|   | 
		
		   
		
		
		NHẬN XÉT VỀ CA DAO HẬU GIANG
		  
		Sơn Nam 
		Nói Về Miền Nam 
		
		  
		
		Trong số những Ca dao xuất xứ từ miền Hậu Giang, có lẽ lọai 
		“sấm văn” là xưa nhất. Không đi sâu vào nội dung, chúng ta chỉ ghi nhận 
		vài điểm: Văn là bài thơ, văn vần. Sách xưa nêu rơ thí dụ: Nhị độ Mai, 
		Văn (Les pruniers refleuris, poeme tonkinois). Bản in địa phận Sài G̣n 
		1894, hoặc hựu việt, Văn viết trong tuồng hát bội. V́ lối phát âm không 
		rơ rệt của người miền Nam nên Văn bị lầm là Giảng và Sấm Giảng nghĩa là 
		một bổn băn vần truyền tiên đóan thiên cơ, giảng giải đạo lư.  
		Vài đọan thơ gọn gàng dưới đây đủ chứng tỏ mức diễn đạt của vài tu sĩ 
		hồi đầu thế kỷ thứ XX:  
		Hai Vơ phân nói thiệt thà:  
		“Kinh kệ áo dà, để lại chốn đây  
		E khi đi có gặp Tây,  
		Nó coi thấy đặng, sắp bây không c̣n”.  
		Tính thôi đă một buổi tṛn,  
		Xuống thuyền ra biển, hởi c̣n canh hai!  
		(Văn núi Tà Lơn của ông Cử Đa)  
		Hư nên các việc tỏ bày  
		Tôi không có ép có nài chi ai.  
		Thương thay ông lăo Bán Khoai.  
		Lên non xuống núi hôm mai dạy đời.  
		Thân sao nay đổi mai dời.  
		Xóm kia làng nọ, khổ thay thân già!  
		Nam mô đức Phật Di Đà  
		Khiến người trở lại thảo gia của người .  
		Bạc bảy đâu sánh vàng mười.  
		Hiền lương đâu xứng với người hung hăng.  
		(Văn ông Sư Văi Bán Khoai)  
		Nhưng v́ các lọai thơ truyền khẩu kể trên v́ quá mang nặng tâm lư địa 
		phương nên thiếu tánh chất phẩ biến. Vùng Hà Tiên, Châu Đốc vốn là một 
		biên trấn với nền kinh tế nông nghiệp tự túc. Từ xưa, kiều bào Việt Nam 
		đă khai thác tận vùng biên giới Kampot, núi Tà Lơn (chaine de l’Eléphant). 
		Lúc ban sơ, Mạc Cửu đến miền duyên hải vịnh Xiêm La với ḥai băo bài Măn 
		phục Minh.  
		Năm 1878, sử chép việc Hà Hỉ Văn thuộc Thiên Địa Hội đem đ̣an Tàu Ô đến 
		qui phục chúa Nguyễn Ánh ở đảo Cổ Cốt. Trong thời kỳ Pháp thuộc, nhiều 
		đạo sĩ Việt Nam cố gắng biến chuyển khẩu hiệu “bài Măn phục Minh” trở 
		thành lư luận chống thực dân Pháp. Họ phát triển và áp dụng các quan 
		điểm về phong thủy vào vùng Thất Sơn, Cửu Long, dùng những danh từ: Hớn 
		Chúa, Minh Chúa v.v. . .  
		* *  
		*  
		Bên cạnh những ẩn sĩ, c̣n nhiều khách tục, những kiều bào tha phương cầu 
		thực. Vào khỏang 1916, họ nhắn vọng về cố quốc:  
		Tà Lơn xứ rày con tạm ở  
		Nghiệp lưới chài nhiều tháng náu nương  
		Gởi thơ cho cha mẹ tỏ tường.  
		Cùng huynh đệ cho hăn ư  
		Kể từ con đăng tŕnh vạn lư  
		Đến bây giờ có bảy tháng dư  
		Nghiêng ḿnh nằm nhớ tới mẫu từ  
		Ngồi chờ dậy ruột tằm quặn thắt.  
		. .  
		Vận bất tề nay trẻ nổi trôi  
		Thời bất đạt nên con xa xứ  
		Con cũng biết mười ơn vẹn giữ  
		Dạ lâm bền ba thảo ghi ḷng  
		Câu tam niên nhủ bộ bất vong  
		Nghĩa thập ngoại ḷng con lo trả  
		Khó v́ nỗi anh th́ một ngả  
		Cực ḷng thay em ở một nơi  
		Bảy ngày Xuân con chịu tả tơi  
		Ba bữ Tết khoanh tay ngồi ngó  
		. . .  
		Việc ở ăn nhiều nỗi đắng cay  
		Vái Trời phật xin về quê cũ  
		Xứ hiểm địa, chim kêu vượn hú  
		Dế ngâm sầu nhiều nỗi đa đoan  
		Ngó dưới sông: cá mập lội dư ngàn . .  
		Nay con tới nơi nguồn cao nước đục  
		Lọai thú cầm nhiều thứ chỉnh ghê!  
		Giống chằng tinh lai văng dựa bên hè  
		Con gấu ngựa tới lui gần xó vách  
		. . Bầy chồn cáo đua nhau lúc ngúc  
		Lũ heo rừng chạy giỡn bát lọan thiên . .  
		. . .Trên chót vót, nai đi nối gót  
		đôi vượn bạch nựng con thảnh thót  
		Cặp dă nhơn kếu tiếng rảnh rang  
		Ngó sau lưng: con kỳ lân mặt tợ như vàng  
		Nh́n trứơc mặt: ông voi đen huyền tợ thổ.  
		Hướng đông Bắc, con công kêu tố hộ.  
		Cỏi Tây Nam, gà rừng gáy ó o . .  
		C̣n nhiều câu khác vừa tả chân vừa hài hước; đọc bài văn Tà Lơn, hẳn 
		thân nhân của thi sĩ vô danh nọ cũng mỉm cười, được an ủi phần nào. Ác 
		thú ở Ta Lơn tuy nhiều thứ những thi sĩ vẫn sống nhăn như người đi du 
		ngọan ở Thảo Cầm viên, ngày xuân.  
		**  
		*  
		Ng̣ai miền đồi núi An Giang, ở Hậu Giang c̣n một miền địa lư thứ nh́ ăn 
		suốt bờ biển Kiên Giang, phần lớn Ba Xuyên và ṭan tỉnh An Xuyên. Nơi 
		đây, đất quá thấp v́ mới bồi, các rạch nhỏ bắt nguồn từ biền để theo 
		thủy triều đổ vào đồng śnh lầy. Dưới sự đốc suất của Thọai Ngọc Hầu, 
		kinh Vĩnh Tế và kinh Núi Sập (Thọai Hà) đă hoàn thành từ đầu thế kỷ XIX, 
		dẫn nước ngọt từ Hậu Giang đem tưới các ruộng vườn xa lánh, vừa rửa cho 
		đất sạch phèn, vừa giúp việc lưu thông vận tải. Bài vè kinh Vĩnh Tế nói 
		lên công tŕnh khó nhọc của tiền nhân đă phục dịch giữa nơi khí hậu bất 
		lợi. từ làng quê đến chỗ đào kinh, họ phải qua nhiều vùng nguy hiểm để 
		làm mồi cho sấu cọp. Rất tiếc là bài vè ấy mới sáng tác lúc sau nên giá 
		trị về sử liệu c̣n quá kém cỏi.  
		Đáng chú ư hơn hết là việc đào kinh bằng phương tiện cơ giới :phối hợp 
		kỹ thuật cơ giới Tây Phương và đức kiên nhẫn, siêng năng của người Việt” 
		hồi đầu thế kỷ thứ XX  
		Kinh Xà No (Phong Dinh) khởi công đào năm 1901, ḥan tất năm 1903.  
		Hệ thống kinh Xáng Ngă Năm, Ngă Bảy (Phong Dinh) thành h́nh từ 
		1906-1908.  
		Nhờ vậy tỉnh Cần Thơ (Phong Dinh ) đứng hạng nhứt ở toàn Nam Kỳ về sản 
		xuất lúa gạo. Lúa gạo bán tăng giá. Mức sống của mọi từng lớp lên cao. 
		Những người dân hai Huyện (trai Nhơn Ái, gái Long Xuyên) bấy lâu nổi 
		tiếng là người dinh (dân sang trọng, chánh gốc, ở vùng dinh quan chưởng 
		cơ Nguyễn Hữu Cảnh) gặp cơ hội thuận lợi để di cư khắp vùng mới đào kinh 
		Xáng để làm thầy dạy ḥ hát.  
		- Đời phải đời thạnh trị  
		Cuộc phải cuộc văn minh  
		Ḱa là gió mát trăng thanh  
		Nầy bớ em ơi! Biết đâu nhân đạo bày t́nh cho vui . .  
		- Nước bích non xanh  
		Người bạn lành khó kiếm  
		Đây em cũng có hiếm, chẳng lựa đặng chỗ nào  
		Măn lo mua bán ra vào Cần thơ . .  
		Đa số các thầy vốn là đào kép hát bội, giải nghệ - được học tṛ rước đem 
		về nhà để dạy ḥ – dạy ăn tiền.  
		Trong ngôn ngữ b́nh dân, không nghe nói đến danh từ ca dao. Căn cứ vào 
		nạhc điệu, trường hợp xử dụng, họ gọi đó là hát đưa em, hát huê t́nh, 
		hát đối, ḥ chèo ghe, ḥ xay lúa, ḥ cấy.  
		Câu hát đưa em:  
		- Chờ em cho măn kiếp chờ  
		Chờ cho rau muống vượt lên bờ trổ bông.  
		Có thể đưa ra đồng lúa, trên sông rạch để trở thành câu đối hát. Và khi 
		gặp người đáp lại khéo léo:  
		- Rau muống trổ bông lên bờ nó trổ  
		Ai biểu anh chờ mà anh kể công ơn.  
		Th́ cả hai vế được ǵn giữ đem về nhà trở thành câu hát đưa em.  
		Xu hướng “kéo dài, bổ túc các câu sẵn có” đă tạo thêm được nhiều câu hát 
		đưa em đáng lưu ư:  
		- Bớ chiếc ghe sau, chèo mau anh đợi  
		Kẻo giông khói đèn bờ bụi tối tăm  
		- Bờ bụi tối tăm, anh quơ nhằm cái tộ bể  
		Cưới vợ có chử về thổi lửa queo râu.  
		Hoặc:  
		Khế với chanh một ḷng chua xót  
		Mật với gừng một ngọt một cay  
		- Ra về bỏ áo lại đây  
		Để khuya em đắp gió tây lạnh lùng  
		- Có lạnh lùng lấy mùng mà đắp  
		Trả áo cho anh về đi học kẻo trưa.  
		Người thọ giáo không cần học vỡ ḷng về luật bằng trắc, yêu vận, cước 
		vận v́ ai nấy đă từng thở không khí lục bát và các biến thể của lọai thơ 
		ấy từ khi nằm trên vơng.  
		Theo quan niệm các thầy th́ câu hát đối đối chia ra ba loai, từ sở 
		trường, sở đoản từng người mà áp dụng.  
		1. H̉ VĂN dùng cách ngôn Khổng Mạnh (trích trong Minh Tâm Bửu giám, để 
		gợi hứng, gieo vần:  
		Vật bạc t́nh bất thủ  
		Nhơn phi nghĩa bất giao  
		Anh nguyền thưởng bậu một dao  
		Răn phường ḷng dạ mận đào lố lăng . .  
		Hoặc:  
		Tay cầm quyển sách Minh Tâm anh đọc:  
		Thiện ác đáo đầu chung hữu báo.  
		Cao phi viễn tấu khả nan tàng  
		Từ khi anh xa cách con bạn vàng  
		Cơm ăn chẳng được như con chim phụng ḥang bị tên.  
		2. H̉ TRUYỆN dùng điển tích trong truyện Tàu để gợi hứng gieo vần hoặc 
		nêu câu hỏi:  
		Văng vẳng bên tai  
		Tiếng ai như tiếng con Điêu Thuyền?  
		Anh đây Lữ Bố kết nguyền thuở xưa  
		- Từ trên trời xuống mặt nước mấy trăm ngàn thước  
		Từ mặt nước xuống âm phủ đi mấy ngày đường?  
		Một bộ Tây Du mấy cuốn?  
		Mộ cuốn mấy trang  
		Một trang mấy hàng chữ?  
		Nói cho có ngăn có ngũ, gái má đào mới chịu thua!  
		- Đó ở dưới thuyền buôn,  
		Thả luông tuồng theo nhịp?  
		Có phải là: Ngũ Hồ kư tính Đào Công vi nghiệp  
		Tứ hải ngoa du Yến Tử pḥng  
		Linh đinh nay lớn mai ṛng  
		Vậy đà có chốn loan pḥng hay chưa?  
		3. H̉ MÉP : dùng lời lẽ nôm na, không điển tích, không cách ngôn:  
		Đèn tọa đăng để tước bàn thờ  
		Vặn lên nó tỏ, vặn xuống nó lờ  
		Xuống sông hỏi cá, lên bờ hỏi chim  
		Trách ai làm cho thế nọ xa tiềm Em xa người nghĩa mà nằm điềm chiêm bao.
		 
		Lúc đầu, lọai ḥ văn và ḥ truyện được ưa chuộng. Truyện Tây Du, Phong 
		Thần, Tiền Đừng, Hậu Tống, sách Minh Tâm Bửu Giám lần lần xây dựng cho 
		mọi người một vốn liếng về cổ học, nhân bản của Á Đông. Việc phổ biến ấy 
		ngày càng thêm sâu rộng nhờ mức sống của nông dân và tiểu thương lên 
		cao, nhờ phương tiện chữ quốc ngữ. Bắtđầu ấn hành từ đầu thế kỷ XX tại 
		Sài G̣n; các bản dịch ấy phải đợi non 30 năm sau mới thấm vào giới trung 
		lưu và b́nh dân ở thôn quê Hậu Giang – như thể kể cũng nhanh chóng.
		 
		  
  |