| TỤC NGỮ 
		CA DAO  VỀ NGÀY 
		TẾT NGUYÊN ĐÁN 
		  
		
		                                            ĐÀO ĐỨC NHUẬN               Chuyện xưa kể 
		rằng: Vào một thời xa xưa lắm, người đang sống yên ổn thì một 
		bầy quỷ dữ đến xâm lăng. Chúng dùng mưu mô quỷ quyệt chiếm hết 
		đất đai, tài sản của người. Người thành kẻ làm công cho quỷ. 
		Người trồng lúa, quỷ chia cho người phần gốc, quỷ lấy phần 
		ngọn. Thấy người khổ quá, Phật hiện ra giúp kế. Theo điều 
		kiện đã được giao ước đúng như lời Phật dặn, người trồng khoai 
		lang. Đến mùa thu hoạch, quỷ lấy phần ngọn chỉ có dây và lá, 
		người lấy phần gốc, củ chất đầy nhà. Quỷ lại đặt điều kiện: 
		quỷ ăn phần gốc và ngọn, người ăn phần giữa. Lại theo lời 
		Phật dặn, người trồng bắp. Đến mùa, người lấy hết trái, quỷ 
		chẳng có gì để ăn. Quỷ thua bèn đòi lại đất. Phật khuyên 
		người nên xin quỷ bán cho mình một mảnh đất bằng bóng của một 
		chiếc áo cà sa. Quỷ bằng lòng. Phật bảo người trồng một cây 
		tre rồi máng chiếc áo cà sa lên ngọn. Phật hóa phép làm cây 
		tre cao mãi, cao mãi đến tận trời và bóng chiếc áo cà sa lan 
		xa càng lúc càng rộng. Quỷ phải dắt dìu nhau chạy ra ngoài 
		bóng râm của chiếc áo. Cuối cùng quỷ bị đuổi ra mãi ngoài 
		tận biển Đông. Người lại làm chủ vùng đất của mình. Từ đấy, 
		quỷ xin với Phật hàng năm cho vào đất liền để thăm mồ mả tổ 
		tiên. Phật bằng lòng cho quỷ vào đất liền nhân ngày Tết Nguyên 
		đán của người. Phật dặn người nên trồng cây NÊU trước nhà vào 
		những ngày này để cho quỷ không thể xâm phạm đến người. Trên đây 
		là sự tích cây nêu ngày Tết của ta. Thế nên ca dao ta có câu: 
		            Cu kêu ba tiếng cu kêu, 
		            Trông mau tới Tết dựng NÊU ăn chè. Trong 
		tâm thức của dân tộc Việt, cây nêu là biểu trưng của sức 
		mạnh tinh thần Việt chống lại sức phản động của cái ác 
		(quỷ). Cây nêu cũng biểu hiện quyền lực của mỗi gia đình 
		trong làng xã ngày xưa: 
		            Thứ nhất nêu cao, 
		            Thứ nhì pháo kêu. Nhà có 
		cây nêu cao là nhà giàu sang quyền quí. Tràng pháo nổ giòn và 
		đều là báo hiệu điềm tốt cho gia chủ. “Trông 
		mau tới Tết dựng nêu ăn chè” chỉ là tâm trạng trẻ con bởi 
		lẽ chỉ có trẻ con mới mong chóng tới Tết để được “ăn ngon mặc 
		đẹp” còn đối với người lớn, Tết đến là cả một nỗi lo : 
		            Tết đến sau lưng 
		            Ông vải thì mừng 
		            Con cháu thì lo. Quả 
		vậy, vào những ngày năm cùng tháng tận, đa số dân ta lo lắng 
		đủ điều. Nào là nợ nần chưa trang trải. Nào là công việc chưa 
		hoàn thành. Nào lo sắm sửa cho 3 ngày Tết. Nào lo sửa sang nhà 
		cửa để đón Xuân . . . Đời 
		sống của người nông dân ta ngày trước không phải là dễ dàng vì 
		phương pháp canh tác cổ truyền, mọi việc phần lớn như còn tùy 
		thuộc vào sự định đoạt của Trời. Cuộc sống tuy có muôn vàn cơ 
		cực, ăn buổi hôm lo buổi mai, thế nhưng việc tiêu tốn cho 3 ngày 
		Tết lại không thể dè xẻn được. Thế nên có nhiều gia đình đã 
		phải chịu cái cảnh: 
		            Đi cày  ba vụ 
		            Không đủ ăn ba ngày Tết! Tết 
		đến, trăm vạn nỗi lo quấn quít trong đầu, thứ nhất là lo nợ 
		nần chưa trang trải: 
		            Bây giờ tư Tết đến nơi 
		            Tiền thì không có sao nguôi tấm lòng 
		            Nghĩ mình vất vả long đong 
		            Xa nghe lại thấy Quảng Đông kéo còi 
		            Về nhà công nợ nó đòi 
		            Mà lòng bối rối đứng ngồi không an. Thật 
		là trớ trêu. Tiền không có mà tiếng còi của gánh hát Quảng 
		Đông lại quyến rũ, thúc dục. Về nhà thì nợ đòi. Mà nợ đòi 
		thì nguy lắm. Các chủ nợ có lệ cuối năm giằng thúc con nợ, 
		cố đòi cho được số tiền đã cho vay, dù rằng đòi được tiền về 
		để đấy. Người ta cho rằng, nếu không đòi được tiền trước giao 
		thừa, ngày hôm sau, món tiền nợ đã ra nợ cũ, và ngày Mồng 
		một đầu năm và những ngày sau nữa, người ta không dám đòi nợ, 
		vì con nợ kiêng sợ giông. “Tục 
		lệ như vậy nên cái ngày tất niên nầy, những người có nợ làm 
		ăn kém may mắn, không có tiền trả mà phải khất chủ nợ không 
		chịu, đành phải đi trốn nợ đến lúc giao thừa mới trở ve”.(1). Tục 
		ngữ lại có câu: 
		            Khôn ngoan đến cửa quan mới biết, 
		            Giàu có Ba mươi Tết mới hay. Hoặc 
		là:             
		Có, không: mùa Đông mới biết 
		            Giàu nghèo: Ba mươi Tết mới hay. Trên đây 
		là những quan sát thực tế của người bình dân ta ngày xưa. Kẻ 
		khôn ngoan là kẻ khéo biện bạch trước cửa quan (tức cơ quan 
		chính quyền hàng Xã, Tổng, Huyện...) để giành lẽ phải về 
		mình. Mùa Đông là mùa giá rét. Nhiều công việc làm ăn hầu như 
		đình trệ. Đây thường là khoảng thời gian đem lương thực dự trữ 
		ra để ăn. Nhà giàu có của dự trữ nên không lo. Nhà nghèo phải 
		đi vay từng đấu gạo. Đến ngày giáp Tết, nhà giàu sắm sửa ề 
		hề, dân nhà nghèo đôi khi còn phải lo trốn nợ. Thế nên dù ai 
		có tài khoe mẽ đến đâu, đến ngày giáp Tết là người ta biết 
		hết, không thể nào giấu giếm được. Ngoài 
		những ngày kỵ giỗ bình thường để con cháu tưởng nhớ đến ngày 
		từ trần của người đã khuất, hàng năm người Việt ta còn có lệ 
		Chạp mả, tất cả mồ mả của giòng họ đều được giẫy cỏ sạch 
		sẽ vào tháng Chạp để sửa soạn mời gia tiên về ăn Tết với con 
		cháu. Cũng có nơi để sang tháng Giêng mới giẫy mả. 
		            Đi đâu mặc kệ đi đâu 
		            Đến ngày giỗ chạp phải mau mà về. Con 
		cháu không thể bỏ được ngày giỗ chạp bời vì “con cháu muốn 
		tròn đạo hiếu với tổ tiên thì những ngày kỵ Chạp, Tết nhứt 
		phải cúng cấp tử tế. Những người bỏ giỗ bỏ Tết là bất hiếu 
		chi cực”. (2) Bỏ sêu 
		Tết kỵ Chạp là một điều bất hiếu. Vì thế đã có cô gái 
		trách cứ vị hôn phu của mình một cách nặng nề: 
		            Chiều Ba mươi anh không đi Tết, 
		            Rạng ngày Mồng Một anh không đi lạy bàn thờ, 
		            Hiếu trung mô nữa mà bảo em chờ uổng công. Lạy 
		bàn thờ gia tiên quả một điều hệ trọng. “Về Tết Nguyên đán, 
		từ ngày 29 tháng Chạp, gia trưởng phải làm lễ Rước Ông Bà. 
		Trong 3 ngày Tết, suốt đêm ngày lúc nào cũng có hương đèn và 
		lễ vật để cúng tổ tiên. Đến chiều Mồng 3 hay sáng Mồng 4 thì 
		làm lễ Đưa Ông Bà để đốt vàng mã cúng trong 3 ngày Tết”. 
		(3). Lạy 
		bàn thờ gia tiên vào 3 ngày Tết là một nghi lễ không thể thiếu 
		của con cháu đối với những người đã khuất. Thế nhưng, khi bị 
		vị hôn thê trách cứ, người con trai đã khéo biện bạch cho sự 
		vắng mặt của mình bằng một lễ nghi có vẻ còn quan trọng hơn: 
		lo việc họ,  việc làng. 
		            Hôm Ba mươi anh mắc lo việc họ 
		            Sáng mồng Một anh bận việc làng, 
		            Ông bà bên anh cũng bỏ huống chi bên nàng, nàng ơi! Đến 
		ngày Tết, con cháu dù làm ăn ở đâu cũng cố tìm cách về nhà 
		để ăn Tết, mừng tuổi ông bà cha mẹ. Con cái dù đã lập gia 
		đình ra ở riêng cũng đem con cái về thăm và chúc Tết cha mẹ 
		mình: 
		            Mồng một Tết cha 
		            Mồng ba Tết thầy. Hay :    
		Mồng một thì ở nhà cha, 
		            Mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy. Lệ tết 
		thầy của ta ngày xưa thật đẹp. Đó là tinh thần “tôn sự trọng 
		đạo”, là tinh thần “tiên học lễ, hậu học văn”. Học trò học 
		nghề hay học chữ, ở với người dạy cho mình đều có nghĩa thầy 
		trò. Học trò phải kính trọng thầy, quý mến thầy mà nhất là 
		thầy dạy học chữ lại phải kính trọng hơn nữa. “Lúc 
		học, gặp khi mồng Năm ngày Tết như: Tết Nguyên đán, Thanh minh, 
		Đoan ngọ, Trung thu, ... mùa nào thức nấy, hoặc cặp gà thúng 
		gạo, đường mứt bánh trái hoặc  năm ba quan tiền, tùy tình đa 
		thiểu mà đem đến lễ thầy”.(4). Trong 
		các tục lệ về ngày Tết, ta có tục xông đất hay xông nhà đầu 
		năm. Theo tục lệ nầy, có nhiều người tin rằng, có người vía 
		xấu đến xông đất nhà nào (tức là người đến chúc Tết đầu 
		tiên) nhà đó sẽ gặp điều xui xẻo quanh năm. Vì thế, “nếu 
		không có người nhà dễ vía để xông nhà lấy, người ta phải nhờ 
		một người khác trong thân bằng cố hữu tốt vía để sớm 
		ngày mồng Một Tết đến xông nhà, trước khi có khách đến chúc 
		Tết, để người này đem sự dễ dãi may mắn lại”. (5). Do tục 
		lệ nầy, vào sáng Mồng một Tết ít người dám ra khỏi nhà để 
		đi thăm bà con láng giềng, sợ mình sẽ đem điều xui xẻo đến cho 
		người khác. Cũng do tục lệ nầy, người ta rất sợ những kẻ 
		“mang tiếng không tốt” đến xông nhà mình. Ơ đất Hà thành vào 
		những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 có hai nhân vật trào 
		phúng nổi tiếng, một cặp bài trùng mà những tay có máu mặt 
		thời bầy giờ đều ngán, đó là Ba Giai và Tú Xuất. Hai nhân vật 
		này mang tiếng là hay chòng ghẹo và phá phách thiên hạ. Vì 
		thế người ta đã hù dọa nhau: 
		            Hễ ai mà nói dối ai 
		            Thì mồng một Tết Ba Giai đến nhà. Đa số 
		dân ta sống bằng nghề nông. Hàng năm, nhiều nhà dâng lễ cúng 
		đất, còn gọi là lễ “tạ thổ kỳ yên” vào những ngày đầu năm. Ơ 
		vùng đồng bằng sông Cửu Long, lệ cúng đất được thực hiện vào 
		ngày ngày 10 tháng Giêng: 
		            Mổng chín vía Trời 
		            Mồng mười via Đất Ngày 
		vía đất có lệ cúng đất. “Ơ nhà quê miền Nam, đến ngày 10 
		tháng Giêng người nhà nông làm lễ cúng đất. Nghi lễ rất giản 
		dị. Nhà khá giả thì dọn mâm cơm có gà vịt đem ra ruộng cúng 
		rồi cùng nhau ăn uống tại chỗ. Ơ nhà thì dọn lễ vật ra cúng 
		tại bàn thờ Thổ Địa đặt trong nhà. Lễ vật cũng đơn giản: con 
		gà, miếng thịt hoặc rút gọn chỉ còn bộ tam sên với dĩa gạo, 
		muoi”. (6). Trong 3 
		ngày Tết ta có lệ chúc Tết. Con cháu chúc Tết ông bà cha mẹ, 
		ông bà cha mẹ chúc Tết lại con cháu; bà con quên đi mọi ghen 
		ghét, giận hờn; hề gặp nhau là gửi lời cầu chúc tốt đẹp cho 
		nhau: 
		            Nay mừng tứ hải đồng xuân 
		            Tam dương khai thái, muôn dân hòa bình. 
		            Sĩ thời chăm việc học hành, 
		            Một mai khoa bảng để dành công danh. Công 
		thì phượng các long đình Đủ 
		nghề sư khoáng, rứt nghề công thâu. Nông 
		thời cuốc bẫm cày sâu, Thu 
		hòa hạ mạch, phong thâu có ngày. 
		Thương thời buôn bán liền tay Rứt 
		tài Tử Cống ai tày cho đang! Ơ miền 
		Bắc có tục hát “xúc xắc xúc xẻ” để mừng Tết ngay vào đêm 
		giao thừa. Một đoàn trẻ con gồm chừng 10, 15 em tay cầm ống 
		bương đựng đồng tiền kẽm. Ngay từ lúc chạng vạng, bọn trẻ lũ 
		lượt kéo đến từng nhà để mừng gia chủ sang năm mới gặp nhiều 
		điều may mắn với lời hát mừng đầy ắp những điều tốt đẹp: 
		            Xúc xắc xúc xẻ 
		            Nhà nào còn đèn còn lửa Mở 
		cửa cho chúng tôi vào 
		Bước lên giường cao: Có đôi rồng ấp 
		Bước xuống giường thấp: Có đôi rồng chầu 
		Bước ra đằng sau: Có nhà ngói lợp 
		Ngựa ông còn buộc Voi 
		ông còn cầm Ong 
		sống một trăm linh năm tuổi lẻ Vợ 
		ông sinh đẻ 
		Những con tốt lành 
		Những con như tranh 
		Những con như đối... Ơ một 
		số địa phương lại có tục “hát sắc bùa” vào ngày Tết. Thông 
		thường hát sắc bùa do phường sắc bùa hát theo điệu dân ca sắc 
		bùa của từng dịa phương. Có một số địa phương lại kết hợp 
		múa sắc bùa với hát sắc bùa thành một vũ điệu dân-gian đầy 
		quyến-rũ như ở một số xã miền biển quận Đức Phổ, tỉnh Quảng 
		Ngãi. Phường sắc bùa còn có những bài hát riêng cho từng nghề 
		nghiệp: buôn bán, nông tang, canh cửi . . . :                         Thánh 
		chúa vạn niên.                         Thánh 
		chúa vạn niên!                         Chúng 
		tôi nay dâng cách đội đèn                         Thái 
		hòa gặp tiết xuân thiên                         Gió 
		đưa chồi ngọc, hoa chen cành vàng                         Trong 
		nhà ta đèn thắp sáng trưng                         Song 
		le còn muốn chơi trăng ngoài thềm                         Để 
		cho ấm ngoài êm...             
		Vào sáng Mồng một Tết, một số chức sắc trong 
		làng từ Tiên chỉ, Thứ chỉ, Lý trưởng, Trương tuần cùng các bô 
		lão đều tề tựu về đình làng để tế cáo thần linh bản thổ và 
		thần Thành hoàng. Trong ngày gặp mặt đầu năm ở nơi linh-thiêng 
		này, quý chức sắc của làng đều dâng lời cầu nguyện xin Thành 
		hoàng và thần-linh bản-thổ phù trợ cho dân làng sang năm mới 
		được vạn sự như ý:                         Chúc 
		mừng thượng đẳng tối linh                         Phù 
		trì dân xã hiền-vinh sang giàu 
		Trước đình lại có rồng chầu Có 
		đôi qui phụng tựa màu non tiên 
		Giữa đình có đấng bát tiên... Trong 
		những hội Xuân đầu năm, làng thường tổ chức các hội hát nam 
		nữ như: hát đúm, hát dặm, hát trống quân, hát quan họ... 
		Thường vào cuộc hát, người khởi xướng thường hát những lời 
		chúc tụng tốt đẹp: Tới 
		đây viếng cảnh, thăm hoa 
		Trước mừng các cố, sau là mừng dân. Sau 
		nữa tôi mừng cả làng tuần 
		Mừng cho nam nữ chơi Xuân hội nầy Một 
		mai đàn có bén dây Ơn 
		dân vạn bội biết ngày nào quên! Vào 3 
		ngày Tết, các làng thường tổ chức các trò chơi tại sân đình, 
		sân chùa hay một khoảng đất trống nào đó để dân làng tụ tập 
		vui Xuân. Các trò chơi thông thường gồm có: cờ người, tổ tôm 
		điếm, đánh đu, ném cầu, chọi gà, đô vật, ... Ngoài dịp Tết 
		Nguyên đán, các làng còn tổ chức hội Xuân vào các ngày Thần 
		kỵ tức ngày húy kỵ của vị Thành hoàng của làng. Các lễ hội 
		này thường được tổ chức vào mùa Xuân hay mùa Thu vời nhiều 
		trò chơi đặc biệt hơn. Ngoài 
		địa điểm chính nêu trên, dọc theo đường làng dưới bóng các lũy 
		tre hay cây đa, cây bàng, người ta thấy tụ tập từng 5, 7 người, 
		có nơi 10, 15 người để chơi các trò cờ bạc như xóc dĩa, đánh 
		đáo... 
		            Mồng một chơi cửa chơi nhà, 
		            Mồng hai chơi xóm, mùng ba chơi đình. Thực 
		ra, các nơi vui Xuân không phận biệt ra từng ngày rạch ròi như 
		trên mà còn tùy thuộc vào từng hạng người, từng lứa tuổi. 
		Phần lớn các người đứng tuổi thích tụ tập về sân đình, sân 
		chùa để thưởng thức các trò vui Xuân, lớp con cháu lại thích 
		tụ tập ở các nơi xóc dĩa, bầu cua, đánh đáo... Một số 
		tỉnh thuộc miền Trung Trung phần, ngoài các trò chơi như xóc 
		dĩa, bầu cua, đánh đáo, ... còn có thú chơi bài chòi: 
		            Rủ nhau đi đánh bài chòi 
		            Ơ nhà con khóc nó lòi rún ra. Đây là 
		một hội bài chòi được nhà văn Võ Phiến thuật lại theo tài 
		liệu của nhà thơ Quách Tấn: “Trên 
		một khoảnh đất, dựng lên 9 cái chòi. Các chân bài, mỗi chân 
		chiếm một chòi. Người ta dùng bộ bài Tam Cúc 27 cặp, đem mỗi 
		lá bài dán vào một thẻ tre. Bộ bài chia ra làm đôi: một nửa 
		bỏ vào ống do người hô hiệu giữ, một nửa đem phân phối cho 9 
		chòi, mỗi chòi 3 lá. Lúc vào cuộc, anh hiệu rút bài trong ống 
		ra, hô lên, chòi nào trúng lá ấy thì gọi hiệu đem lại. Khi có 
		một chòi trúng đến lá thứ 3 là xong một ván. Người hô hiệu 
		thu hết bài, trộn nhau, rồi lại phát ra mỗi chòi 3 lá để bắt 
		đầu lại ván khác. Cứ thế cho đến 8 ván là mãn hội” (7). Phần 
		lớn những người thích chơi bài chòi là thích cái điệu hô đặc 
		biệt gọi là hô bài chòi của các tay hô hiệu. Nói 
		đến Tết mà không nhắc đến các phiên chợ Tết là cả một điều 
		thiếu sót. Chợ Tết có thể là những phiên chợ cuối năm bày 
		bán các hàng Tết từ đồ cúng tế, hoa quả đến quần áo và đồ 
		chơi trẻ con. Chợ Tết cũng có thể là những phiên chợ đầu năm 
		họp lấy hên và thường được tổ chức các trò vui Xuân cùng với 
		việc bày bán hàng Tết. Có những phiên chợ Tết mỗi năm chỉ 
		họp một lần: Bỏ 
		con bỏ cháu,  
		Không ai bỏ hai mươi sáu chợ Yên  Bỏ 
		tổ bỏ tiên 
		Không ai bỏ chợ Viềng mồng tám. Đây là 
		hai phiên chợ Tết đặc biệt của Nam Định xưa: chợ Yên mỗi năm 
		chỉ họp một phiên vào ngày 26 tháng Chạp. Đây là một phiên chợ 
		Tết thật sầm uất với đầy đủ mặt hàng Tết cho người lớn và 
		trẻ con, quy tụ khá đông đảo người quanh vùng về mua sắm. Chợ 
		Viềng lại họp vào ngày 8 tháng Giêng. Tương truyền ngày xưa ở 
		Nam định có đến 3, 4 chợ cùng mang tên chợ Viềng. Chợ Viềng 
		chính nằm ở xã Kim thái, huyện Vụ bản; họp phiên đầu năm vào 
		mùng 8 tháng Giêng, quy tụ dân quanh vùng.  Dân vùng này tin rằng 
		buôn bán vào ngày nầy sẽ gặp may mắn quanh năm. Do đó, nếu gặp 
		những ngày có mưa gió, lại gặp đò ngang cách trở, dân buôn tự 
		động họp chợ ở một nơi nào đó để buôn bán gọi là “lấy 
		ngày”, cầu may cho cả năm. Thế là một phiên chợ Viềng mới được 
		thành hình. Sau phiên chợ họp lấy may đầu năm đó chợ không còn 
		để lại một dấu vết nào. Năm sau hoặc những năm sau nữa, nếu 
		lại gặp trở ngại như trên, dân buôn quanh vùng lại hình thành 
		một chợ Viềng khác, có thể là ở vùng đất năm trước hay một 
		nơi nào khác. Những phiên chợ Viềng này mỗi năm chỉ họp một 
		lần thôi. Ơ kinh 
		đô Huế có chợ Gia Lạc, mỗi năm cũng chỉ họp có một phiên: Gia 
		Lạc chỉ mở ngày Xuân 
		Quanh năm, suốt tháng khó lần tìm ra. Gia Lạc 
		là một phiên chợ đặc biệt gần thôn Vĩ Dạ, hằng năm chỉ họp 
		vào mấy ngày Tết: từ 29 tháng Chạp đến mồng 3 Tết. Tương 
		truyền đây là phiên chợ đặc biệt do vị hoàng tử thứ 4 của Vua 
		Gia Long là Nguyễn Phúc Bính cho lập vào 3 ngày Xuân trên một 
		khoảnh đất rộng gần phủ đệ của ông để cho các người trong 
		hoàng phái đến sắm hàng Tết và vui Xuân như đánh bài chòi, đổ 
		xăm hường, đánh đáo lỗ... Chợ tập trung được nhiều mặt hàng 
		Tết nhất là đồ chơi cho trẻ con do dân các phủ huyện lân cận 
		sản xuất và mang về bán. Dần dần về sau dân quanh vùng cũng 
		được tham dự  trong các sinh hoạt của phiên chợ Tết này và mỗi 
		năm chợ cũng chỉ họp vào 3 ngày Tết mà thôi. Ơ tỉnh 
		Vĩnh Yên có phiên chợ Dưng cũng rất nổi tiếng: 
		            Bỏ con, bỏ cháu 
		            Không ai bỏ hội mùng 6 chợ Dưng. Dưng là 
		tên nôm na của làng Văn Trưng thuộc phủ Vĩnh Tường, Vĩnh Yên. 
		Hàng năm làng Văn Trưng mở hội Xuân vào ngàymùng 6 tháng Giêng. 
		Chợ Dưng tọa lạc gần đình làng Dưng và mở phiên chợ đầu năm 
		cũng vào mùng 6 tháng Giêng. Vừa gặp ngày hội Xuân, vừa gặp 
		phiên chợ đầu năm nên chợ Dưng vào ngày này thật đông đúc. 
		Ngoài việc buôn bán lấy may, dân chúng còn được thưởng thức 
		các trò vui Xuân, đặc biệt là trò chơi trai gái bắt chạch trong 
		chum. Ơ huyện 
		Nông Cống thuộc tỉnh Thanh Hóa có phiên chợ Cầu Quan cũng thật 
		hấp dẫn. Chợ Cầu Quan, dân quanh vùng quen gọi là chợ Thượng, 
		họp chợ ngay bên bờ một con sông đào từ thời nhà Lê vào dịp 
		đầu Xuân. Dân chúng vừa đi chợ Tết vừa xem đua thuyền rồng: 
		            Cầu Quan vui lắm ai ơi, 
		            Trên thì họp chợ, dưới bơi thuyền rồng! Vùng 
		quan họ đất Bắc cũng có những phiên chợ Tết nổi tiếng một 
		thời còn được dân chúng nhắc nhở qua câu ca dao: 
		            Xứ Nam: nhất chợ Bằng Gồi 
		            Xứ Bắc: Vân Khám, xứ Đoài: Hướng Canh. Xứ Nam, 
		xứ Bắc, xứ Đoài là tên gọi nôm na của các tỉnh Hà Nam, Hà 
		Bắc và Sơn Tây ngày xưa. Riêng 
		đất Nam Định còn có những câu ca dao giới thiệu những phiên chợ 
		của họ một cách thú vị: 
		Mồng một chơi cửa, chơi nhà 
		Mồng hai chơi xóm, mồng ba chơi đình. Mông 
		bốn chơi chợ Quả linh 
		Mồng năm chợ Trình, mùng sáu non Côi. Qua 
		ngày mồng bảy nghỉ ngơi 
		Bước sang mồng tám đi chơi chợ Viềng Chợ 
		Viềng một năm mới có một phiên Cái 
		nón em đội cũng tiền anh mua. Tết 
		Nguyên đán là ngày lễ cổ truyền trọng đại của dân tộc Việt 
		Nam.  Trên đây 
		chúng tôi đã nêu lên một số tục ngữ ca dao phản ảnh một số 
		tập tục và hình ảnh quen thuộc của ngày lễ trọng đại đó. Ngày 
		nay, vì hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử, một phần con dân Việt 
		phải sinh sống ở nhiều nơi trên thế giới. Thế nhưng, dù sống 
		trong hoàn cảnh nào, châu lục nào, quốc gia nào người Việt ta 
		cũng vẫn nhớ đến ngày Tết cổ truyền của dân tộc và vẫn tổ 
		chức những hội vui Xuân một cách trọng thể. Tổ chức vui Xuân 
		để giử gìn truyền thống Việt và quảng bá phần nào văn hóa 
		Việt với các sắc dân khác đang cùng sống trên một địa bàn với 
		chúng ta. Đó là ý nghĩa quan trọng của ngày Tết Nguyên đán mà 
		chúng ta vẫn thường tổ chức hằng năm. 
		                                     
		                                                            
		                          ĐÀO ĐỨC NHUẬN   Ghi chú 
		:   (1)  Toan Ánh             
		 Tín Ngưỡng Việt Nam, quyển hạ            tr. 327 (2)  Đào Duy Anh       
		Việt Nam Văn Hóa Sử Cương               
		tr. 204 (3)  Lương Đức Thiệp  Xã Hội 
		Việt Nam                                 
		 tr. 311 (4)  Phan Kế Bính         Việt 
		Nam Phong Tục                           
		 tr. 154 (5)  Toan Ánh                Tín 
		Ngưỡng Việt Nam, quyển hạ          tr. 316 (6)  Đinh Tiểu Nguyên  Tháng 
		Giêng . . . Thời Luận Xuân Đinh Sửu, 1997 (7)  Võ Phiến        Bài Chòi 
		– Đặc San Tây Sơn, Xuân Nhâm Thân, 1992   |