năm
1954. Do vậy, dạo ấy tại miền Nam các tác phẩm của ông đều được hạn chế
lưu hành. Và điều nầy, đă làm cho những từng lớp thành phần thế hệ nào
đó chưa thể có dịp, để được đọc qua bài thơ "Tha-La Xóm Đạo", vốn được
coi như là khúc nhạc dạo đầu của cuốn tiểu thuyết lừng danh một thuở của
nhà văn nặng kư Vũ-Anh-Khanh. Do vậy, dù không cần đem ra để đánh giá,
đo lường về ảnh hưởng của hai cuốn tiểu thuyết đă nặn ra một h́nh ảnh
diệu hiền của xóm đạo Tha-La. Nhưng người ta cũng không thể nào dám lên
tiếng phủ nhận, về nguyên nhân đă đưa đến sự kết thành được một mẫu số
chung về t́nh cảm yêu thương, trữ t́nh bên Tha-La xóm đạo.
Hơn thế nữa, ngược ḍng thời gian kể từ thời kỳ từ
năm 1947 trở về sau th́ t́nh bạn giữa Thẩm-Thệ-Hà và Vũ-Anh-Khanh càng
trở nên thân thiết hơn, do cùng khuynh hướng với nhau trong chủ trương
sáng tác văn nghệ và cùng làm báo. Vẫn ngược ḍng thời gian trước đó
nhiều tháng c̣n trong năm 1949, trước lúc xảy ra đám tang của
Trần-Văn-Ơn (9-1-1950) khi mà chính quyền thuộc địa dạo ấy đă lập tức
đóng cửa các pḥng trọ dành cho học sinh nội trú tại các trường trung
học lớn ở Sài-G̣n như Pétrus-Kư, Gia-Long, v́ sợ các cuộc tập họp được
dễ dàng để gây sách động tham gia các cuộc biểu t́nh đ̣i yêu sách. Và
cũng trước khi nổ ra sự cố đấu tranh quyết liệt của sinh viên, học sinh
trong bối cảnh lịch sử ngột ngạt lúc bấy giờ. T́nh trạng đó, đă làm cho
nhiều nhà báo yêu nước từng dấn thân dùng ng̣i bút đấu tranh cho lư
tưởng tự do, giành độc lập cho quê hương không khỏi phải thêm suy tư,
trăn trở. Chính ngay vào trong thời điểm không gian ấy, mà lần đầu tiên
Vũ-Anh-Khanh mới có dịp về quê hương của Thẩm-Thệ-Hà. Và lưu lại ở đây
khá lâu, để cùng ăn Tết luôn trong năm đó tại Trảng-Bàng.
Trong thời gian lưu trú tại đây, ngày nào
Thẩm-Thệ-Hà cũng chèo ghe đưa Vũ-Anh-Khanh ngao du theo sông rạch để thư
dăn bơi lội câu cá, hái sim, khi th́ đèo ông trên chiếc xe đạp chạy ra
các làng thôn cách xa ngoài thành phố để dạo chơi ngắm cảnh. Thuở ấy,
Trảng-Bàng c̣n quê mùa, không được mở mang và dân cư thưa thớt. Có hai
địa điểm được hai ông đến chơi thích thú và thường trở đi, trở lại để
t́m nguồn cảm hứng tâm hồn. Đó là xóm vắng Tha-La và Sông Đua. Và như
tôi đă có dịp tŕnh bày ở phần trên, là thân thế của tác giả cũng như tư
liệu về bài thơ " Tha-La Xóm Đạo" hiện nay c̣n đang bỏ ngơ v́ lư do có
thể cần phải được hiệu đính lại điều sai sót bởi tác giả của nó đă qua
đời? Và điều nầy, cũng không sao có thể tránh khỏi được với trường hợp
đặc biệt về bài thơ "Trường Thành Sông Đua" của Thẩm-Thệ-Hà.
Tóm lại, dầu sao th́ ngày xưa khi Tha-La c̣n cái
hồn làng mạc chơn chất, th́ t́nh người nơi đây vẫn đẹp, duyên quê duyên
dáng, hài ḥa cuộc sống người người, thật là lư tưởng cho những ai muốn
t́m về hạnh phúc ở tâm hồn, nhất là bên cạnh ngôi giáo đường bé nhỏ xinh
xinh, tôn nghiêm phụng thờ ơn thánh Chúa. Cho nên vào lúc bấy giờ, Tha-La
thủy chung đương nhiên cũng vẫn lại là một địa danh đích thực, mà không
cần đến một phương cách ca tụng hóa trang được tô son điểm phấn của bất
cứ những loại h́nh thể văn chương bóng bẩy nào.
Tuy nhiên, thế rồi bẳng đi sau một thời gian nhiều
năm dài ngủ yên, th́ cục đất Tha-La lại trở ḿnh thức gấc. Đó thờ́ kỳ mà
Tha-La đă bỗng dưng trở thành mảnh đất dụng vơ của đảng phái, đă chọn
lựa vùng đất nơi nầy để làm thí điểm địa bàn nhằm đẩy mạnh phong trào,
phát triển cơ sở. Dạo ấy, địa danh Tha-La lại càng được thêm nhiều người
biết đến v́ màu sắc động đậy về chính trị hơn là xóm đạo, dù là sự kiện
nầy chỉ xảy ra trong một giai đoạn ngắn ngủi mà thôi. Tuy nhiên, nguời
ta phải thực tế khách quan nói rằng lấy cái mốc thời gian của định mệnh
lịch sử được kể từ vào đầu Xuân 1974, và mùa Xuân 1988. Với những đề tài
thời sự nhạy cảm được cập nhật hóa trên b́nh diện quốc tế, về vấn đề
tranh chấp chủ quyền lănh hải ở biển Đông giữa các quốc gia liên quan
trong khu vực lúc bấy giờ, th́ địa danh Tha-La mới vĩnh viễn được coi
như là đă đi vào huyền thoại.
Sự kiện nầy, từ lâu đều đă được hầu hết nhân dân,
tất cả đồng bào ai cũng biết. Đó là do có sự quyết tâm chiến đấu bảo vệ
lănh thổ của dân tộc, xảy ra trong những trường hợp trùng ngẫu đặc biệt
khác thường. Và ư nghĩa tinh thần tiêu biểu về sứ mạng trung thành hi
sinh cho tổ quốc của bao người chiến sĩ đó, xưa nay, không khác ǵ với
lại h́nh ảnh của những vị Bồ-Tát vị tha từng ra tay bác ái để lấy thân
ḿnh cứu khổ, độ nhân trong lúc tai biến hiểm nguy. Và sự kỳ diệu nầy,
đă vô t́nh đan kết tạo thành một bức tranh in h́nh tấm huy chương "vị
quốc vong thân" chói rạng về mặt tinh thần, nghĩa vụ của hàng hàng đứa
con gương mẫu từng đứng lên thề nguyền dấn thân làm đẹp quê hương, tận
trung báo quốc. Và nếu phải nói theo thể xác định về danh dự ở hàng đầu
đó, th́ chính là do có sự đóng góp hi sinh cao quư của hầu hết những vị
anh hùng liệt sĩ đă can đảm, hiên ngang cùng nhau nhất tề quyết tâm bảo
vệ non sông tổ quốc từ vùng trời, vùng đất, vùng bể khơi, hải đảo.
Do vậy, trong mọi trường hợp nào tôi cũng xin kính
cẩn được nghiêng ḿnh trước vong linh của những vị anh hùng chiến sĩ vô
danh, vị quốc vong thân. Và thành tâm tạ tội, v́ không thể biết hết được
tất cả quư danh của từng những đứa con yêu mến của dân tộc để tôn vinh.
Chính v́ lẽ đó mà tôi chỉ c̣n lại cơ hội duy nhất,
để nói về nguyên khí miền đất thiêng liêng Tha-La xóm đạo của quê hương
tôi từng tự hào. V́ nó đă từng có dịp hiến dâng một đứa con ưu tú, tài
hoa làm rạng rỡ xóm làng, một người bạn đồng hương gần gũi, chân thành,
thân thiết. Một vị anh hùng chiến sĩ can cường, bất khuất đă hiên ngang
xả thân quyết tâm chiến đấu với giặc xâm lăng để bảo vệ non sông trên
hải đảo Hoàng-Sa trong một trận thư hùng. Và oanh liệt phi thường, cho
đến phút cuối cùng đă anh dũng hi sinh đền nợ nước, để lại tấm gương măi
măi ngh́n thu bằng những nét son tô đậm được vinh danh ghi tạc ở bia
vàng **.
An-Tiêm MAI-LƯ-CANG (Paris Xuân Nhâm-Th́n
2012)
(*) - Schla có nghĩa là khu nhà mát, nhà lồng, hay
cái trạm hoặc cái trại.
(**) - Ngụy-văn-Thà, cố Trung-Tá Hải-Quân Hạm
Trưởng Nhựt-Tảo HQ10 sinh trưởng tại Tha-La, nguyên là học sinh trường
Cao-Đẳng Trảng-Bàng, Tây-Ninh.
- Ghi chú:
Đề tài thời sự nhạy cảm tranh chấp về chủ quyền ở
biển Đông, hiện nay đă được hầu hết các phương tiện truyền thông quốc tế
thường xuyên theo dơi t́nh h́nh diễn biến. Đặc biệt, là về hai trận hải
chiến ở quần đảo Hoàng-Sa, Trường-Sa giữa Việt-Nam và Trung-Quốc. Và có
dịp phổ biến rộng răi về trường hợp của vị hạm trưởng anh hùng, đă tuẫn
tiết theo chiến hạm Nhựt-Tảo HQ10.
(1)-Sau đây là nguyên văn của bài thơ
" Tha-La Xóm
Đạo"
Đây Tha-La xóm đạo
Có trái ngọt, cây lành
Tôi về thăm một dạo
Giữa mùa nắng vàng hanh
Ngậm ngùi Tha-La bảo:
Đây rừng xanh, rừng xanh
Bụi đùn quanh ngơ vắng
Khói đùn quanh nóc tranh
Gió đùn quanh mây trắng
Và lửa loạn xây thành
Viễn khách ơi! Hăy
dừngchân cho hỏi?
Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo
rưng rưng
Đây Tha-La, một xóm đạo
ven rừng
Có trái ngọt, cây lành im
bóng lá
Con đường đỏ, bụi phủ mờ
gót lạ
Ngày êm êm ḷng viễn khách
bơ vơ!
Về chi đây! Khách hỡi! Có
ai chờ?
Ai đưa đón?
Xin thưa. Tôi lạc bước!
Không là duyên, không là
bèo kiếp trước
Không có ai chờ, đưa đón
tôi đâu!
Rồi quạnh hiu, khách lặng
lẽ cuối đầu
T́m hoa rụng lạc loài trên
vệ cỏ
Ngh́n cánh hoa bay ngẩn
ngơ trong gió
Gạo rưng rưng, ngh́n hoa
máu rưng rưng
Nh́n hoa rơi, ḷng khách
bỗng bâng khuâng
Tha La hỏi? Khách buồn nơi
đây vắng!
Không. Tôi buồn v́ mây
trời đây trắng!
Và khách buồn v́ tiếng gió
đang hờn?
Khách nhẹ cười, nghe gió
nổi từng cơn
Gió vun vút, gió rợn rùng,
gió rít
Bỗng đâu đây vẳng véo von
tiếng địch
Thôi hết rồi! C̣n chi nữa
Tha-La!
Bao người đi thề chẳng trở
lại nhà
Nay đă chết giữa chiến
trường ly loạn!
Tiếng địch càng cao, năo
nùng ai oán
Buồn trưa trưa, lây lất
buồn trưa trưa
Buồn xưa xưa, ngây ngất
buồn xưa xưa
Ḷng viễn khách bỗng dưng
tê tái lạnh
Khách rùng ḿnh, ngẩn ngơ
người hiu quạnh
Thôi hết rồi! C̣n chi nữa
Tha-La!
Đây mênh mông xóm đạo với
rừng già
Nắng lổ đổ rụng trên đầu
viễn khách
Khách bước nhẹ theo con
đường đỏ quạch
Gặp cụ già đang ngóng gió
bâng khuâng
Đang đón mây xa...khách
bỗng ngại ngần:
Kính thưa Cụ, v́ sao Tha-La
vắng?
Cụ ngạo nghễ, cười rung
rung râu trắng
Nhẹ bảo chàng:- Em chẳng
biết ǵ ư?
Bao năm qua, khói loạn phủ
mịt mù
Người nước Việt ra đi v́
nước Việt
Tha-La vắng, v́ Tha-La đă
biết
Thương giống ṇi, đau đất
nước lầm than
Trời xa xanh, mây trắng nghẹn
ngàn hàng
Ngày hiu quạnh ...ờ...ơ...hơ...tiếng
hát
Buồn như gió lượn, lạnh
dài đôi khúc nhạc
Tiếng hát rằng:
Tha-La hận quốc thù
Tha-La buồn tiếng kiếm
Năo nùng chưa! Tha-La
nguyện hi sinh
Ờ...ơ...hơ...có một đám
chiên lành
Quỳ cạnh Chúa, một chiều
xưa lửa dậy
Quỳ cạnh Chúa, đám chiên
lành run rẩy
Lạy đức thánh Cha
Lạy đức thánh Mẹ
Lạy đức thánh Thần
Chúng con xin về cơi tục
để làm dân
Rồi...cởi trả áo tu
Rồi...xếp kinh cầu nguyện
Rồi...nhẹ bước trở về trần
Viễn khách ơi ! Viễn khách
ơi!
Người hăy ngừng chân
Nghe Tha-La kể...nhưng mà
thôi khách nhé!
Đất đă chuyển rung ḷng
bao thế hệ
Trời Tha-La vần vũ đám mây
tang
Vui ǵ đâu mà tâm sự!
Buồn làm chi cho bẽ bàng!
Ờ...ơ...hơ, ờ...ơ...hơ...tiếng
hát
Rung lành lạnh, ngân trầm
đôi khúc nhạc
Buồn tênh tênh, năo ḷng
lắm khách ơi!
Tha-La thương người viễn
khách quá đi thôi!
Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào
trông nắng đổ
Nghe gió thổi như trùng
dương sóng vỗ
Là rừng cao vàng rụng, lá
rừng bay...
Giờ khách đi, Tha-La nhắn
câu nầy:
Khi hết giặc, khách hăy về
thăm nhé!
Hăy về thăm xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tha-La dâng ngàn hoa gạo
Và suối mát rừng xanh
Xem đám chiên hiền thương
áo trắng
Nghe trời đổi gió, nhớ
quanh quanh...
Vũ-Anh-Khanh
Nhà thờ Tha-La
Trảng-Bàng
(Chú thích
thêm :- Các h́nh ảnh đẹp trong bài nầy được trích ra từ trên mạng).
***********************
Post ngày:
10/19/17
|