CA DAO BÌNH
ÐỊNH.
ÐÀO ÐỨC BÍCH
Bình Ðịnh nổi tiếng
không những có anh hùng Quang Trung Ðại đế Nguyễn Huệ bách chiến
bách thắng phá tan quân Thanh ở phía Bắc, đánh bại quân Xiêm ở
phía Nam, Bình Ðịnh còn là một địa danh nổi tiếng khắp nước Việt
nam về võ thuật mà ngay cả đàn bà, con gái vẫn biết côn, quyền
qua câu ca dao:
“Ai về Bình định mà coi
Con gái Bình Ðịnh cầm roi đi
quyền”
Nhiều sản phẩm nổi tiếng
ở Bình Ðịnh: khi thăm viếng, người ta thường mua làm quà để tặng
cho nhau những đặc sản đẹp, cổ truyền biểu tượng tấm lòng chung
thủy của người con gái:
“Nón ngựa Gò Găng
Bún Song thần An Thái
Lụa Ðậu tủ Nhơn Ngãi
Xoài tượng chín Hưng Long
Mặc ai mơ táo ước hồng
Lòng quê em giữ một lòng trước
sau”
Ðôi trai gái quen nhau,
lâu ngày chàng từ giã nàng về thăm quê nhà, nhưng quá kỳ hẹn mà
không thấy trở lại, nàng vừa hái dâu vừa đếm từng lá dâu, tính
từng ngày xa cách:
“Anh về Bình Ðịnh chi lâu
Bỏ em ở lại hái dâu một mình”
hoặc là:
“Anh về Bồ Ðịch, Giếng Vuông,
No cơm ấm chiếu
luông tuồng bỏ em”
Ngày xưa ở Việt Nam, đàn
bà con gái giỏi nội trợ, biết làm bếp và nấu cơm. Có một số các
cô con nhà giàu được cưng chìu, một số cô khác vì tuổi còn nhỏ
chưa có kinh nghiệm trong việc nấu nướng, thổi cơm không chín:
“Tiếng đồn con gái Phú Trung
Nấu cơm không chín mở vung xem
hoài
Tiếng đồn con gái Phú Tài
Nấu cơm không chín đốt hoài cơm
khê”
Có những câu đối đáp
giữa trai gái dưới ánh trăng thanh trong ngày mùa, hoặc trong
đêm trăng giã gạo, hoặc các cô vừa cấy lúa vừa hát hò và đật câu
hỏi đến người con trai:
“Tiếng đồn anh hay chữ
Tài ngang Cử, Tú
Lại đây em hỏi một đôi câu
Ngọt ngay nước chảy dưới cầu
Gọi cầu Nước Mặn cớ bởi đâu hỡi
chàng”
hoặc là:
“Tiếng đồn anh hay chữ
Thường đọc sách Kinh Thi
Hỏi anh ông Văn Vương đi cưới
bà Hậu Phi năm nào?”
Chúng ta nghe tâm sự của
người dân thương mến chú Lía, người đã làm việc nghĩa, chia sớt
phần tiền thặng dư của người giàu đến những người nghèo khó và
đã bị quân triều đình bao vây:
“Chiều chiều én liệng truông
Mây
Cảm thương chú Lía bị vây trong
thành”.
Bình Ðịnh có những hòn
tháp đẹp như Tháp Ðôi, tháp Cánh Tiên, có Cầu Ðôi nước chảy hai
dòng, có đèo An Khê mịt mù mây phủ:
“Cầu Ðôi đứng cạnh Tháp Ðôi
Ðôi ta đẹp lứa đẹp đôi trên đời”
hoặc:
“Nước trên nguồn chảy tuôn ra
biển
Cảm thương người một kiểng hai
quê
Cầu Ðôi liền lối đi về
Mịt mùng mây phủ An Khê, Phú
Tài”.
hoặc:
“Ngó lên hòn tháp Cánh Tiên
Cảm thương ông hậu thủ thiền ba
năm”.
Câu ca dao dưới đây nhiều người đã
nghe và thuộc lòng từ khi còn nhỏ, mãi đến lúc tuổi về chiều vẫn
nhớ rành rành, qua sự đối đáp của người mẹ và người con:
“Mẹ ơi đừng đánh con đau
Ðể con bắt ốc hái rau mẹ nhờ
Bắt ốc, ốc lủi vô bờ
Hái rau, rau héo mẹ nhờ gì
đâu?”
Ðập Ðá là thị trấn thường được
nhắc tới trong ca dao Bình Ðịnh:
“Anh về Ðập Ðá đưa đò
Trước đưa quan khách sau dò ý
em”
hoặc:
“Anh về Ðập Ðá quê cha
Gò Găng quê mẹ, Phú Ða quê
nàng”.
Người con trai đi đường tán tỉnh
người con gái và buông thả nhiều lời hứa hẹn, người con gái muốn
buộc chặt những lời hứa nầy với người quen thấy mặt và Thần Ðình
chứng giám:
“Giữa đường không tiện nói năng
Xửng mưa cùng xuống Gò Găng tỏ
tình
Gò Găng có chợ có đình
Người quen thấy mặt Thần Linh
chứng lời”
Gò Bồi, Cách Thử, Vũng Nồm là
những nơi cung cấp nhiều cá, tôm ngon, ai đi qua cũng nhớ đến
mùi nước mắm:
“Gò Bồi có nước mắm cơm
Ai đi cũng nhớ cá tôm Gò Bồi”
Măng le trên nguồn, cá chuồn dưới
vũng là những sản phẩm trao đổi giữa miền cao rừng núi và miền
biển:
“Ai về nhắn với nậu nguồn
Măng le gởi xuống cá chuồn gởi
lên”
hoặc:
“Em về dưới chợ Kỳ Sơn
Mua tôm mua cá đền ơn mẹ già”
Sông Côn, Lại giang là đề tài của
nhiều sử tích, nhiều câu chuyện tình phổ cập trong dân gian,
dòng sông cung cấp nước cho cánh đồng Bình Ðịnh, tô thêm duyên
sắc, sự chịu đựng đợi chờ của người con gái:
“Nước Lại giang mênh mang mùa
nắng
Giòng sông Côn lai láng mùa mưa
Ðã cam tháng đợi năm chờ
Duyên em đục chịu trong nhờ
quản bao”
Bồng Sơn, Tam Quan là xứ dừa Bình
Ðịnh, dừa nhiều đến nỗi không thể nào tưới nổi:
“Công đâu công uổng công thừa
Công đâu gánh nước tưới dừa Tam
Quan”
Ðồng Phó, Hà Nhung là nơi nổi
tiếng về khoai lang, đậu phộng:
“Củ lang Ðồng Phó
Ðậu phộng Hà Nhung
Chồng bòn, vợ mót bỏ chung một
gùi
Chẳng qua duyên nợ sụt sùi
Chàng giận chàng đạp cái gùi
văng đi...”
Nước uống càng đi lên nguồn là
nước càng trong, món ăn càng xuống gần biển càng nhiều tôm nhiều
cá:
“Muốn ăn đi xuống, muốn uống đi
lên
Quán Ngỗng Gò Chim Cầu Chàm Ðập
Ðá
Vũng Nồm nhiều cá, Vũng Bấc
nhiều tôm
Chợ chiều bán cơm, chơ mai bán
gạo”
Người con gái bán nước trà xanh
tại chợ Quán Mới thôn Lộc Thuận, Nhơn Hạnh, nổi tiếng là gái đẹp
với mái tóc huyền và nụ cười duyên với má lúm đồng tiền, hàm
răng hạt lựu đều đặn làm dừng bước giang hồ, chạnh lòng người lữ
thứ:
“Ði đâu vội vã anh ơi
Ghé chợ Quán Mới anh xơi chén
trà
Hỏi em cha mẹ có
nhà
Trước là thăm Bác
sau là thăm em”
Ngày xưa, trai Bình Ðịnh ra Huế
thi, khi về mời gọi gái Huế theo chàng đến nơi có biển Ðông sóng
vồ, Tháp chàm ghi sử tích anh hùng hào kiệt:
“Mảng vui Hương thủy, Ngự Bình
Ai vô Bình Ðịnh với mình thì vô
Chẳng sang chẳng lịch bằng đất
kinh đô
Nhưng Bình Ðịnh không đồng khô
cỏ cháy
Ba dòng sông chảy, bảy dãy non
cao
Biển Ðông sóng vỗ dạt dào
Tháp xưa làm bút ghi tiếng anh
hào vào mây xanh”
Có những câu trong dân gian trách
cứ nhau:
“Giếng sâu thăm thẳm
Con chim trên cây cao nó đổ tăm
tăm
Nghĩa nhơn anh tích để ngàn năm
Lẽ gì sớm viếng tối thăm duyên
chàng
Nào ai ngờ bụng em ở dở dang
Sao mê xứ khác không phụ phàng
đến ta đâu
Hồi nào anh nói em
trao
Anh chờ em đợi
tòng cao bá tàn
Thôi thôi em ở dậy
dương gian
Chồng em em giữ
chứ nghĩa chàng em đừng quên”
Có nhiều chàng trai
tham lam tán gái nhiều cô, bắt cá hai tay, cá không bắt được,
chim bay mất về rừng:
“Chợ chiều nhiều
khế ế chanh
Nhiều con gái quá
cho nên anh chàng ràng
Chàng ràng bắt cá
hai tay
Cá kia sẩy mất,
chim bay về rừng”
Chợ Dinh được nhắc
qua câu ca dao sau:
“Chợ Dinh bán nón
quan hai
Bộ tua quan mốt,
bộ quai năm tiền”
Dù rằng túng thiếu,
giấy rách phải giữ lề, ăn mặc chỉnh tề:
“Ở đất ta nam
thanh nữ tú
Sang đất nàng vượn
hú chim kêu
Dù rằng anh hết
gạo treo niêu
Cũng thắt dây lưng
đỏ, bịt khăn điều thảnh thơi...”
Ðôi khi người con gái
phải xử trí khéo léo để tiện lợi đôi đàng:
“Giếng sâu nhiều
mạch giếng trong
Em đây không phải
con dòng họ Phan
Cũng vì chút nghĩa
duyên chàng
Cho nên em phải
lập đàng xuống lên”
Người con gái trách
trò Ba, người học trò có lòng dạ đen tối như lông đen con quạ,
cánh đen con quạ:
“Con quạ đen lông
đen cánh
Ðỗ nhánh can cường
Trò Ba qủy quyệt
quyết lường duyên em”
Trai gái có những lúc
hẹn hò đối đáp nhau:
“Tới đây không hát
thì hò
Không phải con cò
ngóng cổ mà nghe”
hoặc:
“Tưởng rằng đó
địch cùng đây
Hay đâu đó giắt
ông thầy sau lưng”
Tính nết đứng đắn của
người con gái làm người con trai nể trọng:
“Ngó lên cây mít
ít trái nhiều xơ
Con gái lẳng lơ
trai kia bậy bạ
Con gái đàng hoàng
trai nọ dám đâu...”
Chúng ta đã nghe một
số câu đố phái nữ hỏi phái nam, và bây giờ chúng ta nghe nam hỏi
nữ:
“Tiếng đồn chị hay
chữ
Gái Bình Ðịnh có
tài
Nếu ông anh rể chị
bên trong bị con ong nó cắn mà xỉu thì làm thế nào chị cởi cái
quần dài anh rể chị ra?”
Ca dao Bình
Ðịnh gồm nhiều thể loại khác nhau được truyền tụng trong dân
gian qua nhiều thế hệ. Tôi sưu tập một số câu ca dao trên đây do
sự truyền khẩu của một số bạn bè và người quen quê quán Bình
Ðịnh, xin cống hiến quí vị để nhớ lại quê hương xứ sở nằm phía
bên kia bờ Ðại dương, nửa vòng quay trái đất:
“Ca dao Bình Ðịnh
thật hay
Câu thơ như giọt
rượu cay ấm lòng
Quê hương trái đất
nửa vòng
Ngày thương đêm
nhớ như mong mẹ về”
ÐÀO
ÐỨC BÍCH
Giai
Phẩm TÂY SƠN Xuân Canh Thìn 2000 |