|
Ca dao
cổ truyền người Việt với tính mơ hồ đa nghĩa trên b́nh diện ngôn ngữ văn
học
Nguyễn Hằng Phương
TS.Khoa Ngữ văn, ĐH Sư phạm, ĐH Thái Nguyên
0. Ngôn ngữ có vai tṛ đặc biệt quan trọng trong đời sống xă hội. Bởi
vậy, nghiên cứu ngôn ngữ từ nhiều góc độ đang trở thành nhu cầu tất yếu
hiện nay. ở nước ta, có thể nghiên cứu những vấn đề về lư thuyết ngôn
ngữ học; những vấn đề về tiếng Việt và các ngôn ngữ khác ở Việt Nam;
những vấn đề về tiếp xúc ngôn ngữ và dịch thuật; những vấn đề về dạy học
tiếng Việt, tiếng nước ngoài trong và ngoài nhà trường; những vấn đề về
ngôn ngữ tác phẩm văn chương. Trong đó, t́m hiểu ngôn ngữ với tư cách là
phương tiện biểu đạt của tác phẩm văn chương là một góc độ nghiên cứu
không mấy dễ dàng nhưng cũng đầy thi vị.
Nghiên cứu tính mơ hồ đa nghĩa trên b́nh diện ngôn ngữ văn học ở những
lời ca dao cổ truyền là vấn đề chúng tôi đặt ra trong bài viết này. Tuy
nhiên, do đặc trưng thể loại và trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi chỉ
nghiên cứu những biểu hiện tiêu biểu của tính mơ hồ đa nghĩa trong một
số lời ca dao cổ truyền. Nghiên cứu đó nhằm mục đích nhận diện tính mơ
hồ đa nghĩa trên b́nh diện ngôn ngữ cùng vai tṛ của nó ở những lời ca
dao cổ truyền, làm tiền đề cho sự b́nh giá có cơ sở và sự tiếp nhận sâu
sắc tác phẩm.
1. Khái niệm ca dao cổ truyền và tính mơ hồ
đa nghĩa trong văn học nghệ thuật
1.1. Khái niệm ca dao cổ truyền
Thuật ngữ ca dao đă từng được dùng với nhiều nghĩa rộng, hẹp khác nhau
"Theo nghĩa gốc th́ ca là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không có
khúc điệu" [5.26].
Và một thời "Ca dao là danh từ chung chỉ toàn bộ những bài hát lưu hành
phổ biến trong dân gian có hoặc không có khúc điệu" [5.26]. ở trường hợp
này, ca dao đồng nghĩa với dân ca.
Trên thực tế, khái niệm ca dao đă dần dần có sự thu hẹp nội hàm.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam "dùng danh từ ca
dao để chỉ riêng thành phần nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ) của dân ca
(không kể những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi).” [5.26]. Với nghĩa
này, ca dao là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất của thơ dân gian
truyền thống.
Sau cách mạng tháng Tám (1945), giới nghiên cứu nước ta đă sử dụng tập
hợp từ ca dao mới (hay ca dao hiện đại) để phân biệt với ca dao cổ (c̣n
gọi là ca dao cổ truyền). Như vậy, ca dao cổ (hay ca dao cổ truyền) là
khái niệm chỉ riêng thành phần nghệ thuật ngôn từ của dân ca (không kể
tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi) được sáng tác từ cách mạng tháng
Tám trở về trước. ở đây, phạm vi khảo sát của chúng tôi là một số lời ca
dao cổ truyền đă được sưu tập trong sách Kho tàng... [6].
1.2. Khái niệm tính mơ hồ đa nghĩa trong văn học nghệ thuật
Không phải đến tận bây giờ, tính mơ hồ đa nghĩa mới được biết tới. Từ xa
xưa, người ta đă quan tâm đến tính mơ hồ, đa nghĩa của văn học nghệ
thuật. Đó là cái "ư tại ngôn ngoại" (ư ở ngoài lời của văn của thơ). Nhà
triết học Đổng Trọng Thư đời Tây Hán đă cho rằng thơ, kinh thi không thể
giải thích được rơ ràng (thi vô đạt hỗ). Nhà thi thoại thời Minh Tạ Trăn
cũng chủ trương tả cảnh, thuật sự không nên giống như thực mà phải khác
lạ khiến cho người tiếp nhận có cảm giác mơ hồ, bí ẩn (diệu tại hàm hồ)...
Tuy nhiên, ngày nay khi tính tích cực, sáng tạo của người tiếp nhận được
ư thức rơ rệt; tính bản thể của ngôn ngữ văn học được phát hiện th́ mơ
hồ đa nghĩa - một thuộc tính của văn học nghệ thuật - càng được đặc biệt
coi trọng.
"Theo W.Empơxơn, mơ hồ là một ư nghĩa không xác định, một ư định muốn
biểu đạt nhiều loại sự vật, cho phép có nhiều cách giải thích"[8.151].
Vậy, tính mơ hồ đa nghĩa trong văn học nghệ thuật có thể hiểu là một ư
nghĩa không xác định, một h́nh thức thẩm mỹ muốn biểu hiện nhiều loại sự
vật, cho phép nhiều cách giải thích h́nh tượng nghệ thuật.
2. Ca dao cổ truyền người Việt với tính mơ
hồ đa nghĩa trên b́nh diện ngôn ngữ văn học
2.1. T́m hiểu tính mơ hồ đa nghĩa trên b́nh diện ngôn ngữ văn học
trong ca dao cổ truyền là nghiên cứu văn chương dân gian theo cách tiếp
cận mới
ở Việt Nam những năm qua, nghiên cứu ca dao đặc biệt là ngôn ngữ ca dao
đă có nhiều thành tựu. Xin đơn cử vài ví dụ. Tác giả Nguyễn Xuân Kính
nghiên cứu một số yếu tố cơ bản của chỉnh thể nghệ thuật ca dao trong đó
chú ư đúng mức đến đặc điểm chung của cách sử dụng và tổ chức ngôn ngữ,
cách dùng tên riêng chỉ địa điểm trong ca dao. Tác giả Mai Ngọc Chừ
nghiên cứu về những đặc điểm riêng biệt độc đáo của ngôn ngữ ca dao Việt
Nam từ việc phân tích "những đặc điểm thơ" được tạo nên bởi các biện
pháp tu từ, cách ngắt nhịp, lối hiệp vần đến việc xem xét sự kết hợp
nhuần nhuyễn tính chất bác học và tính chất khẩu ngữ của ngôn ngữ ca dao
Việt Nam. Tác giả Phạm Thu Yến nghiên cứu một số yếu tố tiêu biểu trong
thế giới nghệ thuật ca dao và đặc biệt đă chú ư đến lối miêu tả và biểu
hiện trực tiếp trong thơ ca dân gian.vv...
Như vậy, xác định sự có mặt và vai tṛ, vị trí của tính mơ hồ đa nghĩa
trên b́nh diện ngôn ngữ văn học trong ca dao vẫn c̣n là vấn đề mới mẻ.
Tuy nhiên, thành tựu nghiên cứu trước đó của các nhà khoa học thực sự là
những gợi mở cần thiết giúp chúng tôi có cơ sở để triển khai vấn đề
nghiên cứu của ḿnh. Song, tính mơ hồ đa nghĩa trong văn học nghệ thuật
nói chung và trong ca dao nói riêng được xác định dựa trên cơ sở nào?
W.Empơxơn với công tŕnh nổi tiếng Bảy loại ư nghĩa mơ hồ (1930) đă chỉ
ra các loại ư nghĩa mơ hồ (các h́nh thức biểu hiện của tính mơ hồ đa
nghĩa) trên cấp độ ngôn ngữ văn học và mở ra một triển vọng nghiên cứu
có cơ sở khoa học về vấn đề này. Theo tác giả sách Lư luận và phê b́nh
văn học , cách phân loại các ư nghĩa mơ hồ của W.Empơxơn chưa thật rạch
ṛi, chặt chẽ, nhất quán song đă cho thấy tính mơ hồ đa nghĩa có nhiều
h́nh thức thể hiện và công tŕnh khoa học trên của ông "thực sự là một
kiệt tác mà bất kỳ ai đọc xong đều không thể c̣n dừng lại với niềm tin
cũ" [8.71].
Do trong thực tế, các loại ư nghĩa mơ hồ 6, 7 có phần như trùng lặp với
các loại 2, 3, 4; do đặc trưng thể loại và trong khuôn khổ bài viết,
chúng tôi chỉ nghiên cứu ba h́nh thức thể hiện của tính mơ hồ là "Nói
vật này mà như nói tới vật khác, v́ giữa các sự vật ấy có nhiều điểm
giống nhau"; "ư nghĩa mơ hồ do quan hệ ngữ pháp không chặt chẽ và ngữ
cảnh cho phép"; "Một từ trong một văn cảnh mà giảng hai nghĩa đều thông".
2.2. Tính mơ hồ đa nghĩa trên b́nh diện ngôn ngữ văn học trong ca dao
cổ truyền
2.2.1. Khảo sát 3.481 lời ca dao cổ truyền được sưu tập trong sách Kho
tàng... [6] để xác định các loại ư nghĩa mơ hồ (hay nói cách khác là t́m
các h́nh thức biểu hiện của tính mơ hồ), chúng tôi thực hiện theo cách
ngẫu nhiên đảm bảo cho sự nghiên cứu tương đối khách quan khoa học
Đó là những lời ca dao được xếp theo trật tự chữ cái trong tập II bộ
sách Kho tàng... Kết quả thu được như sau:
2.2.1.1. Loại ư nghĩa mơ hồ có được khi "nói vật này mà như nói đến vật
khác, v́ giữa các sự vật ấy có nhiều điểm giống nhau".
- Để t́m loại ư nghĩa mơ hồ này, chúng tôi khảo sát những lời ca dao có
sử dụng một số biện pháp tu từ tiêu biểu cấu tạo theo quan hệ liên tưởng
gồm so sánh, ẩn dụ, hoán dụ và tượng trưng. Những biện pháp tu từ như
điệp từ ngữ, chơi chữ, đồng nghĩa kép... không nằm trong phạm vi khảo
sát bởi chúng tôi quan niệm do cấu tạo theo quan hệ tổ hợp, các biện
pháp tu từ vừa nêu không có hoặc có rất ít khả năng tạo ư nghĩa mơ hồ.
Thí dụ 1:
397 (b) Người khôn như miếng thịt gà
Tuy rằng ăn ít nhưng mà ngon lâu
Người dại như củ bồ nâu
Đến khi khốn khó cơ cầu phải ăn.
CDTCM 272
Thí dụ 2:
307. Cây đa cũ bến đ̣ xưa
Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng cồ
DCNTB I 188 HHĐN 216 HT 164 TCDG 61 VNP 7 214
Thí dụ 3:
65. Chờ anh cho tuổi em cao
Cho duyên em lạt, má đào em phai
HPV 117
Thí dụ 4:
684. Trúc nhớ mai, trúc buồn ngao ngán
Mai trở về, mai nhớ trúc chăng
CDTCM 52
Bằng cách diễn đạt cụ thể và giầu h́nh ảnh, các biện pháp tu từ trên đă
gợi được sự liên tưởng phong phú và sâu sắc. Người tiếp nhận thực sự
phải lựa chọn trong số những liên tưởng phong phú, sâu sắc ấy một cách
hiểu cho ḿnh. Mơ hồ, đa nghĩa phát sinh từ đấy. Chẳng hạn, ở thí dụ 1,
miếng thịt gà, củ bồ nâu được ví với người khôn, người dại. Vị ngon, dở
của miếng thịt gà và củ bồ nâu ra sao cũng như dư vị cuộc sống khi ở với
người khôn, người dại thế nào là phụ thuộc vào sự liên tưởng tự do nhưng
có cơ sở của người tiếp nhận. ở thí dụ 2, lời ca dao như một sự nhắn gửi:
khách qua đường có nghĩa th́ nắng mưa cũng chờ và nơi chờ đợi là “cây đa
cũ, bến đ̣ xưa”? Nhưng ở đây, lời nhắn gửi thật bâng quơ, “tối nghĩa”:
ai nhắn và chờ đợi với mục đích ǵ? “Cây đa cũ, bến đ̣ xưa” là một địa
điểm có thật mà khách bộ hành đă dừng chân hay chỉ là một ẩn dụ chỉ địa
điểm quen thuộc có ư nghĩa nhất định với nhân vật trữ t́nh và người
khách bộ hành? (Ngay cả từ “nghĩa” và “nắng mưa” ở đây cũng rất mơ hồ,
khó xác định...) Lời ca dao chỉ gồm hai ḍng lục bát mà có không ít dấu
hỏi, bởi vậy, nó hàm chứa bao nhiêu cách liên tưởng khác nhau. Sẽ không
bao giờ là thỏa đáng nếu người tiếp nhận chỉ xác định một cách hiểu duy
nhất ở lời ca dao này. Dù vậy, mỗi lời vẫn là một thế giới nghệ thuật
riêng biệt đ̣i hỏi phải tiếp nhận, khám phá.
- Trong số 3.481 lời ca dao khảo sát có 1.511 lời sử dụng các biện pháp
tu từ, chiếm khoảng 43,4%. Cụ thể, số lời ca dao chứa biện pháp so sánh
tu từ là 666 lời, chiếm khoảng 44,1%; số lời ca dao chứa biện pháp ẩn dụ
tu từ là 701 lời, chiếm khoảng 46,4%; số lời ca dao chứa biện pháp hoán
dụ tu từ và tượng trưng là 144 lời, chiếm khoảng 9,53% trong tổng số lời
ca dao có sử dụng các biện pháp tu từ.
2.2.1.2. Loại ư nghĩa mơ hồ có được "do quan hệ ngữ pháp không chặt chẽ
và ngữ cảnh cho phép"
- Loại ư nghĩa mơ hồ này xuất hiện khi mối quan hệ tổ hợp giữa các từ,
các vế trong câu không chặt chẽ và do sự cho phép của ngữ cảnh. Có thể
xảy ra ba t́nh huống: thứ nhất, quan hệ ngữ pháp không chặt chẽ đó là ư
thức nghệ thuật của chủ thể sáng tạo; thứ hai, chủ thể sáng tạo buộc
phải hạn định về số lượng câu chữ do sự chi phối của thể loại; thứ ba,
có thể do cả hai "nguyên nhân" ở hai t́nh huống trên. Theo sự phân tích
của chúng tôi, 1 số lời ca dao có chứa loại ư nghĩa mơ hồ này thường rơi
vào t́nh huống thứ ba.
- Khảo sát 3.481 lời ca dao cổ truyền vừa nêu trên, chúng tôi thấy 350
lời có loại ư nghĩa mơ hồ do quan hệ ngữ pháp không chặt chẽ và ngữ cảnh
mang lại, chiếm khoảng 10,05%.
Thí dụ:
5. Đă có một lượt th́ thôi
Lượt này, lượt khác người đời khinh chê.
TCBD II 250TNPD I 111
ở lời ca dao trên, quan hệ tổ hợp giữa các từ không chặt chẽ(từ “lượt”
thiếu định ngữ) gây nên sự mơ hồ đa nghĩa.
2.2.1.3. Loại ư nghĩa mơ hồ xuất hiện khi "một từ trong một văn cảnh mà
giảng hai nghĩa đều thông"
- Đây là loại ư nghĩa mơ hồ được tạo nên khi một phương tiện ngôn ngữ (ở
cấp độ từ) có hai nghĩa trong một văn cảnh cụ thể.
3,45%. Thí dụ:»- Trong 3.481
lời ca dao khảo sát, chỉ có 120 lời chứaphương tiện ngôn ngữ đa nghĩa
này, chiếm
805. C̣n trời c̣n nước c̣n non
C̣n cô bán rượu anh c̣n say sưa.
ANPT 6a ĐNQT 102b HHĐN 54, 164 KSK 6b...
Từ "say sưa" trong lời ca dao trên có thể hiểu theo 2 nghĩa: say sưa v́
rượu và say sưa cô bán rượu...
Như vậy, trong số 3.481 lời ca dao khảo sát có tổng cộng 1.981 lời chứa
các biểu hiện của tính mơ hồ đa nghĩa trên b́nh diện ngôn ngữ văn học,
chiếm khoảng 56,9%.
2.2.2. Qua khảo sát những biểu hiện tiêu biểu của tính mơ hồ đa nghĩa
trong ca dao cổ truyền, chúng tôi có một số nhận xét:
2.2.2.1. Ca dao cổ truyền có những h́nh thức biểu hiện của tính mơ hồ đa
nghĩa. Hay nói cách khác, trong ca dao cổ truyền có một số loại ư nghĩa
mơ hồ. Có thể đặt h́nh huống rằng những lời ca dao chưa khảo sát và cả
những lời ca dao c̣n tồn tại trong môi trường sinh hoạt của dân chúng
chưa chắc đă có kết quả tương tự? Điều đó hoàn toàn có thể xảy ra. Song,
cho dù như vậy th́ nhận xét trên vẫn tồn tại, bởi tỷ lệ cao, thấp của
các loại ư nghĩa mơ hồ trong ca dao cổ truyền không phải là điều quan
trọng nhất. Điều quan trọng nhất là sự có mặt và vai tṛ của nó trong
những lời ca dao cổ truyền.
Tuy nhiên, kết quả khảo sát ở trên vẫn là điều đáng lưu ư. Số lời ca dao
cổ truyền có h́nh thức biểu hiện của tính mơ hồ đa nghĩa chiếm tỉ lệ
không nhỏ khoảng 56,9%. Đó mới chỉ là kết quả khảo sát biểu hiện của
tính mơ hồ đa nghĩa trong các lời ca dao cổ truyền trên b́nh diện ngôn
ngữ văn học. (Xem kết quả tổng hợp ở cuối mục 2.2.1.3). Trong đó, biểu
hiện thứ nhất của tính mơ hồ đa nghĩa chiếm khoảng 43,4%.(Xem kết quả
thống kê ở mục 2.2.1.1). Những h́nh thức biểu hiện khác của tính mơ hồ
đa nghĩa trong ca dao cổ truyền chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ khoảng
10,05% và 3,45% (Xem kết quả thống kê ở mục 2.2.1.2 và 2.2.1.3).
T́m hiểu đặc điểm của các biện pháp tu từ được dùng trong những lời ca
dao khảo sát ở mục 2.2.1.1, chúng tôi thấy đó đều là những cách diễn đạt
bóng bẩy, gợi cảm có sức hấp dẫn và lôi cuốn khi tŕnh bày [9]. Nhờ các
biện pháp tu từ, sự diễn đạt vừa mang tính cụ thể, h́nh ảnh do nghĩa đen
gợi ra, vừa mang tính khái quát, hàm súc do nghĩa bóng chứa đựng. Tính
mơ hồ, đa nghĩa trên cơ sở đó mà phát sinh. Bởi vậy, sự có mặt với tần
số cao của các biện pháp tu từ (đặc biệt là so sánh và ẩn dụ tu từ)
trong ca dao cổ truyền là điều có thể lư giải được.
2.2.2.2. Có những trường hợp, một lời ca dao cổ truyền chứa hai, ba h́nh
thức biểu hiện của tính mơ hồ đa nghĩa. Tức trong một lời ca dao cổ
truyền có tới hai, ba loại ư nghĩa mơ hồ.
Thí dụ:
91 (a) Cái c̣ mày đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi nao
Tôi có ḷng nào, ông hăy xáo măng
Có xáo th́ xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau ḷng c̣ con
TCBD I 553 TNPD II 31
ở lời ca dao trên, ngoài ư nghĩa mơ hồ “nói vật này mà như nói tới vật
khác” (c̣ chỉ người nông dân?) c̣n có thêm loại ư nghĩa mơ hồ do sự đa
nghĩa của từ trong văn cảnh cụ thể này mang lại. (c̣ con là con c̣ bé
hay là con của con c̣ mẹ?). Như vậy, có thể nói, ở những lời ca dao ấy,
mơ hồ chồng lên mơ hồ, đa nghĩa càng thêm đa nghĩa.
Tính mơ hồ đa nghĩa phải chăng là một trong những "ma lực" chính tạo nên
sức hút lâu bền cho ca dao cổ truyền. Thử so sánh thêm hai lời ca dao
sau, chúng ta sẽ càng thấy rơ điều đó.
805 C̣n trời c̣n nước c̣n non
C̣n cô bán rượu anh c̣n say sưa.
ANPT 6a ĐNQT102b HHĐN 54, 164 KSK 6b...
79. C̣n trời c̣n nước c̣n non
C̣n người thất học ta c̣n phải lo.
CDVN 1945 - 1975.
2.2.2.3. Những lời ca dao cổ truyền gây nhiều tranh luận hầu hết là
những lời có chứa các loại ư nghĩa mơ hồ.
Thí dụ 1:
92 (a) Cái c̣ mày mổ cái tôm
Cái tôm quặp lại, lại ôm cái c̣.
Cái c̣ mày mổ cái trai
Cái trai quặp lại, lại nhai cái c̣.
HT 286 TCBD IV 335 TNPD II 28 VNP1 II 33
Thí dụ 2:
103.Gió sao thổi mát sau lưng
Dạ sao dạ nhớ người dưng vô cùng.
HHĐN 174 TCBD I 144
ở thí dụ 1, theo thống kê của tác giả Thi pháp ca dao, có đến ba cách
hiểu khác nhau về h́nh ảnh tôm, trai, c̣. Nguyễn Đăng Châu cho rằng c̣,
tôm, trai là giai cấp thống trị. Cao Huy Đỉnh th́ cho rằng c̣ là giai
cấp thống trị, c̣n tôm, trai là tập thể nhân dân. Vũ Ngọc Phan lại cho
rằng tôm, trai, c̣ đều là nhân dân lao động. Tác giả Thi pháp ca dao lại
có những phát hiện khác. Qua khảo sát một chuỗi lời ca dao về tôm, trai,
c̣, tác giả kết luận: ở đây con c̣ không phải giai cấp thống trị cũng
không phải nhân dân lao động. Quan niệm như trên dẫn đến những cách hiểu
rất khác nhau về chủ đề, nội dung lời ca dao. Sở dĩ có hiện tượng đó bởi
tác giả dân gian đă không gọi thẳng tên sự vật hiện tượng. Họ "nói vật
này mà như nói tới vật khác..." như WEmpơxơn đă từng chỉ ra.
ở thí dụ 2, t́nh h́nh có khác đôi chút. Sự mơ hồ, đa nghĩa lại tập trung
vào h́nh ảnh bất thường "gió mát sau lưng" và từ "người dưng" trong lời
ca dao. Các tác giả sách Kho tàng ... đă dẫn ra hai cách cảm thụ, phân
tích lời ca dao trên. Theo Trần Bảo Hưng, cái thần của lời ca dao là hai
chữ "người dưng" và cho rằng đó là câu hát, là mảnh tâm t́nh của những
người làm nghề chở đ̣ dọc trên sông. (Gió thổi mát sau lưng là gió thuận,
thuyền xuôi, người ta mới thanh thản nghĩ gần, nghĩ xa và nhớ người yêu).
Văn Tân lại cho rằng tinh thần chung của lời ca dao này liên quan không
chỉ đến người làm nghề chở đ̣ dọc mà liên quan đến nhiều người làm ở
nhiều nghề trong cuộc đời... và đang lâm vào t́nh huống yêu, mà lại yêu
đơn phương. Cũng có thể đưa ra một cách hiểu nữa: "gió mát sau lưng" là
sự bất thường, "dạ nhớ người dưng" lại càng phi lư. Song hai cái phi lư
lại biểu đạt một thực tế hiển nhiên, rất có lư của "những người đang lâm
vào t́nh huống yêu"... "Người dưng" ở đây nên hiểu như tác giả Những thế
giới nghệ thuật ca dao, đó là những người "chưa đủ độ chín để thân mật,
nhưng cũng không hề xa cách lạnh lùng"" [11.55]. Vậy, nguyên nhân chính
gây nên tính mơ hồ, đa nghĩa trong lời ca dao này là sự đa nghĩa của từ
(ở đây là từ xưng hô) và h́nh tượng văn chương trong một văn cảnh cụ thể.
2.2.3. Những nghiên cứu ở trên cho phép chúng tôi rút ra một số kết luận
sau:
2.2.3.1. Tính mơ hồ đa nghĩa là một đặc trưng của văn học nghệ thuật.
Tính mơ hồ đa nghĩa đem lại sự mê hoặc, hấp dẫn cho khách thể thẩm mỹ.
Nghiên cứu tính mơ hồ, đa nghĩa trên b́nh diện ngôn ngữ văn học thực
chất là nghiên cứu thi pháp ngôn ngữ tác phẩm. Từ ư nghĩa đó, xem xét ca
dao cổ truyền với tính mơ hồ đa nghĩa trên b́nh diện ngôn ngữ văn học là
nghiên cứu thi pháp ngôn ngữ ca dao - một trong những yếu tố thi pháp
thuộc h́nh thức tổ chức vật liệu của chỉnh thể nghệ thuật ca dao. (H́nh
thức tổ chức vật liệu là chữ dùng của Bakhtin).
2.2.3.2. "Tính mơ hồ, đa nghĩa không chỉ là đặc trưng mà c̣n là số phận
của văn học" [8.162]. Đó là nhận định có cơ sở bởi thực tế tiếp nhận văn
học nghệ thuật cho thấy những tác phẩm có sức cuốn hút và trường tồn qua
thời gian hầu hết là những tác phẩm gây nhiều tranh căi. Nguyên nhân
chính gây nên sự tranh căi lại là ở chỗ có dấu hiệu của tính mơ hồ đa
nghĩa. (Tuy nhiên, ở đây chúng tôi mới chỉ đề cập đến dấu hiệu của tính
mơ hồ đa nghĩa trên b́nh diện ngôn ngữ văn học). Kết quả khảo sát và
phân tích những biểu hiện của tính mơ hồ đa nghĩa ở những lời ca dao cổ
truyền cho thấy nhận định trên không chỉ đúng với bộ phận văn học thành
văn mà c̣n đúng với bộ phận văn học truyền miệng, đặc biệt là ca dao cổ
truyền. Có điều, ca dao cổ truyền - một thể loại tiêu biểu của văn học
dân gian - thường là ngắn, thậm chí rất ngắn (hai ḍng thơ). Đặc điểm đó
càng làm cho sự "giải mă" những biểu hiện mơ hồ đa dạng hơn, phong phú
hơn. Nó khiến nhiều lời ca dao cổ truyền trở thành nơi vô tận về nghĩa
để người tiếp nhận t́m ṭi, khám phá. Cuộc chạy đua đi t́m cái đẹp trong
những lời ca đó cứ như măi tiếp diễn không bao giờ ngừng.
2.2.3.3. Những kiến giải có cơ sở khoa học về sức hấp dẫn và sự trường
tồn của ca dao cổ truyền ở trên hé ra những tia hy vọng về sự trở lại
của ca dao - một thể loại tiêu biểu của sáng tác dân gian trong đời sống
sinh hoạt của con người ở xă hội hiện đại. Một khi ca dao thực sự là
sáng tác văn học nghệ thuật đích thực th́ không ai phủ nhận được vai tṛ
và vị trí của nó trong đời sống văn hoá tinh thần của người Việt Nam nói
riêng, của nhân loại nói chung.
Cuối cùng, chúng tôi xin mượn lời tác giả chuyên luận Lư luận và phê
b́nh văn học để kết thúc bài viết. "Tính mơ hồ, đa nghĩa là sự mê hoặc
hấp dẫn của nghệ thuật. Hoàn toàn kín mít, không nh́n thấy ư nghĩa là vô
vị, mà nh́n một cái nhận ra ngay hết mọi ư nghĩa cũng là hết vị. Tính mơ
hồ đa nghĩa đảm bảo thu hút người đọc đi vào cuộc t́m ṭi bất tận về ư
nghĩa, và chỉ có tác phẩm nghệ thuật đích thực, phong phú mới giữ được
sức quyến rũ lâu bền" [8.162]. Phải chăng, tính mơ hồ đa nghĩa trên b́nh
diện ngôn ngữ văn học trong ca dao cổ truyền đă góp phần tích cực tạo
được sự mê hoặc, hấp dẫn và sức quyến rũ lâu bền cho bộ phận thơ dân
gian này!
Thái Nguyên tháng 3 năm 2001
N.H.P
Tài liệu tham khảo
1. Mai Ngọc Chừ: “Ngôn ngữ ca dao Việt Nam”, Tạp chí Văn học số 2/1991.
2. Nguyễn Nghĩa Dân: Ca dao Việt Nam 1945 - 1975, NXB Văn hoá thông tin,
1997.
3. Vũ Cao Đàm: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Khoa học Kỹ
thuật, Hà Nội, 1996.
4. Hà Minh Đức (chủ biên): Lư luận văn học, NXB Giáo dục, 1993.
5. Lê Bá Hán, Trần Đ́nh Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên): Từ điển thuật
ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999 (in lần 3).
6. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (chủ biên): Kho tàng ca dao người
Việt, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 1995.
7. Nguyễn Xuân Kính: Thi pháp ca dao, NXB Khoa học Xă hội, Hà Nội, 1992.
8. Trần Đ́nh Sử: Lư luận và phê b́nh văn học, NXB Hội nhà văn, Hà Nội,
1996.
9. Trần Đức Ngôn: "Một số vấn đề lư luận chung quanh việc nghiên cứu văn
bản văn học dân gian", Tạp chí Văn hoá dân gian số 3/1990.
10. Cù Đ́nh Tú: Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Khoa
học Xă hội, Hà Nội, 1983.
11. Phạm Thu Yến: Những thế giới nghệ thuật ca dao, NXB Giáo dục, 1998.
|