GHE BẦU MIỀN TRUNG - MÔ HÌNH THƯƠNG
THUYỀN NGƯỜI HOA
GHE BẦU CỦA NGƯỜI VIỆT
Đă có nhiều tài liệu nói đến ghe bầu. Theo
tác giả N.Đ trong mục “Ghe bầu” đăng ở tạp chí Văn hoá Dân gian
số 3-2000 có viết về ghe bầu như sau:
“Trong thuyền bè cận duyên Việt Nam chiếc
ghe bầu có vị trí rất đặc biệt được nhiều công tŕnh khảo sát về
thuyền bè của tác giả nước ngoài chú ư coi đó là loại thuyền
biển bản địa chứa đựng nhiều nét độc đáo về kỷ thuật đóng thuyền.
Một số tác giả cho rằng tên loại thuyền này
– ghe bầu có nguồn gốc từ ngôn ngữ Nam Đảo- “Gay Pràu”- tiếng Mă
Lai là thuyền buồm. Ghe bầu có dáng hai đầu nhọn bụng thuyền
ph́nh to (bầu) lô lái và lô mũi cong. Thuyền cấu tạo có ḷng cốt
ḷng thuyền ngăn thành từng khoang để chứa hàng. Có loại ghe bầu
đáy bằng nan trên là ván be ghép với nhau bằng chốt mộng. Thuyền
sử dụng lái lồi bánh lái cong theo lô lái sâu dưới ḷng cốt. Lực
đẩy thuyền là các lá buồm: buồm ḷng buồm mũi ở hai đầu ghe. Mắt
thuyền lớn dài xếp về phía sau. Ghe bầu thuộc loại thuyền lớn có
thể trọng tải từ 50 – 100 tấn có thể chạy ngược gió bằng kỹ
thuât “ chạy vát”.
Ghe bầu dùng phổ biến từ Trung Trung Bộ đến
cực Nam Trung Bộ tuy nhiên mỗi địa phương có những nét khác biệt.
Nguyễn Bội Liên (trong bài Ghe Bầu Hội An- xứ Quảng) cho rằng
giữa ghe bầu Hội An- Quảng Nam và ghe bầu Ninh Thuận B́nh Thuận
th́ ghe bầu Ninh – B́nh Thuận cổ hơn gần với Gay Pràu của Mă Lai
hơn.
Người ta cũng so sánh ghe bầu với loại
thuyền chiến của người Chăm Pa khắc trên phù điêu Ăng co từ đó
giả thuyết rằng nguồn cội ghe bầu là sáng tạo của người Chăm sau
này người Việt vào tiếp thu và hoàn chỉnh chiếc ghe bầu như ngày
nay. Cho nên có thể coi đây như là sản phẩm của sự giao lưu văn
hoá Việt –Chăm.
Trước kia cũng như hiện nay Hội An là nơi
có nhiều trại đóng ghe bầu nổi tiếng. Ghe bầu dùng trong đánh cá
chuyên chở trên biển để buôn bán sử dụng trong quân sự. Điều này
phù hợp với các dữ liệu lịch sử về Hội An vốn xưa là Chiêm cảng
của quốc gia Chăm Pa sau này là một cảng thị nổi tiếng của Đại
Việt từ thế kỷ XVI – XVII nơi hội tụ người Hoa Nhật Bản và cả
người phương Tây (Hà Lan) tới sinh sống và buôn bán”.
Theo chúng tôi ghe bầu trước hết là một
loại phương tiện chuyên chở hàng hoá bằng đường biển chạy bằng
buồm là gia sản của các nhà giàu vùng cửa biển ngày trước. Chính
bài Vè các lái của các thương thuyền ngày trước đă nói rơ ngay
từ câu mở đầu:
Ghe bầu các lái đi buôn
Đêm khuya ngồi buồn kể chuyện ngâm nga
Bắt đầu Gia Định kể ra
Anh em thuận hoà ngoài Huế kể vô.
Hơn nữa trong ca dao B́nh Định cũng nói ghe
bầu như là phương tiện chuyên chở hàng hoá:
Ghe bầu trở lái về đông
Con gái có chồng bỏ mẹ ai nuôi?
- Mẹ tôi đă có người nuôi
Tôi theo chú lái tôi xuôi một bề
Dù mà chú lái có chê
Tôi theo chú bạn tôi về Đồng Nai
Đồng Nai sông nước giao kề
Kẻ đi có vợ người về có con.
Với ngư dân- thương nhân Hoài Nhơn th́ hằng
năm cứ vào độ sau lễ Thượng Nguyên (rằm tháng giêng âm lịch) các
chủ ghe bầu cho ăn hàng ở địa phương rồi xuất bến. Nếu đi ra
cánh bắc như Huế Cửa Việt Cửa Tùng (Quảng Trị) th́ ghe mang các
loại hàng: dầu dừa dây dừa muối dầu rái và cả dừa quả (được bóc
vỏ) và thường đi xuôi theo những đợt gió nồm thổi mạnh. C̣n nếu
đi vào cánh Nam th́ hàng chủ yếu là dây dừa nếu vào tới G̣ Công
(Tiền Giang) th́ trên đường về hàng chủ yếu là gạo và rượu hủ.
Và nếu đi được chuyến kế tiếp vào khoảng tháng 5-6 âm lịch th́
ghe chỉ nằm dọc bờ biển Ninh Thuận c̣n sâu hơn nữa là B́nh Thuận
chờ ở cho có cá nhiều là muối mắm đem về. Ngày ấy cá ở Ninh
Thuận B́nh Thuận rất nhiều nên có lúc họ trúng mùa cá rẻ muối
mắm cho ghe bầu mang về Hoài Nhơn (qua 2 cửa biển Tam Quan và An
Dũ). Vào các tháng trời động gió to ghe bầu chuyển mắm ấy lên
các ngă nguồn cung cấp cho vùng cao (do thuyền nguồn chở tiếp)
lên vùng xa.
CẤU TẠO GHE BẦU. nguồn: bảo tàng Hội
An
Ghe bầu như trên đă nói là loại chuyên chở
chủ yếu bằng đường biển nên việc cấu tạo của nó cũng phải chắc
chắn nặng nề. (V́ ghe bầu nặng nề nên thuyền ít khi dùng để làm
biển đánh cá như tài liệu trên đă nói). Thường ghe có chiều dài
cở 12-15 mét ngang gần 3 mét sâu hơn 2 mét. Ghe bầu Hoài Nhơn
chạy bằng 3 cạnh buồm ngang to tướng (giữa là buồm lớn gọi là
buồm ḷng phía trước gần mủi là buồm mủi đằng sau lái bên hông
thêm một buồm nhỏ nữa là buồm ưng- mà theo các cụ giải thích đây
là buồm phụ nên ưng th́ mở ra chạy không ưng th́ cuốn lại). Hai
côt buồm (mủi và ḷng) đều có dây chằng từ đầu cột xuống đến 2
be ghe bằng mây song léo đôi cột mủi chỉ có 2 dây. Thân ghe bầu
đóng bằng ván (be) chồng cao hai hoặc ba lớp (gọi là be đôi be
ba) giữa ghe là đ̣n ganh có trụ giữa không đưa tới đưa lui được.
Đ̣n ganh là tấm ván dày dài gấp đôi bề rồng của ghe có dây chằng
từ đầu cột buồm ḷng xuống giữ hai đầu đ̣n ganh. Khi chạy vát
(chạy thuyền ngược gió bằng cách kéo xiên xiên lá buồm) nếu ghe
nghiêng th́ ganh được đưa qua hết bên trong tuỳ theo độ nghiêng
mà người bạn trong ghe chạy ra ngồi trên đ̣n ganh nếu ghe
nghiêng nhiều hơn th́ có thể cùng lúc hai ba bốn chạy ra. Dưới
be có một phần nằm trọn dưới nước là mê ghe được đan bằng nan
cật tre dày và lớn bản được trét dầu rái kĩ lưỡng. Hai đầu ghe
bầu là hai sỏ lớn dùng nguyên thân cây mù u có chiều hơi cong
được đục trống trong ḷng để tra lái ống (gọi là sỏ lái) và
tra xa bác (là sỏ mủi). Bên trong ghe bầu là một hệ thống chằng
chịt: con lươn đà giang tạo độ chắc chắn khi chở nặng và chịu
đựng sóng gió dài ngày ngoài biển. Lao động trên ghe bầu thường
là 6-7 người gồm có các “chức danh” gắn liền với nhiệm vụ của họ
như: lái ghe lái phụ tổng thương tổng khậu và bạn ngang. Người
có chức danh lái ghe ở ghe bầu không phải là người trực tiếp cầm
lái chạy ghe (mà nhiệm vụ ấy là của ông chủ ghe bầu ngoài ra ông
chủ c̣n phải giữ rương tiền bạc ch́a khoá và quyết định trong
các việc mua bán ăn hàng trả hàng). Lái phụ mới là tài công cầm
lái chạy ghe điều động giàn bạn định liệu việc đi đứng neo ghé
núp của ghe và do vậy họ thuộc ḷng từng địa danh trên bờ dưới
nước biết chỗ nông sâu chỗ neo được hay không để tránh rạn đá
san hô vùng có gió ḷ gió giật… Đây là người thuộc nhiều nhất
bài vè các lái trên biển. Tổng thương coi việc tát nước coi
chừng những chổ thủng nước quá mức b́nh thường (tức nước khách).
Tổng khậu (hay khẩu) lo việc bếp núc cơm nước hằng ngày báo cho
lái phụ biết khi củi gạo hoặc nước uống gần hết để liệu nơi ghé
ghe vào lấy nước. Bạn ngang lo cuốn lơi bó buồm ngồi ganh đăt
neo kéo neo theo lệnh của lái phụ. Và những khi trời láng gió
(không gió) tất cả đều gay và cầm chèo để chèo cho kịp với dự
định hay ngồi ngoài đ̣n ganh để giảm độ nghiêng của ghe khi ghe
chạy tới thường gọi tắt là ngồi ganh.
Sự phân vai ở đây tách bạch rơ rệt được tái
hiện lại trong hát bả trạo. Nếu như trên sân khấu tuồng nhân vật
được xếp theo những mô h́nh mà nhà nghề gọi là: đào kép lăo mụ
vua quan tướng soái… th́ ở đây sự phân vai rất đơn giản gồm tổng
mủi tổng khoan tổng lái và đám bạn chèo tuỳ theo vị trí của mỗi
người trong thực tế chèo thuyền trên sông nước. Tổng khoan trong
buổi diễn phải luôn luôn hoạt động tay cầm gàu tát nước vừa cúi
xuống ngẩng lên để tát nước vừa hát:
Huớ cụ lái ơi nước nôi đă đầy- hà
Tôi cầm gàu bôn ba nhảy xuống khoang
tát nước
Có lúc anh ta tự giới thiệu ḿnh như trong
chèo:
Môi lảm bảm hổi giờ chức chửa xưng tên
Dạ! Trước phụng thờ thần thánh sau vâng
lệnh vạn thôn. Tôi là quyền trong tấn trong phan ngă danh xưng
tổng thương tát nước
Và với việc tát nước ấy tổng thương có thể
chọc cười khán giả bằng động tác tát nước đủ kiểu với những kiểu
vẽ mặt nhăn nhó v́ mệt nhọc của ḿnh.
Đặc biệt ở vai tổng mủi được dành cho một
số điều kiện để phát triển tài năng cá nhân. Tổng mủi là chủ yếu
của buổi diễn. Tổng mủi phải là người diễn viên đa tài mới gây
không khí rộn ràng cho buổi diễn và phải biết đủ các làn điệu
dân gian từ ngâm phú lư … đến các làn điệu tuồng: nói lối xưng
thán oán tán hát nam ai hát bài….Nhiều đoạn cần kéo dài thời
gian tŕnh diễn tổng mủi phải vận dụng tài năng để diễn như một
diễn viên thực sự trên sân khấu tuồng. Ông ngâm thơ luận sự tích
cổ kim uống rượu giả say và hát. Nghĩa là với tất cả mọi thủ
pháp nghệ thuật đều được sử dụng để gây được không khí sôi động
cho buổi diễn.
Qua cách tŕnh diễn của tổng mủi tổng lái
tổng thương và đám bạn chèo như đă nói ở trên có thể nói nghệ
thuật phân vai cho các nhân vật trong buổi diễn đă đạt đến
tŕnh đô chuyên môn hoá rơ ràng minh bạch và đầy tính năng động.
Dân gian cũng từng châm biềm những bạn ghe
bầu:
Bạn ghe bầu ngồi đâu nói phách
Măn chèo sào giẻ rách đầy rương.
Trở lại với ghe bầu. Người đi ghe bầu
thường phải xa nhà ba bốn tháng trời cha mẹ vợ con ở nhà thường
nóng ruột nên trong dân gian thường có câu:
Lạy trời thổi gió nồm đông
Cho buồm căng gió cho chồng tôi lên.
Vận chuyển bằng ghe bầu gặp bao nhiêu nguy
hiểm nên vào thời ấy th́ không ǵ hơn là người lái phụ phải lăo
luyện và có kinh nghiệm xem hiện tượng đoán thời tiết giông gió
không có một loại phương tiện dự báo nào như bây giờ. Ghe bầu
ngày trước là biểu trưng cho một cơ ngơi một tài sản to lớn của
những nhà giàu có ven cửa biển chứ đem so với ghe thuyền đánh cá
b́nh thường ngày nay th́ cũng chẳng ra sao.
Ngày nay ghe bầu đă nhiều thập niên vắng
bóng dọc theo bờ biển miền Trung và giới trẻ cũng không thể h́nh
dung tưởng tượng chiếc ghe bầu có ba cạnh buồm hiên ngang lướt
gió như thế nào!
Trần Xuân Liếng- Trần Xuân Toàn
Post ngày:
11/30/17 |