Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
  Nụ Tầm Xuân Nở Ra Xanh Biếc

Tác Giả : Phan Bảo Thư   Chúa Nhật, 13 Tháng 12 Năm 2009 08:03

Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước ra vườn cà hái nụ tầm xuân,
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em lấy chồng anh tiếc lắm thay...
   thanh Những câu ca dao với lời và ư thật nhă đă được nhạc sĩ  Phạm Duy phổ nhac đóng góp vào những bản nhạc xuân. Từ ngữ "xuân " trong danh từ "nụ tầm xuân " dễ gợi cho mọi người những ư nghĩ về tuổi trẻ; những hoài niệm về thuở ầu thơ với những tưởng tượng mơ hồ về hính dáng của loài hoa: HOA TẦM XUÂN hay NỤ TẦM XUÂN NỞ RA XANH BIẾC. Nhưng, ...thật sự có thứ nu tầm xuân nở ra xanh biếc hay không ? V́ nhiều người cho rằng nụ tầm xuân chỉ là những cánh hoa hồng dại làm ǵ có màu xanh biếc ?
Để nhận ra xem có c̣n loài hoa tầm xuân nào mà nụ nở ra xanh biếc nữa chăng bài viết này sẽ đề cập đên những dữ kiện liên quan đến nụ tầm xuân.
Trước hết như nhiều người công nhận rằng hoa tầm xuân chỉ là một chi nhánh của loài hoa mọc hoang dại trong họ hoa hồng. Tầm Xuân c̣n có những tên khác là: thích hoa, bạch tàn hoa, thích mi, ngưu cúc, thập tỉ muội, thất tỉ muội, dă tường vi. Hoa co' màu trắng hay hồng; c̣n màu "xanh biếc" trong câu thơ th́ tac giả đă túng vận nên chỉ nói cho suôn, cho hợp với vần "iếc" trong từ ngữ "tiếc" của câu sau. Chuyện túng vận đúng hay sai sẽ được đề cập ở phần sau. Và trong nhóm hoa thuộc họ nhà hồng này có những loài có tên khoa học là Rosa tunquinesis hay Rosa cymosa hay Rosa multiflora (Wikipedia) và có nguồn gốc từ Âu châu, Tây Á.
Sách Và tài liệu của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ cũng như Vơ Văn Chi và Lê Khả Kế chỉ cho thấy Tầm Xuân thuộc họ nhà Hồng (Rosaceae) với các loài sau: Rosa tunquinensis (Tầm Xuân Bắc hay c̣n gọi là Quầng quầng), Rosa cymosa (Tầm xuân-hồng choắt-hồng roi), Rosa multiflora (Tầm xuân đa hoa). Tự điển của Nguyễn Đ́nh Hoà dịch chữ Tầm Xuân sang tiếng Anh là dogrose: hồng chó hay hồng cẩu, thật không thanh lịch lăng mạn ǵ hết v́ tất cả các loài hoa hồng này chỉ là những loài hoa mà cành cây đầy gai góc và màu hoa th́ từ trắng đến màu hường nhạt không có loài nào nở ra xanh biếc.
Từ Nguyên tự  điển chỉ ghi Tầm Xuân là đi t́m mùa xuân, có  mấy câu thơ liên quan đến ư nghĩa của hai chữ  Tầm Xuân:
Tầm Xuân du thượng lộ
Truy yến nhập tiên gia
    [ Trần Tử Ngang]
hay:    .Ngu hanh` tương  cấm hoa
          Thập bộ tưởng tầm xuân
    [Mạnh Hạo Nhiên].
Thi nhân của nền Văn chương Hoa Việt cũ không có nhiều cảm hứng trước loài hoa tầm xuân v́ nó hiếm hoi hay v́ hương sắc quá khiêm nhường trước những mẫu đơn, hải đường, hoàng mai, tịnh lan, ...nhưng dù hiếm hoi th́ "nụ tầm xuân' cũng đă có tên trong nền văn chương Đai Việt. Như đă nói, t́nh, ư gởi gắm trong mấy câu ca dao thật yêu kiều và lăng mạn và cũng đă có một giai thoại của lịch sử về chúa Trịnh Tráng ở Đàng Ngoài và vị khai quốc công thần Đào Duy Từ ở Đàng Trong trong giai đoạn mở đầu của thời Trịnh - Nguyễn phân tranh.
Là một đấng thiên tài nhưng lại sinh ra từ một gia đ́nh xướng ca họ Đào không thể tiến thân bằng con đường khoa cử nơi đất Bắc, đành phải dung thân, t́m chân chúa nơi "Đạo Hoành-sơn ". Noi theo chí lập thân của người xưa, theo cách cũ của Bách Lư Hề, Ninh Thích gơ sừng trâu mà đủng đỉnh ngâm khúc "Ngoạ Long Cương ". Chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên đă "già " đoán anh hùng giữa chốn trần ai. Rồng mây gặp hội, Đào Duy Từ đă đem hết tài kinh luân giúp chúa Nguyễn an bang tế thế, vững bền biên thuỳ một cơi nguy nga ở phương Nam, sá ǵ Trịnh phủ hiếp đáp vua Lê ở Bắc Hà mà không dám đương đầu : dư bất thụ sắc!
Thành tích và chiến công của Đào Duy Từ đến tai chúa Trịnh, Trịnh Tráng sai người mang lễ vật cho Đào Duy Từ với lời ân hận đă bỏ lỡ cơ hội cho cuộc tương phùng:
Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước ra vườn cà hái nụ tầm xuân;
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em lấy chồng anh tiếc lắm thay.
Lễ vật và t́nh ư không chiêu dụ được Đào v́ ông đă t́m ra chân chúa, ông đă trả lời Trịnh Tráng:                 
Ba đồng một mớ trầu cay,
sao anh không hỏi những ngày c̣n không ?
Bây giờ em đă có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra !
Lời từ chối nhẹ nhàng nhưng khéo léo; Trinh Tráng lại cho người chiêu dụ một lần nữa; lần này ho Dao`quyết liệt hơn:
Có ḷng xin tạ ơn ḷng,
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen.
Trinh Tráng không c̣n kiên nhẫn nữa; tức giận:
Có ai vể tới Đàng Trong,
Nhắn nhe Bố Đỏ liệu trông đường về;
Măi tham lợi bỏ quê quán tổ,
đất nước người dù có như không.
Không biết ai là tác giả của những câu ca dao ấy, Trinh Tráng và Đào Duy Từ sáng tác hay là chỉ góp nhặt từ trong dân gian như viên đá quư trong đám sỏi đá của văn chương b́nh dân mà họ đă gặp trên đường đi. Cho dù tác giả là ai th́ những viên đá hay những thanh kiếm bắt gặp trong án thư của vương phủ hay của một đại thần phải là một viên đá quư không có tỳ vết hay là thanh bảo kiếm không hoen rỉ. Chúa Trinh đă dùng lời lẽ trong mấy câu thơ để chiêu dụ hiền tài th́ đó không thể là cau thơ của một thi sĩ túng vận. Một chút dài ḍng văn tự trên đây chắc cũng đủ để nhận chân giá trị bài thơ.
Tô Đông Pha chắc phải thẹn thùng nhiều lắm về chuyện sửa câu thơ của Vương An Thạch sau khi nhận ra sự hiện hữu của loài chim có tên Minh Nguyệt và loài sâu có tên Hoàng Khuyển. Hy vọng chúng ta không phạm phải lỗi lầm của người xưa; chớ vội nói rằng câu ca dao câu ca dao trên đă có sự túng vần trước khi nhận dạng ra một loài hoa Tam Xuân nở ra xanh biếc.
Thật vậy.
Bàn trở lại về cách gieo vần của bài thơ, đây là bài thơ theo thể lục bát thất ngôn, vần iếc trong chữ biếc của câu thứ ba[câu thất thứ nhất] sẽ được nối vần với chữ thứ năm của câu thất thứ hai [chữ tiếc]. Khi đưa ra chữ biếc để gieo vần tác giả có hoàn toàn tự do v́ chưa phải t́m vần. Nếu chữ tiếc, chữ thứ năm của câu thất thứ nh́ [câu thứ tư của bài thơ] gieo đúng vần với chữ biếc mà không có nghĩa th́ mới nói là câu thơ bị ép vần v́ thi sĩ đang bị túng vần. Tóm lại ở đây thi sĩ có hoàn toàn tự do để viết (nói ) ra rằng nụ tầm xuân nở ra xanh biếc. Phải có một thứ Nụ Tầm Xuân nở ra xanh biếc
Lịch sử c̣n đó, Thanh Đô Vương Trịnh Tráng và Nội tán Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ đă đi vào lịch sử, chuyện chiêu dụ và khước từ cũng đă rơ ràng nhưng câu chuyện văn chương th́ vẫn c̣n là những ẩn khuất. lấy ǵ làm bằng chứng rằng hai bậc vương hầu Trịnh-Đào đă đối đáp với nhau bằng những câu ca dao như thế. Văn khố nào lưu giữ bút tích của người xưa ? Chắc là khó v́ xét cho cùng th́ đó là những bí mật quân sự. Khó t́m thấy câu chuyện văn chương này trong những thư tịch khả tín nhưng giai thoại th́ vẫn đồn đăi, lưu truyền trong dân gian. Không có lửa sao có khói hay là chúng ta dễ dăi một chút, chấp nhận câu chuyện qua lời truyền tụng của nhân gian. Tư-mă Thiên, đệ nhất sử gia Trung quốc đă không t́m tài liệu từ những lời nói lưu truyền trong dân gian đó sao ! Và rồi nếu câu chuyện văn chương có thật th́ hoa tầm xuân nở ra xanh biếc cũng có thật. Phần khẳng định này phải nhờ đến những nhà nghiên cứu văn học và những nhà thực vật hoc
Sách Và tài liệu của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ cũng như Vơ Văn Chi và Lê Khả Kế chỉ cho thấy Tầm Xuân thuộc họ nhà Hồng (Rosaceae) với các loài sau: Rosa tunquinensis (Tầm Xuân Bắc hay c̣n gọi là Quầng quầng), Rosa cymosa (Tầm xuân-hồng choắt-hồng roi), Rosa multiflora (Tầm xuân đa hoa). Tự điển của Nguyễn Đ́nh Hoà dịch chữ Tầm Xuân sang tiếng Anh là dogrose: hồng chó hay hồng cẩu, thật không thanh lịch lăng mạn ǵ hết v́ tất cả các loài hoa hồng này chỉ là những loài hoa mà cành cây đầy gai góc và màu hoa th́ từ trắng đến màu hường nhạt không có loài nào nở ra xanh biếc.
Vậy tai sao c̣n có một nhà thơ vẫn ngâm nga:
Chạm vào một nhánh Tầm Xuân,
Vẫn xanh biếc nụ, vẫn ngần ấy hương
.
" vẫn xanh biếc nụ, vẫn ngần ấy hương" xem ra th́ thi sĩ đă quen thuộc với hoa Tầm xuân lắm và hy vọng rằng lần này thi nhân nhắc đến tên tầm xuân với màu xanh biếc không phải là một sự mô tả theo lối ước lệ v́ tác giả câu thơ đă từng quen nh́n tầm xuân nên thấy "vẫn" xanh biếc nụ và đă từng quen thuộc với mùi hương hoa nên cũng chỉ ngửi thấy "ngần ấy hương". Và như vậy th́ phải có một loại hoa tầm xuân có màu xanh biếc.
Theo công tŕnh nghiên cứu của Nguyễn Xuân Đức th́ có một loại hoa họ đậu được phân phối nhiều ở duyên hải miền Trung Việt nam có tên là Tầm Xuân hay c̣n gọi là hoa Đâu biếc có màu xanh tím.
Theo những nghiên cứu của Nguyễn Xuân Đức th́ hoa Tầm Xuân có nhiều ở duyên hải miền trung Việt nam từ Thanh hoá Nghệ an đến B́nh Thuận. Hoa thuộc họ đậu sắc màu xanh tím nên c̣n có tên là hoa đậu biếc.
Theo nhà thực vật học, giáo sư Nguyễn Thiện Tích ở Đai Học Khoa Học đường Saigon [nay là Trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên] th́ giống hoa này có chung một họ mà tên khoa học là Clitoria .  Cái tên thật dễ gợi đến phần nhạy cảm nhật trong cái "vưu vật tôn nghiêm" của cơ thể phụ nữ: "Clitoris". Thuộc ḍng ho Clitoria này có những chi mariana, blue pea, vine, fragan, macrophylla, alba, ... Có lẽ ví lư do thỗ nhưỡng, khí hậu mà loài hoa chỉ xuất hiện ở duyên hải miền trung Việtnam. Có lẽ vùng Thanh hoá Nghệ an, miền đất tổ của Thanh Đô Vương Trịnh Tráng không hiếm loài hoa này và Thanh Đô Vương đă có dịp hội kiến loài hoa mang nhiều đặc tính lăng mạn, hoa Tầm Xuân
Tự điển Việt Anh của Nguyễn Đ́nh Hoà dịch tên Tầm Xuân từ tiếng Việt sang tiếng Anh là dogrose. Cái tên dễ làm thất vọng những ai có tâm hồn lăng mạn v́ nó đă làm mất đi tất cả những thi vị của tên gọi Tầm Xuân
Nhưng ngoài câu ca dao trên c̣n vài câu thơ như là :
Dáng tầm xuân uốn trong tranh tố nữ
Ôi tiên nương nàng lại ngự nơi đây,
Mắt ngời châu rung ánh sáng nghê thường,
  [ Bích Khê- Bức Tranh Tố Nữ].
Loài hoa hồng th́  chắc là không thể khêu gợi, uốn éo như  lời thơ của Bích Khê . Có lẽ Bích Khê, thi sĩ của thi sĩ sinh trưởng trên vùng đất của sông Thu bồn, núi Thiên ấn có dịp ngắm nh́n những đoá Tầm Xuân thuộc họ đậu lăng mạn Clitoria mariana hay Clitoria ternatea này chăng ?
 
Xem như thế th́ có hai nhóm hoa Tầm Xuân: nhóm thứ nhất thuộc loại nhà hồng với Rosa cymosa, Rosa multiflora, Rosa tunquinensis và nhóm thứ hai thuộc họ đậu như: Clitoria mariana, Clitoria ternatea, ... Không biết nhạc sĩ Xuân Tiên đă dề cập đến loài hoa Tầm Xuân nào khi soạn "Khúc Ca Ân T́nh" ..."một ngày t́m về phương Bắc, hái hoa Tầm Xuân trao nàng..."
Hoa cỏ th́ đă có từ bao nhiêu triệu năm trước khi loài người xuất hiện trên hành tinh này, xét cho cùng th́ cũng chỉ là những thứ hữu thể vô thường. Có thể chúng ta đă chiêm ngưỡng với nét đẹp tưởng tượng qua mấy ca dao trước khi thực chứng căn cước của loài hoa của Hoa Tầm Xuân. Nét đẹp trong huyễn tưởng bao giờ cũng lăng mạn và mỹ miều hơn trong thực tế và nhắc nhở nhiều đến những hoài niệm ấu thơ.
Nụ Tầm Xuân rộn hương ngày cũ,
Hoa bưởi thơm trắng tụ vườn xưa.
Để trời đừng nắng đừng mưa,
Chỉ hiu hiu gió cho vừa nhớ thương

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17