|  | 
			 T́m hiểu về dân ca Quan họ    (Trích từ: yeuamnhac.com) Giá trị nội dung tư tuởng  của sinh hoạt văn hóa Quan họ Khi quan niệm Quan họ là một h́nh thái sinh hoạt văn hóa dân 
			gian, một tổng thể do nhiều yếu tố văn hóa nghệ thuật hợp thành, 
			trong đó, nổi bật là giá trị của nghệ thuật ca hát Quan họ, th́ giá 
			trị nội dung tư tưởng của Quan họ bao hàm nhiều ư nghĩa phong phú, 
			sâu, rộng hơn. Quan họ là một tổng thể hợp thành từ nhiều yếu tố văn hóa hóa 
			nghệ thuật dân gian xứ Bắc (tên gọi theo sự phân vùng văn hóa dân 
			gian, chỉ vùng đất phía Bắc Thăng Long, sông Hồng, chủ yếu là đất 
			Bắc Ninh ngày nay), trong một quá tŕnh lịch sử lâu dài, có nhiều 
			tầng, nhiều lớp trong một chỉnh thể văn hóa; gắn bó với văn hóa, văn 
			minh làng xă, thu hút và biểu hiện những ước mơ tập hợp và hành động 
			chung cho những nguyện vọng, những khao khát của con người xứ Bắc 
			nhiều đời, đối với quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con người 
			trên b́nh diện văn hóa - xă hội. Theo chiều dài lịch sử, quan họ đă sáng tạo, dung nạp, chuyển 
			hóa, sinh thành, đào thải... để thích nghi, đáp ứng những nhu cầu về 
			văn hóa, nghệ thuật, những nguyện vọng về cuộc sống của cộng đồng 
			người sáng tạo, nuôi dưỡng, giữ ǵn, phát triển Quan họ, trong mọi 
			chặng đường lịch sử, nên giá trị nội dung bản chất của quan họ giàu 
			có, phức tạp, đa diện. Đến với ngày hội có hàng trăm nhóm quan họ 
			nam nữ tươi vui, mời chào, ca hát hoặc đến với một canh hát do quan 
			họ gái, trai mời nhau đến nhà ca một canh "mừng xuân, mừng hội, vui 
			bàu, vui bạn..." ta có thể thấy ở đây sự phô diễn dồn nén, tích tụ, 
			sinh động những giá trị của văn hóa quan họ: người đẹp, trang phục 
			đẹp, cử chỉ đẹp, ngôn ngữ đẹp, tiếng nói, tiếng cười, miếng trầu, 
			chén nước... đều có chuẩn mực văn hóa, thắm đượm t́nh người, nghĩa 
			nặng, ân sâu. Tiếng hát quyện ḥa thơ nhạc, bổng trầm, non nỉ, thiết 
			tha, âm vang, đối đáp, bay lượn, quấn quưt trong một tổng thể vẻ đẹp 
			ấy từ chập tối đến tàn canh đă đưa mọi người vào một thế giới của 
			t́nh bạn, t́nh yêu, t́nh người "sum họp trúc mai", "bốn bể giao t́nh", 
			thế giới lung linh, say đắm của sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật, 
			thật sự mang lại những khoảnh khắc hạnh phúc cho con người. Cho nên, 
			đến với Quan họ là đến với sự liên kết con người bằng sợi dây ân 
			nghĩa, yêu thương, của t́nh bạn trọn đời, t́nh bạn truyền đời, t́nh 
			yêu nam nữ mang màu sắc lư tưởng kiểu Quan họ, như phong tục, lề lối 
			Quan họ đă ước định. Con người có thêm sức mạnh, niềm tin yêu để 
			chống lại sự cô đơn, sự bất lực trước một xă hội c̣n nhiều bất công, 
			áp bức đè nặng nhiều thế kỷ.  Sự phân biệt đẳng cấp, phân biệt thân phận, nhất là trong xă hội 
			xưa, là nỗi đau tinh thần của nhiều người. Đến với Quan họ là đến 
			với mối quan hệ tôn lẫn kính chung, sự b́nh đẳng giữa con người với 
			con người: giữa nam và nữ, giữa các thân phận rất khác nhau trong 
			đời thường. Không ở đâu trong xă hội cũ con người lại được sống 
			trong mối quan hệ "người với người là bạn" như trong sinh hoạt văn 
			hóa quan họ. Trước vũ trụ bao la, huyền bí, đi trong cuộc đời xưa nhiều rủi 
			hơn may, người Quan họ đă lấy tiếng hát Quan họ làm nhịp cầu đến với 
			thế giới thần linh để cầu mưa, cầu phúc, cầu duyên, cầu lộc, giải 
			hạn... hy vọng vượt qua được mọi thác ghềnh, hy vọng tấm ḷng thành 
			kính và tiếng hát diệu kỳ kia sẽ xua đi mọi tai ương, bất hạnh, mang 
			lại niềm tin cho cuộc sống. Tiếng hát Quan họ đă trở thành người bạn 
			đồng hành mang đến sự che chở, an ủi vĩnh hằng trước mọi đe dọa của 
			thế giới siêu nhiên. Đến với sinh hoạt văn hóa Quan họ, bằng những phong tục, lề lối 
			ước định của ḿnh người Quan họ đă h́nh thành những quan niệm đạo 
			đức, những hành vi và t́nh cảm đạo đức bắt nguồn từ những lẽ phải có 
			cội rễ sâu xa trong truyền thống văn hóa dân gian đối với quan hệ 
			bạn bè, quan hệ yêu đương nam nữ, quan hệ vợ chồng, t́nh làng, nghĩa 
			xóm, quan hệ lớp người trước với lớp người sau, lớp già lớp trẻ... 
			dựa trên nghĩa nặng, ân sâu, tôn lẫn kính chung, trước sau đùm bọc, 
			thủy chung v.v...  Đến với sinh hoạt văn hóa quan họ cũng là đến với quyền được 
			sáng tạo, diễn xướng, thưởng thức những giá trị văn hóa, nghệ thuật 
			của chính ḿnh, của những tri âm, tri kỷ, của cộng đồng người gắn 
			bó, ḥa hợp với ḿnh, trong sự tự do và chân thật. Bằng sáng tạo văn 
			hóa, nghệ thuật, người quan họ có thể nói với chính ḿnh, với bàu 
			bạn, với con người về những ước mơ, khát vọng, buồn, thương, yêu, 
			ghét..., về những điều cuộc đời nên có và phải có... vừa để tự giải 
			phóng tinh thần cho mỗi cá thể vừa để gắn bó có ích và tốt đẹp đối 
			với cuộc đời. Tóm lại, với sinh hoạt văn hóa quan họ, trong hoạt động văn hóa, 
			nghệ thuật nhiều đời, người xứ Bắc đă suy ngẫm, sáng tạo và thực 
			hiện không mệt mỏi, công phu, đầy tài năng những bước tiến hướng tới 
			một cuộc sống làm cho con người ngày một được tôn trọng hơn, ngày 
			một hạnh phúc hơn, được cống hiến và hưởng thụ nhiều hơn trong đời 
			sống tinh thần thiêng liêng của con người. 2.Giá trị tư tưởng nghệ thuật của lời ca quan họ Đôi nét về văn bản lời ca Cho đến nay, chưa có con số chính thức cuối cùng về số bản lời 
			ca quan họ. Theo con số đi sưu tầm, ghi chép được của Đoàn dân ca 
			quan họ th́ có gần 250 bài bản lời ca. Có tài liệu nói có 500 bản 
			lời ca. Nếu tính theo số bài bản về bài hát (ca khúc và lời) th́ có trên 
			dưới 200 bản, và nếu mỗi bài ca đều có 2 lời th́ ta có trên dưới 400 
			bài lời ca. Lời ca cho một bài nào đấy, nh́n chung thống nhất trong 
			cả vùng, nhưng cũng có những dị bản, và nhất là khác đi một số từ 
			ngữ nào đấy. Trong trường hợp có những chữ khác nhau trong lời ca, 
			cũng như khác nhau về giai điệu bài ca (chi tiết nào đấy) cũng 
			thường gây nên tranh căi nhiều khi gay gắt trong giới quan họ mà 
			không phải bao giờ cũng tiến tới thống nhất được. Nhưng, như một 
			thói quen trong nếp nghĩ và nhiều khi kiên định giữ nếp nghĩ này: 
			"ông bà, bố mẹ, anh chị làng tôi ca thế, chúng tôi cũng ca thế". Ví dụ có làng hát: Rủ nhau đi gánh nước thuyềnĐứt quang vỡ sải nước liền xuống sông Nhưng làng khác nhất định hát : Rủ nhau đi gánh nước thuyềnĐứt quang vỡ sải nước liền xuôi đông  Có một ví dụ nữa, các cụ hát: Đêm qua gió mát giăng thanhBỗng đâu thấy khách bên thành sang chơi Câu ca này gần như câu thơ trong Truyện Kiều :  Lần thâu gió mát trăng thanhBỗng đâu thấy khách biên đ́nh sang chơi Thấy sự khác nhau ấy đừng vội níu kéo lời hát kia trở về nguyên 
			văn lời thơ Truyện Kiều, v́, sự sửa chữa một số chữ là có dụng ư hợp 
			cảnh, hợp t́nh, hợp người... mà nhiều khi ta chưa hiểu được. Quan họ có hệ thống lời ca riêng, đạt tới một tŕnh độ riêng, 
			đáp ứng những nhu cầu văn hóa, nghệ thuật có nhiều nét riêng của 
			sinh hoạt văn hóa quan họ. Nhưng cũng như âm nhạc quan họ, lời ca 
			quan họ đă du nhập, thu hút tinh hoa của kho tàng thơ ca dân gian, 
			dân tộc như: ca dao,tục ngữ, hệ thống truyện thơ nôm, lời ca của hát 
			chèo, tuồng, ả đào, ví, trống quân, vv... Chính v́ vậy, khi t́m hiều 
			lời ca quan họ cũng cần có những tri thức về thơ ca dân gian, dân 
			tộc để nhiều khi phải so sánh, đối chiếu, liên tưởng... mới hiểu 
			đúng hoặc hiểu sâu một từ ngữ, một h́nh ảnh, h́nh tượng... một lời 
			ca. Khi chúng ta có một hệ thống lời ca, am hiểu đặc điểm ra đời và 
			lưu hành hệ thống lời ca đó, có tri thức về thơ ca dân gian, dân 
			tộc, hiểu và vận dụng được các phương pháp t́m hiểu, thưởng thức thơ 
			ca; đặt lời ca gắn liền với âm nhạc và hoạt động ca hát quan họ... 
			chúng ta có thể hiểu được những giá trị nhiều mặt của hệ thống lời 
			ca quan họ.  3.Giá trị tư tưởng của lời ca Quan họ Nội dung tổng quát của hệ thống lời ca quan họ là sự mơ ước, 
			khát khao về hạnh phúc của cuộc sống; trong đó, người với người sống 
			trong thương yêu, người cùng thiên nhiên sống trong sự ḥa hợp gắn 
			bó, là hạt nhân cơ bản của hạnh phúc. Sự mơ ước, khát khao đó được biểu hiện trong những lời ca khi 
			chúc mừng, khi cầu xin... trong hát nghi lễ (hát lễ thờ, hát mừng 
			chạ, hát cầu đảo...), khi thiết tha, đằm thắm, say mê hát về t́nh 
			yêu nam nữ, về t́nh bạn trọn đời, t́nh bạn truyền đời... của Quan 
			họ. Khao khát thương yêu và được thương yêu Trong lời ca quan họ cần lưu ư: người ta ít khi dùng chữ yêu mà 
			hầu hết dùng chữ thương; ít khi xưng hô, gọi nhau bằng những chữ 
			chàng, nàng, ḿnh, ta, anh, em... mà hay dùng chữ người, ngay cả 
			trong những bài bộc lộ sâu sắc những t́nh cảm của t́nh yêu nam nữ. Về chữ thương và chữ yêu, trong khẩu ngữ dân gian xưa, cũng ít 
			khi dùng chữ yêu nói về t́nh yêu nam nữ. Cho đến đầu thế kỷ XX, khi 
			đi đến nhà gái dạm hỏi, bà mối hoặc ông mối cũng thường nói: "Hai 
			cháu đă thương nhau...", hoặc "hai cụ đă thương đến các cháu...", 
			hoặc "đă thương th́ thương cho chót...". Cha mẹ căn dặn những vợ 
			chồng mới cưới cũng thường nói: "các con đă thương nhau th́ phải giữ 
			cho đến đầu bạc răng long, măn chiều, xế bóng...". ít khi người ta 
			dùng chữ yêu để chỉ t́nh yêu nam nữ. Mấy chục năm gần đây, chữ yêu 
			thay thế dần chữ thương và gần như chữ chính khi nói đến t́nh yêu 
			nam nữ, gần như chuyển hẳn để biểu hiện một khía cạnh nào đó của 
			t́nh yêu nam nữ mà thôi. Về chữ Người trong lời ca Quan họ: "Người ơi, Người ở đừng về", 
			"Người về để nhện giăng mùng", "... Người ra đứng mũi, tôi ra chịu 
			sào..." "kẻ bắc, người nam..." khiến ta liên tưởng đến chữ Người 
			trong các câu thơ Truyện Kiều: ...Người đâu gặp gỡ làm chi......Người mà đến thế th́ thôi... Chữ "người" chứa đọng những t́nh cảm đậm đà, sâu sắc, tinh tế, 
			trong mối quan hệ giữa người với người của một thời, không hoàn toàn 
			giống nghĩa bao hàm của chữ người dùng trong ngôn ngữ thơ ca hiện 
			nay. Khi đă được nghe trọn vẹn nhiều canh hát Quan họ với hàng trăm 
			bài ca nối tiếp nhau từ đầu đến cuối, đối đáp nam nữ, tiếng bổng, 
			tiếng trầm, thanh trong, thanh đục... rồi suy ngẫm trước hệ thống 
			lời ca quan họ, nhiều người cảm thấy ngay từ canh hát đầu tiên, sau 
			đó ngày càng lắng đọng, ghi sâu trong tiềm thức, trong xúc cảm của 
			ta về sự khao khát yêu thương và được yêu thương giữa con người với 
			con người. Mở đầu canh hát người quan họ đă biểu lộ ngay nỗi vui mừng vừa 
			trân trọng, vừa thân thiết trước cảnh "sum họp trúc mai", "tứ hải 
			giao t́nh", "bốn bể giao hoà...", với ư nghĩa "t́nh chung một khắc, 
			nghĩa dài trăm năm", "càng sâu nghĩa bể càng dài t́nh sông"... Một canh hát quan họ, trước hết, là sự sum vầy bàu bạn trong 
			t́nh sâu, nghĩa nặng, là sự thực hiện một khát khao gặp mặt, giao 
			hoà, sau nhiều ngày đêm khắc khoải, chờ mong tơ tưởng: ...Ngày th́ luống những âm thầmĐêm nằm ít cũng tám, chín, mười lần chiêm bao...  (Giọng La rằng) Thế rồi canh hát cứ tiếp diễn, tiến triển cùng với sự thôi thúc, 
			đan xen của hai t́nh cảm mănh liệt nhất của tuổi trẻ là t́nh yêu nam 
			nữ và t́nh bạn thần tiên (chữ của Huy Cận, trong bài thơ "Với người 
			Quan họ"). Người ta hát với nhau về ân sâu, nghĩa nặng, v́ chỉ có ân 
			sâu, nghĩa nặng, chỉ có t́nh gắn liền với nghĩa, với ân th́ thương 
			yêu kia mới thật, mới sâu, mới bền, mới chung thuỷ: ... Nghĩa người tôi bắc lên cầnTạc lên bia đá, để bên dạ vàng...... Đem vàng mà bắc lên cânBên vàng nặng chín, bên ân nặng mười Canh hát càng về khuya th́ tiếng hát quan họ càng bổng, trầm, 
			non nỉ, t́nh người quan họ càng nồng đượm, thiết tha. ...Dây nào xe bốn chúng tôiSe chín lần kép, se mười lần đơn... Có những bài hát cứ láy đi láy lại 3, 4, lần 
			bằng một âm hưởng xoáy sâu vào ḷng người: ...Nay tôi tưởng đến người, mai tôi nhớ đến đôi 
			ba người t́nh duyên...... ơ này anh Hai ơi! ơ này anh Ba ơi! Cái chút 
			t́nh sâu, trăm em xin đợi, ngh́n em xin chờ, chờ từ đây... ... Sông sâu nước chảy đá ṃnT́nh thâm mong trả, nghĩa c̣n đấy đâyMong cho sum họp những ngày... Người quan họ nh́n nhau bằng một tấm ḷng trân trọng lẫn nhau, 
			trân trọng con người, nền tảng của t́nh yêu, t́nh bạn, nên họ phát 
			hiện tinh tế những vẻ đẹp tâm hồn và h́nh thể của nhau. Sự phát hiện 
			ấy lại được hát lên cho nhau, v́ nhau, nên tiếng hát kia càng thấm 
			sâu vào xúc cảm người hát, người nghe: ... Trúc xinh, trúc mọc đầu đ́nhAnh Hai xinh, anh Hai đứng một ḿnh cũng xinhTrúc xinh, trúc mọc bờ aoAnh Ba xinh, anh Ba đứng nơi nào cũng xinhTrúc xinh, trúc mọc đầu chùaKhông yêu em lấy đạo bùa cho phải yêu Cây trúc, trong văn chương bác học cũng thường gặp, thường là 
			biểu tượng cho một nhân cách đă đến đỉnh, một bản lĩnh sinh sôi, nảy 
			nở vừa mềm mại, uốn lượn từ trong kẽ đá nhô ra, vừa cứng rắn thách 
			thức cùng băo giông, mưa, tuyết... Anh Hai, anh Ba, anh Tư, chị Hai, 
			chị Ba, chị Tư... cũng mang vẻ đẹp vẹn toàn ấy, hơn cả vẻ đẹp vẹn 
			toàn ấy, nên "đứng một ḿnh", "đứng nơi nào" cũng xinh. Cho nên 
			"không yêu em (tôi) lấy đạo bùa cho phải yêu". Câu kết bài ca bộc lộ 
			rơ ràng cũng một bản lĩnh xứng đôi với bản lĩnh, cốt cách của trúc 
			và với một t́nh cảm mănh liệt về sự thương yêu và được yêu. Canh hát càng về khuya, càng nhiều những bài hát như vậy được 
			hát với t́nh cảm "như tỉnh như mê", "như là chiêm bao".. Người quan họ ước mơ sự hoà hợp, gắn bó sắt son, chung thuỷ. 
			Nâng chén rượu xuân mời bạn khi gần tàn canh hát, trước lúc chia 
			tay, người Quan họ hát: ... Tay nâng đĩa muối đĩa gừngGừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau Một sự thuỷ chung kể cả vàng cũng không đổi được: ... Dù ai cho bạc, cho vàngChẳng bằng trông thấy mặt chàng hôm nayDù ai trao nhẫn lồng tay,Chẳng bằng trông thấy mặt ngay bây giờNgọn đèn khi tỏ khi mờNghĩa người đi gió về mưa xót thầmRơ ràng đôi chữ đồng tâm Khi đă tàn canh hát, theo phong tục Quan họ, không thể không 
			chia tay trước khi trời sáng hoặc khi mặt trời đă xế về tây (trong 
			hát ngày hội), người Quan họ hát với nhau những bài hát giă bạn với 
			tất cả nỗi niềm quyến luyến, nuối tiếc sự "sum họp trúc mai", "loan 
			phương sánh bầy", "rồng được gặp mây" mà "trăm năm mới có một ngày": ...Người về em vẫn khóc thầmĐôi bên vạt áo ướt đầm như mưaNgười ơi! Người ở đừng về!... "Người ơi! Người ở đừng về" ngày nay đă trở thành lời níu kéo 
			nặng t́nh, nặng nghĩa... trong bao cuộc chia tay từ Nam chí Bắc của 
			đất nước và ở cả nước ngoài, có lẽ v́ trong tiếng hát níu giữ kia 
			của Quan họ đă ẩn tàng một tấm ḷng, những nỗi niềm của Quan họ đối 
			với bạn trong cả chiều dài lịch sử đi t́m bạn tri âm, tri kỷ. Đă có niềm vui họp mặt th́ cũng có nỗi buồn chia xa. Buồn đến 
			"ruột héo, dạ sầu" nhưng Quan họ vẫn hy vọng, hẹn ḥ để hy vọng: ... Khăn áo người gửi lại đâyNhớ thương xếp để dạ dày này bao quênQuan họ về, đến hẹn lại lên! âm vang "đến hẹn lại lên" đă là âm vang ám ảnh, ẩn quất, dứt, 
			nối... bao thế hệ Quan họ như một lời nguyện ước, một hy vọng về 
			hạnh phúc, một sự trông đợi khôn nguôi. Có lẽ v́ vậy, bốn chữ "đến 
			hẹn lại lên", được hát lên khi về kết của một bài giă bạn"Con nhện giăng mùng", cũng trở nên lời hẹn ước của bao cuộc 
			chia tay hôm nay ở nhiều miền đất nước. Cũng chỉ bằng bốn chữ ấy 
			thôi, con người hôm nay đă nói được bao điều muốn nói và nói được cả 
			những điều chẳng thể nói ra, trong giây phút tạm biệt. Tạo nên cầu 
			nối này của quá khứ và hiện tại là hiệu quả thẩm mỹ đă trở thành bất 
			tử của sinh hoạt văn hoá Quan họ, của ca hát quan họ, nhưng trong 
			đó, những điểm đỉnh của những thành tựu nghệ thuật cứ óng ánh, lấp 
			lánh bao đời như thế buộc ta phải t́m hiểu, khám phá, học tập không 
			ngừng.    Một t́nh yêu thiên nhiên, t́nh yêu quê hương thắm thiết Từ hệ thống lời ca quan họ, người quan họ đă phác vẽ tài t́nh về 
			một quê hương với một t́nh yêu quê hương chân thật, tự nhiên mà thắm 
			thiết. Trước hết, đó là một quê hương "sơn thuỷ hữu t́nh", những 
			"đường về Quan họ", những "đầu làng có chiếc giếng khơi", những "cây 
			gạo chon von", một "quán Dốc chợ Cầu", một "quán trắng phố Nhồi", 
			những cửa chùa rộng mở ngày hội cho trai thanh gái lịch về sum vầy 
			ca xướng, những đêm trăng suông "nửa đêm về sáng trăng bằng ngọn 
			tre", những "ḍng sông phẳng lặng nước đầy", một sông Dâu "ba bốn 
			chiếc thuyền kề", những bến đ̣ ngang "vẳng tiếng gọi đ̣" và "trăng 
			nước một màu", những hội bơi chải, hội chùa Tiêu... quanh miếu, 
			quanh đền... những "mùa xuân chơi hội thong dong", những "mùa hè tắm 
			mát ở sông Lục Hà (Lục đầu)", và "trăm thứ hoá nó liền đua nở"v.v... Từ biển mặn, đầm lầy, ô trũng, qua bao thế hệ nhọc nhằn, cần cù 
			và sáng tạo mới có một cảnh sắc quê hương ấy. Gắn liền với thiên nhiên, cảnh sắc ấy là những con người "như 
			trúc mọc ngoài trời", có vẻ đẹp tâm hồn toả lên từ đôi mắt "lấp 
			lánh, nhấp nhánh" như sao trời, có cái duyên trong nét cười "lúng 
			liếng", trong vành nón ba tầm thao tua "mùi (màu) bông dâu", biết 
			làm cho "một nong tằm là ba nong kén... chín nén tơ..." biết gắn bó 
			đời ḿnh với những "thửa ruộng năm sào... đôi tôi cấy, đôi người 
			gặt...", biết chăm sóc, nuôi dạy con cái với ước mơ "đỗ liền ba 
			khoa", coi "đèn sách văn chương" là một trong những chuẩn lớn của 
			một tài trai, biết trọng t́nh, trọng nghĩa, trọng ân, trọng mối quan 
			hệ giữa người với người, biết nh́n con người với mọi vẻ đẹp: "trăm 
			hoa đẹp nhất hoá người"... Cảnh ấy, người ấy lại gắn liền với những 
			ngày tháng trẩy hội mùa xuân, mùa thu, những canh hát thâu đêm "bổng 
			trầm non nỉ..." ... đă tạo nên một quê hương - quê hương Quan họ - 
			và một t́nh yêu quê hương nồng đượm, thiết tha. T́nh yêu ấy lại càng sâu sắc khi người quan họ xây và giữ ǵn 
			quê hương ḿnh không chỉ bằng mồ hôi, tâm sức và trí tuệ mà c̣n bằng 
			máu, nước mắt, bằng những mất mát, hy sinh lớn lao trong suốt trường 
			kỳ lịch sử giữ nước và dựng nước khi lịch sử và đất nước đặt trọng 
			trách cho quê hương này là "phên dậu phía Bắc của Thăng Long". Trong hệ thống mấy trăm đoạn thơ, bài thơ... của lời ca Quan họ 
			hàm chứa nhiều khía cạnh tâm hồn, t́nh cảm của con người Quan họ, do 
			đó, giá trị nội dung tư tưởng của lời ca Quan họ cũng vô cùng phóng 
			phú như sự phong phú của chính con người và đời sống tâm hồn, t́nh 
			cảm của con người Quan họ. Nhưng sự khao khát yêu thương và được yêu thương trong t́nh bạn, 
			t́nh yêu nam nữ, t́nh người vẫn là nội dung cơ bản, xuyên suốt hệ 
			thống lời ca. Cùng với những t́nh cảm giữa người và người ấy, lời ca 
			Quan họ tuy phác vẽ một cách tự nhiên như không bao giờ chú ư, nhưng 
			lại gây một ấn tượng sâu sắc về một quê hương với cảnh, với người... 
			măi măi chiếm lĩnh t́nh yêu của con người. Chính những t́nh cảm chủ đạo ấy trước hết đă góp phần hun đúc 
			nên tâm hồn, t́nh cảm, tài năng... của người Quan họ, và, cùng với 
			sức sống dài lâu nhiều khi kỳ diệu của tiếng hát Quan họ, những t́nh 
			cảm chủ đạo trên măi măi thấm sâu trong ḷng người nghe Quan họ, góp 
			phần tạo nên những tâm hồn nhậy cảm, gắn bó với sự yêu thương giữa 
			con người với con người, giữa con người cùng muôn vật, muôn loài.
			 4. Nghệ thuật thơ ca trong lời ca Quan họ Hầu hết lời ca của các bài ca Quan họ là thơ lục bát hoặc lục 
			bát biến thể. Có tài liệu đă thống kê, phân loại th́ thấy trong tổng 
			số 285 bài lời ca Quan họ in trong cuốn sách ấy, có 237 bài theo thể 
			lục bát hoặc lục bát biến thể, chiếm chừng 80%, 29 bài theo thể bốn 
			từ hoặc bốn từ hỗn hợp, chiếm 12%, 19 bài theo các lối biến thể khác 
			8%. Cũng có bài theo thể văn xuôi như bài "Đêm qua nhớ bạn", bài 
			"Tay em nâng cái cơi đựng trầu", bài "Ngày hôm qua em thấy con chim 
			Thước..." Tiếng hát Quan họ tạo nên hiệu quả thẩm mĩ chính v́ sự kết hợp 
			nghệ thuật cao của thơ ca - âm nhạc - giọng hát người nghệ sĩ. Thơ ca trong lời ca Quan họ không phải mọi bài điều hay mà có 
			bài hay cả bài, có bài có những đoạn thơ, những câu thơ hay. Nhưng 
			v́ vai tṛ đặc biệt của lời ca trong dân ca Việt Nam trong Quan họ, 
			giữ vị trí rất quan trọng ngay từ bước phổ nhạc cho đến thói quen 
			thưởng thức của người nghe...nên, người hát Quan họ lại càng phải 
			nâng cao không ngừng tŕnh độ am hiểu lời ca. Thơ lục bát và một số thể thơ trong lời ca Quan họ Một trong những đặc điểm của thể thơ lục bát là luật bằng trắc 
			thể hiện luật phối thanh của thể thơ này. Ví dụ:  Người về (B) em vẫn (T) khóc thầm (B)Đôi bên (B) vạt áo (T) ướt đầm (B) như mưa (B) Như vậy, nếu theo lệ phổ biến như trên th́ các thanh ở câu sáu 
			chữ cũng như ở câu tám chữ nếu đứng vào hàng chẵn như chữ thứ 2, 4, 
			6 phải tuân theo luật bằng trắc như ví dụ kể trên, c̣n những chữ 
			đứng vào hàng lẻ như chữ thứ 1, thứ 3, thứ 5, thứ 7 không buộc phải 
			theo luật bằng trắc thật nghiêm ngặt. Có những trường hợp một cặp thơ sáu tám, do yêu cầu sáng tạo của 
			âm nhạc, khi hát người hát lại hát 4 chữ cuối của câu 6 chữ sau đó 
			mới bắt vào toàn câu 6 chữ và câu tám chữ cũng bị biến đi thành 11 
			chữ khi hát: Lên tận tiên cungBực ḿnh lên tận tiên cungGọi ông tơ (hồng) xuống hỏi (thăm) ông (một) đôi lờiTrêu ghẹo chi tôiLỡ nào trêu ghẹo chi tôiLênh đênh bèo nổi hoa trôi qua th́...  ấy là chưa kể hàng chục tiếng đệm lót xen vào các chữ chính của 
			câu thơ. Có những vài câu 6 chữ bị cắt ra làm 3 và thêm nhiều tiếng 
			đệm lót: Sáng cả (cái) đêm (hôm) rằm...(Là cái ) sáng giăng (à) xuông...Sáng cả (cái) đêm hôm (à) rằm... Lơi của đoạn hát trên chỉ là câu 6 chữ trong một 
			cặp thơ 6/8: Giăng xuông sáng cả đêm rằmNửa đêm về sáng giăng bằng ngọn tre. Sự đảo lộn, thêm bớt chữ như vậy đă tạo điều kiện cho sự sáng 
			tạo của âm nhạc đồng thời khắc hoạ thật đậm, sâu, thành công, một 
			đêm giăng xuông thao thức, vắng lặng đến mênh mông... Có những bài lời ca theo thể thơ 4/8 nhưng khi hát th́ lại biến 
			hoá tài t́nh. Ngồi (rằng là) ngồi tựa (ối a) song đào 
			ngồi tựa (ối a) song đàoHỏi người (là người) tri kỷ ra vào có thấy vấn 
			vươngHự rằng hứ hối hưGió (rằng là) gió lạnh (ối a) đêm trườngGió lạnh (suốt) đêm (dông) trườngNửa chăn (là chăn) nửa chiếu (ối a) cũng có nửa 
			giường (là) nửa giường để đấy đợi aiHự rằng hứ hối hư Lời của đoạn hát trên có thể được ghi thành thơ 
			như sau: Ngồi tựa song đàoHỏi người tri kỷ ra vào vấn vươngGió lạnh đêm trườngNửa chăn, nửa chiếu, nửa giường, đợi ai. Cũng có người gọi thơ 4/8 như vậy là một dạng 
			biến thể của thơ 6/8. Người nghệ sĩ thơ ca và người nghệ sĩ âm nhạc 
			(có thể là một người, hai người, hoặc ba người...) trong Quan họ đă 
			sáng tạo thơ lục bát trong thể biến hoá tài t́nh cả về số chữ, luật 
			phối thành âm bằng trắc, sự hiệp vần... khiến những bài ca nổi tiếng 
			khi ca lên thấm sâu và gây xúc động ḷng người bằng cả t́nh thơ, ư 
			thơ, nghệ thuật thơ, nghệ thuật âm nhạc và ca hát. Ngoài thể thơ lục bát (với các dạng biến thể), 
			một số lời Quan họ c̣n sử dụng thể thơ 4 chữ: Mồng năm chợ ó Quan họ dồn vềHội vui lắm lắm...  Cũng có khi dùng thể thơ song thất lục bát: Con gà sống đang đêm gáy giụcĐể gọi chàng dạy học kẻo khuyaChàng ơi dậy học kẻo khuyaDầu hao thiếp chịu, đèn mờ thiếp khêu... Đôi khi có những đoạn thơ 7 chữ, có vần, nhưng 
			không tuân thủ những quy tắc về niêm, luật, bằng trắc, đối... của 
			thơ nước ngoài. ... Tôi với người Châu, Trần là ngăiXin người đừng già kén kẹn homTiếng thị phi luống những om ṣmThôi thấm thoát ngựa hồ qua cửa sổ Kết của Bài "Tuấn Khanh chàng" là một bài 7 chữ 
			4 câu: Trộm nghe danh giá động ḷng nhoCung quế hương đưa trải mấy thuĐạn ngọc giang tay buồng đàn thướcSông ngân chờ dịp bắc cầu Ô Tuy hiếm, nhưng cũng có bài lời ca chẳng theo 
			thể thơ nào, nhưng có vần, điệu: Trên trời ba mươi sáu thứ chimThứ chim chèo bẻo, thứ chim chích choèTrong quan họ có người trồng treThứ tre chẻ lạt, thứ tre làm nhà  Có cả những bài gần như văn xuôi, không vần Ngày hôm qua tôi thấy con chim thước nó báo tinQuan họ (ấy mấy chơi, ấy mấy) sang chơiTôi cũng biết rằng ngay hôm nay Quan họ đến chơi 
			nhà, ấy mấy vui tôi mới lại thêm vui, ấy mấy vui, mới lại thêm 
			vui...  Như vậy, trong hệ thống lời ca Quan họ, người 
			nghệ sĩ Quan họ đă biết sử dụng tài t́nh biến hoá thể thơ lục bát và 
			tạo nên những bài ca theo thể thơ này có thể tồn tại độc lập mà vẫn 
			có những giá trị nghệ thuật thơ ca ở tŕnh độ cao. Nhưng khi cần 
			thiết, người Quan họ cũng sử dụng một số thể thơ khác kể cả văn xuôi 
			để làm lời ca và cũng có những thành công ở mức độ khác nhau. ( )
			 5. Ngôn ngữ thi ca trong lời ca Quan họ Ngôn ngữ thi ca trong lời ca Quan họ đạt tới 
			những thành tựu nghệ thuật đặc sắc, độc đáo. Một ngôn ngữ khi 
			th́ mộc mạc đồng quê, khi th́ trau chuốt tài hoa nhưng bao giờ cũng 
			giàu tính h́nh tượng, sâu đậm nghĩa t́nh. Ngôn ngữ ấy đă thu hút nhiều tinh hoa của nghệ thuật ngôn ngữ 
			thơ ca dân gian, thơ ca bác học... để rồi tạo nên sắc thái riêng với 
			những giá trị nổi bật, góp phần tạo nên những giá trị riêng của bài 
			ca quan họ. Ta có thể t́m hiểu một số thành tựu tiêu biểu của ngôn ngữ thơ 
			ca trong lời ca quan họ Sự mộc mạc và sự trau chuốt Có một số lời ca 
			quan họ, nếu tách riêng lời ca thành văn bản, th́ bước đầu tiếp xúc, 
			có khi ta chưa thấy hết cái đẹp, cái hay của lời ca đó, nhất là cảm 
			thụ theo góc độ thi ca thuần tuư. Ví dụ, lời bài ca "Trên rừng 36 thứ chim" Trên rừng ba mươi sáu thứ chimThứ chim chèo bẻo, thứ chim chích choèTrong Quan họ có người trồng tre Nhưng khi tiếng hát rộn ràng bài hát đó lên, ta bị cuốn hút dần 
			vào bài ca, và, trong nhiều xúc cảm, th́ một xúc cảm gây ấn tượng 
			sâu sắc trong ta là: sự mộc mạc của ngôn từ lời ca đă đưa ta đến bắt 
			gặp một dáng dấp, một phong cách, một dạng h́nh, một tâm hồn... cũng 
			hết sức mộc mạc nhưng rất đáng yêu của con người lao động một thời, 
			con người ấy phải được miêu ta bằng ngôn từ ấy. Chính sự mộc mạc nghệ thuật, không giống sự dễ dăi của ngôn từ 
			lời ca quan họ đă gây xúc cảm cho từ người lao động ít đến những bậc 
			đại khoa, những thi sĩ có tài. Bài "Em là con gái Bắc Ninh" cũng cho những thí dụ về sự mộc mạc 
			của ngôn từ. Mở đầu bài:  Đôi tay nâng lấy cơi giầuTrước mời quư khách, sau mời đôi bênEm là con gái Bắc Ninh... Trong lời ca mở đầu trên không thấy vần của thơ, 
			từ ngữ mộc mạc như lời nói. Những từ ngữ mộc mạc kia đă gắn quyện 
			với dáng dấp xinh đẹp và nền nă của "Em là con gái Bắc Ninh", với 
			miếng giầu mặn nồng t́nh thắm nghĩa của làng quê quan họ... khiến 
			ngay từ giây phút ban đầu, lời ca đă cuốn hút ḷng người bằng từng 
			tiếng một. Bài ca tiếp tục cho đến lúc kết bài ca: ... ơ này anh Hai ơiơ này anh Ba ơi!Trăm em xin đợiNgh́n em xin chờChờ từ đây... Lại những câu không vần, như lời nói nhiều đôi 
			nam nữ vẫn nói cùng nhau những lời hẹn ước, thề nguyền như vậy. 
			Nhưng, như ẩn trong sự mộc mạc của ngôn từ một sức mạnh riêng làm 
			xao xuyến ḷng người, và, dư âm bài ca ngân măi trong ḷng người, 
			trong cả đời người. Sức mạnh ấy chính là sự chắt lọc tinh chất của 
			sự mộc mạc và diễn đạt sự mộc mạc ấy bằng tiếng nói đích thực của 
			trái tim. ở một bài ca khác, bài "Ngồi tựa mạn thuyền" và 
			"Ngồi tựa song đào" th́ lại chiếm lĩnh tâm hồn người nghe không phải 
			bằng một ngôn từ mộc mạc như lời nói mà lại chiếm lĩnh người nghe 
			bằng một lời ca có ngôn từ rất trau chuốt, một nghệ thuật vần, điệu 
			công phu, những h́nh ảnh nên thơ, nên nhạc:  Ngồi tựa mạn thuyềnGiăng (trăng) in mặt nước, càng nh́n non nước 
			càng xinhSơn thuỷ hữu t́nh Thơ ngâm ngoài lái, rượu b́nh giải trí trong 
			khoangTay dạo cung đànTiếng tơ, tiếng trúc, bổng trầm, non nỉ, thiết 
			tha... (Ngồi tựa mạn thuyền) Hoặc:  Ngồi tựa song đàoHỏi người tri kỷ ra vào có thấy vấn vươngGió lạnh đêm trườngNửa chăn, nửa chiếu, nửa giường để đấy đợi ai... (Ngồi tựa song đào)  Một ngôn ngữ đầy h́nh tượng, âm thanh: có cảnh, 
			có t́nh, cảnh t́nh hoà quyện và "bổng trầm, non nỉ..." âm thanh. Từ 
			cảnh ấy, t́nh ấy, nổi bật lên con người "tài trai" và "thục nữ", con 
			người khao khát, đắm say vẻ đẹp của thiên nhiên, của t́nh người. Cho nên, dù ngôn từ lời ca Quan họ được thể hiện 
			trong dạng mộc mạc, hoặc trau chuốt, bóng bảy, đều đạt tới hiệu quả 
			nghệ thuật cao. Được như vậy chính v́ người sáng tạo lời ca biết gạn 
			lọc, lựa chọn ngôn từ ở tŕnh độ cao, có một tŕnh độ tích luỹ, am 
			hiểu sâu rộng về thơ ca dân gian và cao hơn hết là sự rung cảm nghệ 
			thuật tinh tế, chân thành.  6.Nghệ thuật xây dựng h́nh tượng trong lời ca Ngôn ngữ trong lời ca Quan họ cũng giàu tính h́nh tượng như ngôn 
			ngữ thơ ca dân gian nói riêng và ngôn ngữ thơ ca nói chung. Ta có 
			thể t́m hiểu một số thành tựu về thủ pháp xây dựng h́nh tượng trong 
			lời ca Quan họ. Có những h́nh tượng đă quen thuộc và được khẳng định giá trị 
			nghệ thuật trong thơ ca và nghệ thuật tạo h́nh từ rất sớm, ví dụ 
			h́nh tượng cây trúc trong thơ ca và hội hoạ, điêu khắc... từ nhiều 
			thế kỷ. H́nh tượng cây trúc ta thường gặp ấy đă trở nên biểu tượng 
			cốt cách, phẩm chất của người quân tử: cứng rắn, vươn thẳng, sức 
			sống dẻo dai, bền vững trước mọi thử thách; ư chí kiên định; nhân 
			cách thanh cao... Nhưng h́nh tượng cây trúc trong lời ca Quan họ lại mang những 
			biểu tượng gần gũi với phong độ, cốt cách, phẩm chất đẹp đẽ của 
			người b́nh dân: Hôm nay xum họp trúc maiT́nh trong một khắc, nghĩa dài trăm năm... (La Rằng) Người như trúc mọc ngoài trời.. Hoặc Trúc xinh trúc mọc sân đ́nhAnh (Hai) xinh anh (Hai) đứng một ḿnh cũng xinhTrúc xinh trúc mọc bờ aoAnh (Ba) xinh anh (Ba) đứng nơi nào cũng xinhTrúc xinh trúc mọc đầu chùa.Không yêu em lấy đạo bùa phải yêu. (Trúc xinh) Người Quan họ đă dành cả một bài ca cho trúc, không phải cho 
			trúc quân tử mà cây trúc xinh, cây trúc gần gũi, đáng yêu, quen 
			thuộc, biểu tượng cho anh Hai, anh Ba, chị Hai, chị Ba... xinh; đứng 
			một ḿnh cũng xinh; đứng nơi nào cũng xinh. H́nh tượng cây trúc trong lời ca Quan họ đă dẫn đến một biểu 
			tượng không hoàn toàn lặp lại biểu tượng quen thuộc của trúc mà đă 
			biến hoá đi thành một biểu tượng về vẻ đẹp theo góc độ thẩm mĩ của 
			người b́nh dân, người Quan họ. Đó là cây trúc xinh th́ bài ca mới có 
			thể về kết với lời thơ gắn bó mănh liệt, lời tỏ t́nh nồng nàn, kiên 
			định: Không yêu em lấy đạo bùa (cho) phải yêu Sự trùng hợp có biến hoá trong thủ pháp xây dựng h́nh tượng giữa 
			nghệ thuật bác học, chính thống và nghệ thuật ngôn ngữ trong thơ ca 
			quan họ ở bài (Trúc xinh) đă để lại cho đời một bài lời ca hay và 
			một h́nh tượng đặc sắc. H́nh tượng con đ̣, con thuyền được biểu hiện khá thành công 
			trong nhiều bài ca Quan họ. Một quê hương sông, nước, đồng chiêm, hết thế hệ này đến thế hệ 
			khác gắn bó với những chiếc đ̣ ngang, đ̣ dọc, những chiếc thuyền 
			thúng suốt mùa mưa úng, những chiếc thuyền buôn trên nhiều ngả sông 
			xuôi ngược... đă khiến con đ̣, con thuyền trên sóng nước đi vào cảm 
			hứng nghệ thuật và trở nên h́nh ảnh gửi gắm biết bao nỗi niềm tâm sự 
			về thân phận con người, về cuộc đời. Có bài khảo cứu đă thống kê 
			thấy có 63 bài lời ca có chữ thuyền hoặc đ̣. Có khi thuyền như người bạn tri âm trong những đêm "trăng in mặt 
			nước" để cùng người bồng bềnh trên sông nước quê hương, thưởng thức 
			những thú vui tao nhă: Ngồi tựa mạn thuyềnTrăng in mặt nước càng nh́n non nước càng xinh  Có khi thuyền, đ̣ hiện lên như biểu tượng về một sự "mong manh" 
			trong cuộc đời "băi biển mông mênh" để cho người chờ, người đợi, 
			người gọi... và người tin con đ̣ kia sẽ đến, vẫn "nhất tâm đợi chờ, 
			dù "gọi đ̣ chẳng thấy đ̣ thưa" trong suốt cả bài ca "Gọi đ̣".  Có khi thuyền, đ̣, bè mảng là biểu tượng của một thân phận, một 
			cuộc đời, một t́nh duyên... đi trong cuộc đời như đi trong một ḍng 
			sông nhiều nghềnh thác: Có ai xuôi vềCho tôi nhắn lời vềCho tôi nhủ lời vềNhắn cùng bầu bạn xuống bè xuôi đôngLên thác (th́ ai ơi) xuống ghềnhLên thác đă vậy, xuống ghềnh th́ sao?Có yêu nhau (th́) ngỏ cửa ra vào... (Ai xuôi về) Để rồi dẫn đến những điều nhắn nhủ người thương về một phẩm chất 
			cần có trong t́nh yêu nam nữ, t́nh bạn, t́nh người ... Có yêu nhau (th́) nón cũng như dù...... Có yêu nhau (th́) đá cũng như vàng... Cũng có khi "thuyền mở lái chèo, bắt lái chèo ra" được ví như 
			con người vào đời để đi t́m hạnh phúc: Thuyền mở lái chèoBắt lái chèo raNhịp hai, anh Hai đi t́m vợNhịp ba, chị Ba đi t́m chồngThương lấy nhau cùngCó mũi, có lái, như rồng có mây... Thuyền, đ̣ trong nước lặng, sóng yên th́ ít mà trong sự nổi 
			nênh, lênh đênh, ḍng dành... th́ nhiều. Tuy nh́n và miêu tả thành 
			công sự nổi lênh đênh của thuyền, đ̣ trên sóng nước như con người đi 
			trong cuộc đời nhiều ghềnh thác, nhưng người quan họ không bi quan 
			mà, về kết các bài ca thường là những lời nhắn nhủ về một niềm tin: Có yêu nhau... th́ đá cũng như vàng hoặc: Muốn cho gần bến gần thuyềnGần thày, gần mẹ nhân duyên cũng gần... Do yêu cầu đối giọng, đối lời trong ca hát Quan họ, nên người 
			Quan họ nhiều khi rất thành công trong nghệ thuật sáng tạo nên những 
			cặp đôi h́nh tượng đối xứng trong những cặp đôi bài ca đối đáp. Bài "Ngồi tựa mạn thuyền" và bài "Ngồi tựa song đào" là một cặp 
			đôi bài ca đối đáp. Chính v́ vậy ở 2 bài ca này ta thấy một cặp đôi 
			h́nh tượng đối xứng. ở bài "Ngồi tựa mạn thuyền", người Quan họ đă vẽ lên h́nh tượng 
			những con người tài trai, phong nhă yêu thiên nhiên "sơn thuỷ hữu 
			t́nh", "giăng in mặt nước"; yêu những thú vui thanh cao: thơ, rượu, 
			đàn ca... Đúng là "văn nhân, tài tử"' một thời. Để đối xứng với người "văn nhân, tài tử" ấy, người quan họ đă vẽ 
			lên h́nh tượng "người thục nữ" của một thời: ngồi tựa song đào; nửa 
			chăn, nửa chiếu, nửa giường để đấy đợi ai...; đa cảm, đa t́nh... Sự đối xứng giữa "tài trai" và "thục nữ" đă tạo nên sự đối chỉnh 
			của hai bài ca. Tạo nên được sự đối chỉnh như vậy trong sáng tạo lời 
			ca đ̣i hỏi người sáng tạo có tŕnh độ ngôn từ và xây dựng h́nh tượng 
			cao khi sáng tác. Hoặc, ta thử phân tích một cặp bài "đối" để t́m 
			hiểu nét đặc sắc về nghệ thuật sáng tạo nên những cặp đôi đối xứng 
			về h́nh tượng, h́nh ảnh, từ ngữ... trong lời ca Quan họ: Bài 1:  Lóng lánh: Lóng lánh là lóng lánh ơi!Mắt người lóng lánh như sao trên trờTôi nhớ người lắm lắm người ơi!... Bài 2: Lúng liếng Lúng liếng là lúng liếng ơi!Miệng người lúng liếng có đôi đồng tiềnTôi với người muốn kết mhân duyên!... Bài 1 thường do các liền chị hát. Các chị hướng về phía các anh 
			hát "Lóng lánh là lóng lánh ơi!..." Gọi các anh cũng là gọi cái 
			"lóng lánh, nhấp nhánh, óng ánh..." của đôi mắt "như sao trên trời" 
			của các anh. Thế là chỉ một câu thơ 6 chữ với từ "lóng lánh" tài 
			t́nh, lặp lại cũng tài t́nh, các chị đă nói được cả vẻ đẹp h́nh thể 
			và vẻ đẹp tâm hồn của bạn ḿnh, nói được t́nh cảm đằm thắm, thiết 
			tha của ḷng ḿnh hướng về bạn; bộc lộ được quan niệm về vẻ đẹp cao 
			quư, thuần khiết. Khi nghe hát trọn vẹn lời ca, cùng một lúc nổi lên hai h́nh 
			tượng: những liền anh Quan họ với vẻ đẹp h́nh thể, tâm hồn vẹn toàn 
			và phía sau, kín đáo nhưng cũng khá ró, là h́nh tượng liền chị Quan 
			họ có tâm hồn biết trân trọng và phát hiện để nâng niu, để hướng 
			tới, để yêu quư những vẻ đẹp của bạn ḿnh. Một bài lời ca có 3 câu mà có những thành tựu đặc sắc như vậy về 
			nghệ thuật ngôn từ, và cũng nói được nhiều điều khó nói mà muốn nói 
			như vậy, th́, bài đối lại phải đáp ứng sao cho ít nhất cũng "tương 
			hằng", như cách nói quan họ và nếu hay hơn, giỏi hơn th́ lại càng 
			đặc sắc. Bài đối lại là bài "Lúng liếng" thường do các anh hát. T́m được 
			từ "Lúng liếng" để đối xứng với từ "Lóng lánh" của bài 1 th́ thật là 
			một thành công vượt bực: cũng một kiểu cấu tạo từ lấp láy; cũng 
			thiết tha gọi tới nét duyên nhất của bạn ḿnh là nét cười "lúng 
			liếng" với đôi má lúm đồng tiền; cũng bộc lộ sự trân trọng, yêu quư 
			luôn dành cho bạn; và cũng đồng thời gợi lên h́nh tượng liền chị, 
			liền anh, tinh tế, thông minh, duyên dáng, tài hoa trong vẻ đẹp vẹn 
			toàn. Cùng với sự đối xứng của âm điệu âm nhạc của hai bài ca, người 
			Quan họ đă sáng tạo nên một cặp bài ca đối và một cặp h́nh tượng đối 
			xứng rất thành công theo lề lối ca hát trong Quan họ: đối nhạc, đối 
			lời (ư, t́nh, h́nh ảnh, h́nh tượng, từ ngữ...)  7. Nghệ thuật sử dụng từ có nghĩa xác định cụ thể để mở ra sự 
			trừu tượng, sự hàm ư phong phú,  sâu rộng của lời ca Người Quan họ rất tài t́nh trong việc sử dụng nhũng từ có ư 
			nghĩa xác định cụ thể, để mở ra sự trừu tượng, sự hàm ư phong phú, 
			sâu rộng, làm cho lời ca ít lời mà sâu sắc, luôn luôn rộng mở về ư, 
			khiến người nghe, người cảm thụ phát huy được khả năng liên tưởng, 
			tưởng tượng, cảm xúc. Thí dụ: ... Năm canh, sáu khắc, người ơi!Người cười nửa miệng, em vui nửa ḷng Người cười nửa miệng, em vui nửa ḷng: cửa nửa miệng, vui nửa 
			ḷng, vừa là những h́nh ảnh cụ thể, là những từ mang tính xác định, 
			nhưng lại để người nghe rơi vào sự liên tưởng, tưởng tượng đạt tới 
			cảm xúc, nhận thức ở những mức độ khác nhau của sự vô hạn, và cũng 
			rất trừu tượng về sự gắn bó t́nh cảm, gắn bó thân phận giữa người 
			cửa nửa miệng và em vui nửa ḷng. Cũng sử dụng thủ pháp ấy, nhưng tinh tế, sâu sắc, kín đáo đến 
			mức nghe lâu, ngẫm lâu mới thấy ư muốn nói, mà khi đă thấy rồi th́ 
			lại thấy ư t́nh muốn nói kia thật rơ ràng, không cầu kỳ ẩn dấu. Thí dụ: Người về để nhện giăng mùngNăm canh luống những lạnh lùng cả năm "Nhện giăng tơ" là h́nh ảnh thường gặp, nhưng nhện giăng mùng 
			th́ ít gặp. Nhện giăng tơ thường là h́nh ảnh của sự tơ vương, vương 
			vấn, vương vít... một cách mong tinh tế trong t́nh yêu. Nhưng nhện 
			giăng mùng th́ lại gợi ư khác. Mùng là tiếng cổ để chỉ cái màn chống 
			muỗi ngày nay ta vẫn dùng. Mùng gợi lên sự giăng mắc, bịt bùng. Nhện 
			giăng mùng lại đặt sau Người về - sự chia ly, xa, vắng - khiến ta 
			nghĩ tới sự quạnh vắng, cô đơn, thương nhớ... giăng mắc bịt bùng vây 
			toả khi phải chia xa cùng người. Mong manh, nhưng suốt cả năm canh 
			cũng chẳng vượt nổi sự vây bủa, bịt bùng ấy. Từ những h́nh ảnh cụ 
			thể, xác định đă mở ra sự vẫy vùng vô hạnh của tưởng tượng và cảm 
			xúc để người hát, người nghe đồng cảm với sự bịt bùng trong nỗi buồn 
			chia xa mênh mông vô hạn.  ở một thí dụ khác: Bồ câu bay thấp liệng caoBay ra cửa phủ bay vào trong dinhĐèn trời khêu ngọn tam tinhKhêu lên cho tỏ ta nh́n mặt nhauNh́n người chẳng dám nh́n lâuNh́n qua cho bơ cơn sầu mà thôi. Hai câu đầu của bài lời ca "Bồ câu...vào trong dinh" ta đă gặp ở 
			một bài ca dao khác. Nhưng tại sao lại được đặt vào đây? Hai câu 
			tiếp "Đèn trời...ta nh́n mặt nhau" h́nh như chẳng liên quan ǵ đến ư 
			hai câu đầu. Đọc tiếp hai câu cuối: "Nh́n người...bơ cơn sầu mà 
			thôi" ta bắt gặp một cái nh́n: nh́n qua cho bơ cơn sầu. Tất cả sáu 
			câu thơ dồn vào cái nh́n này. Từ cái nh́n qua ấy ta mới ngược lên 
			nghĩ về hai câu đầu, về cánh chim câu bay thấp liệng cao mà ngay đầu 
			bài đă miêu tả, không chỉ bằng lời thơ mà c̣n bằng cả thủ pháp âm 
			nhạc nữa. Vậy cánh chim bay liệng chao chao kia gắn bó ǵ với cái 
			nh́n qua này? Lúc ấy ta mới hiểu rằng cánh chim câu chao chao bay 
			thấp, liệng cao, khi vụt hiện, khi vụt khuất, khi vụt tỏ, khi vụt mờ 
			kia sao mà giống cái nh́n qua kia đến vậy? Cũng như một vệt nắng, 
			một cánh chim chao liệng, cái nh́n qua ấy, tưởng như hờ hững, nhưng 
			dù tỏ, dù mờ, dù khuất, dù hiện vẫn trong ṿng "cửa phủ", "trong 
			dinh", vẫn là cái nh́n qua cho bơ cơn sầu mà thôi dành cho bạn của 
			ḿnh. Nh́n qua mà chẳng qua loa, bởi v́ bao t́nh, bao ư, bao nỗi 
			niềm dồn vào cái nh́n qua ấy, và người sáng tạo lời ca, âm nhạc đă 
			dồn cả tâm sức vào miêu tả cái nh́n qua ấy.  8. Ảnh hưởng qua lại giữa lời ca Quan họ với thơ ca dân gian, 
			dân tộc Lời thơ trong lời ca Quan họ gắn bó, có ảnh hưởng qua lại đối 
			với ca dao, lời các dân tộc khác, lời thơ trong hệ thống truyện nôm 
			khuyết danh, hoặc truyện nôm có tác giả, nhất là với truyện Kiều. Cũng thấy những trường hợp lời ca Quan họ có những câu giống với 
			lời ca chèo, chầu văn và một số dân ca các vùng miền khác. ở đây t́m 
			hiểu thêm mối liên hệ giữa lời thơ Truyện Kiều và lời thơ trong lời 
			ca Quan họ, cũng là mối liên hệ giữa thơ ca dân gian với một tác 
			phẩm thơ ca thành văn vào bậc lớn nhất của Văn học Việt Nam, để từ 
			đó t́m hiểu những thủ pháp nghệ thuật mà người Quan họ đă xử lư 
			trong mối quan hệ nhiều chiều trên con đường sáng tạo lời ca. Khi nói tới mối liên hệ này, sẽ không khoa học nếu chỉ giới 
			thiệu rằng khi sáng tạo lời ca Quan họ, người Quan họ chỉ hoàn toàn 
			học tập Truyện Kiều, mà cần nghĩ thêm rằng Nhuyễn Du khi sáng tạo 
			truyện Kiều đă thu hút những tinh hoa của thơ ca dân gian, trong đó 
			không loại trừ hệ thống lời ca Quan họ, nhất là Nguyễn Du có quê mẹ 
			ở quê hương Quan họ và đă từng sống trên quê hương này với thời thơ 
			ấu cũng như khi đă trưởng thành. Mối liên hệ giữa lời ca Quan họ và 
			lời thơ Truyện Kiều tồn tại dưới nhiều dạng thức. Có khi giống nhau nguyên văn từng đoạn: ... Ngọn đèn khi tỏ khi mờKhiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầuKhi tựa gối, khi cúi đầuKhi ṿ chín khúc, khi chau đôi mày... Nếu đoạn thơ trên là một đoạn thơ mượn từ Truyện Kiều - cũng có 
			thể tin như vậy - cũng chứng tỏ người sáng tạo lời ca Quan họ đă 
			sành về nghệ thuật thơ ca khi chọn lựa đoạn thơ ấy nói điều phải 
			nói. Nhưng dạng trên không nhiều mà sự giống nhau từng câu, từng cặp 
			lục bát, hoặc nhiều chữ trong một câu... diễn ra nhiều hơn. Điều này 
			chứng tỏ người quan họ khi làm lời ca đă luôn giữ quyền chủ động, 
			bản lĩnh sáng tạo của ḿnh. Nếu có một câu hoặc một cặp thơ sáu tám nào đó giống nhau được 
			đặt vào làm lời ca đă luôn giữ quyền chủ động, bản lĩnh sáng tạo của 
			ḿnh. Nếu có một câu hoặc một cặp thơ sáu tám nào đó giống nhau được 
			đặt vào bài lời ca Quan họ th́ thường đấy là những câu thơ hay, lại 
			được đặt đúng chỗ, tạo nên sự nhất quán của đoạn thơ, bài thơ: ... Ruột tầm chín khúc quặn đau Ḷng này ai tỏ cho nhau hỡi ḷng?Bước đi một bước trông chừng c̣n xa.... Hoặc ...Cớ sao tôi phải lạc loài tới đâyAi làm nên nỗi nước nàyHoa ơi ! Sao khéo đọa đày bấy hoa Có khi chỉ khác đi một đôi chữ mà mang theo bao nhiêu biến đổi 
			trong nội dung câu thơtrong Truyện Kiều có 2 câu: ...Người vào chung gối loan pḥngNàng ra tựa bóng đèn chong canh chày... Đây là hai câu thơ Nguyễn Du đă viết về nỗi đau trọn đời không 
			quên của Kiều: cảnh cuối cùng trong màn kịch đánh ghen của Hoạn Thư 
			là đẩy Kiều vào sự bẽ bàng, đau khổ đến tột độ về thân phận, giữa 
			đêm dài, trong sự cô đơn. Nguyễn Du nêu lên một nghịch cảnh: Cảnh: chung gối loan pḥng (Hoạn Thư-Thúc Sinh)Cảnh: tựa bóng đèn chong canh chày (Kiều) Từ nghịch cảnh ấy, Nguyễn Du miêu tả nỗi đâu thân phận của Kiều. 
			Nhưng, Quan họ cũng có câu hát: Người về tựa chốn loan pḥngTôi về tựa bóng đèn chong canh chầy Trong câu hát này có 5 chữ khác nhau so với 2 câu thơ Kiều, 
			nhưng đă chuyển từ một nghịch cảnh đau khổ trong 2 câu thơ Nguyễn Du 
			chuyển sang cảnh hướng về nhau trong nỗi tương tự của t́nh yêu trong 
			lời ca Quan họ. Cũng "Loan pḥng", cũng "tựa bóng đèn chong canh chầy", nhưng là 
			hai tâm hồn hướng tới nhau trong nỗi nhớ thương muôn thủa của t́nh 
			yêu. Đối với dân ca vùng khác, về phương diện âm nhạc, các nhà nghiên 
			cứu âm nhạc đă nhận rơ sự du nhập vào hệ thống bài ca Quan họ của 
			các điệu lư miền Trung, Lư miền Nam, nhưng đă chuyển hoá đi nhiều 
			hoặc ít, theo phong cách âm nhạc Quan họ. Trong các bài du nhập ấy có cả phần lời ca. Ta thử t́m hiểu một 
			lời ca. Lời ca của bài "Lư Thiên Thai": Trèo lên trên núi Thiên thaiThấy chim loan phượng ăn soài bên đông(ăn ngoài biển đông)(?) Anh Hai buông áo em ra Để em đi chợ kẻo đà chợ trưaChợ trưa rau sẽ héo điLấy chi nuôi mẹ, lấy ǵ nuôi em Trong bài lời ca trên có những điểm cần lưu ư về nghệ thuật ngôn 
			từ - ăn soài bên đông: vùng Quan họ và miền Bắc nói chung không gọi 
			trái soài như miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ, mà gọi là quả muỗm hoặc 
			quả quéo. Vậy, có thể nghĩ rằng hai câu thơ đầu có dấu vết của ngôn ngữ 
			miền Nam. Trong ca dao có 4 câu: Cậu cai buông áo em raĐể em đi chợ kẻo đà chợ trưaChợ trưa rau sẽ héo điLấy chi nuôi mẹ, lấy ǵ nuôi em? Lời bài ca quan họ "Lư thiên thai" chỉ khác 4 câu ca dao trên ở 
			chỗ thay cậu cai bằng anh Hai Ngay chữ chi trong lấy chi nuôi mẹ cũng rất lạ đối với cách nói 
			vùng Quan họ. Người vùng Quan họ lẽ ra phải hát: "lấy ǵ nuôi mẹ, 
			lấy ǵ nuôi em?". Nhưng chữ ǵ thứ nhất đă được thay bằng chữ chi, 
			chính xác hơn là giữ nguyên chữ chi trong lấy chi - dáng dấp ngôn 
			ngữ miền Trung, miền Nam, - Giữ như vậy, thanh điệu câu thơ hay hơn 
			và khi hát bắt lời hợp với nhạc hơn, lại không làm câu thơ rơi vào 
			sự lặp từ không nghệ thuật.  Trong nghệ thuật làm lời ca, người Quan họ đă biết sử dụng thể 
			loại thơ, nhất là thể loại thơ lục bát với tất cả mọi dạng biến thể 
			của thể loại này, biết thu hút những tinh hoa của nghệ thuật thơ ca 
			dân gian, dân tộc, nhất là những tác phẩm nổi tiếng của dân tộc như 
			Truyện Kiều, biết sử dụng ngôn ngữ thơ ca để xây dựng nên những h́nh 
			tượng trữ t́nh đặc sắc, những đoạn thơ, câu thơ, ư thơ mới chỉ cần 
			đọc diễn cảm, chưa cần hát, đă khiến người nghe xúc động, bồi hồi v́ 
			t́nh, v́ ư... của thơ. Chính v́ những thành tựu trong nghệ thuật thơ ca như vậy, nên 
			nhiều bài lời ca Quan họ có giá trị độc lập của thơ ca. Liên kết 
			những bài lời ca có giá trị thơ ca cao với sự sáng tạo âm nhạc và 
			những giọng hát hay, đẹp của người Quan họ, chúng ta đă có những bài 
			hát sống măi.  Phần 2 : Quê hương Quan họ Các làng Quan họ Một vùng truyền thống  Ngược ḍng lịch sử, quê hương Quan họ có nhiều tên gọi khác nhau 
			và địa bàn rộng, hẹp khác nhau, qua các triều đại. Từ xa xưa đă nổi 
			tiếng một vùng Kinh Bắc, xứ sở của Quan họ. Dưới thời Pháp thuộc, 
			cuối thế kỷ XIX, từ ngày 10/10/1895 bắt đầu tồn tại hai tỉnh Bắc 
			Ninh và Bắc Giang. Từ năm 1963 hai tỉnh đó được sát nhập lại thành 
			một tỉnh Hà Bắc rộng lớn với ngót hai triệu rưởi dân và hơn bốn ngàn 
			rưởi cây số vuông,và tỉnh Hà Bắc đó được xem như quê hương của dân 
			ca Quan họ. Gần đây hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang lại được tách ra. 
			Do phần lớn các làng quan họ quần tụ trên mảnh đất Bắc Ninh, chỉ có 
			vài làng nằm trên đất Bắc Giang; nên người ta vẫn thường nói Kinh 
			Bắc ; hay có khi nói Bắc Ninh là quê hương, là chiếc nôi sinh ra và 
			nuôi dưỡng các làng Quan họ. Nhưng về đại quát, quê hương ấy vậy là 
			một vùng đất rộng lớn, phía Bắc sông Hồng, nằm trong vùng văn hoá, 
			văn minh châu thổ sông Hồng, sông Thái B́nh, giáp ranh với các tỉnh 
			Lạng Sơn, Bắc Thái, Vĩnh Phú, Hải Hưng, Quảng Ninh ngày nay.Tính từ 
			điểm cực Bắc đến điểm cực Nam đường thẳng chừng 70 km; từ điểm cực 
			Đông sang điểm cực Tây đường thẳng chừng 120 km, chia làm 3 vùng rơ 
			rệt: miền núi, trung du và đồng bằng. Nhưng các làng Quan họ chủ yếu 
			nằm ở vùng đồng bằng. Trên đất Bắc ninh, Bắc giang có 8 dân tộc 
			chính sinh sống, đó là Việt, Nùng, Tày, Cao Lan, Sán chỉ, Sán D́u, 
			Dao, Hoa, trong đó, người Việt chiếm hơn 90%, và Quan họ chỉ tồn tại 
			trong cộng đồng người Việt.  Từ rất lâu đời, cư dân Kinh Bắc là cư dân nông nghiệp cấy lúa. 
			Cùng với nông nghiệp, họ cũng sớm có những làng nghề thủ công chuyên 
			sản xuất một mặt hàng thủ công nghiệp: nghề gốm ở Thổ Hà, Phù Lăng, 
			nghề đúc và g̣ đồng ở Đại Bái, Lăng Ngâm, Quảng Phú, nghề rèn sắt ở 
			Quế Nham, Đa Hội, Nga Hoàng, nghề nhuộm ở Đ́nh Bảng, Phù Lưu, nghề 
			đóng đồ miếu ở Đ́nh Cả, Làng Tiêu, nghề kim hoàn, chạm vàng, chạm 
			bạc, khảm trai ở Thị Cầu, nghề làm tranh dân gian và hàng mă ở Đông 
			Hồ v.v... Do hệ thống giao thông thuỷ bộ thuận lợi nên Bắc Ninh, Bắc Giang 
			sớm có mối liên hệ trao đổi, giao thương với nhiều vùng của đất 
			nước, kể cả nước ngoài như Trung Quốc, ấn Độ, một vài nước phương 
			Tây. Luy Lâu là một trung tâm giao thương từ rất sớm trên các tỉnh 
			này. Nơi đây sớm trở thành một vùng kinh tế có thế mạnh đồng bằng, 
			trung du, miền núi. Và, đặc biệt quan trọng là cư dân Kinh Bắc có 
			truyền thống cần cù, thông minh sáng tạo trong lao động. Nên, cho 
			đến thế kỷ XI, cùng với sự ra đời Nhà nước Đại Việt triều Lư, Kinh 
			Bắc đă trở thành một vùng kinh tế mạnh của đất nước, làm nền cho sự 
			phát triển mọi mặt chính trị, văn hoá, xă hội.... Hàng ngh́n năm, trong lịch sử chống ngoại xâm, vùng đất và con 
			người Kinh Bắc được lịch sử cả nước giao cho trọng trách là "đất 
			phên dậu phía Bắc của Thăng Long", một thế đứng: Trước mắt kẻ thù 
			mạnh, hung hăn, luôn mang dă tâm xâm lược; đằng sau là kinh đô - 
			danh dự thiêng liêng của đất nước - buộc phải giữ ǵn, bảo vệ. Chính 
			thế đứng và trọng trách lịch sử ấy đă hun đúc nên phẩm chất anh 
			hùng, mưu lược, quyết chiến thắng của người dân Bắc ninh Bắc giang 
			để họ viết nên những trang sử vàng chói lọi về lịch sử chống ngoại 
			xâm : chiến thắng Như Nguyệt - thế kỷ XI; những Nội Bàng, B́nh Than, 
			Vạn Kiếp, chống quan Nguyên Mông, thế kỷ XIII; chiến thắng Chi Lăng 
			- Xương Giang quyết định kết thúc thắng lợi 10 năm kháng chiến chống 
			quân Minh, thế kỷ XV...Truyền thống ấy, trong các cuộc kháng chiến 
			chống Pháp sau này đă đươc phát huy với những địa danh nổi tiếng Yên 
			Thế, Đ́nh Bảng.. ..  Gian khổ nhiều, mất mát, hy sinh nhiều cho sự sống c̣n của quê 
			hương, đất nước suốt chiều dài lịch sử, nên, con người ở quê hương 
			này c̣n được lịch sử hun đúc phẩm chất, t́nh cảm yêu thương sự sống, 
			yêu thương con người, một phẩm chất cơ bản của người anh hùng và 
			người nghệ sĩ. Chính những phẩm chất, t́nh cảm cao quư này sẽ chi 
			phối mọi sáng tạo của người dân Kinh Bắc trong mọi lĩnh vực, nhất là 
			lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, trong đó, có Quan họ. Về lịch sử phát triển văn hoá, Kinh Bắc cũng là một vùng có 
			những đặc điểm tương đối riêng và nổi bật. Khảo cổ học đă chứng minh 
			vùng Kinh Bắc có sự tụ cư lần lượt của nhiều luồng cư dân từ lâu 
			đời, trong đó yếu tố văn hoá Việt cổ giữ vai tṛ chủ thể. Tiến tŕnh 
			phát triển văn hoá bản địa trên đất này không diễn ra êm ả, xuôi 
			ḍng, mà, đă đụng đầu trực diện với sự đồng hoá văn hoá gắn liền với 
			mưu đồ sáp nhập lănh thổ của một kẻ thù mạnh, kẻ thắng trận và đô hộ 
			quê hương này, đất nước này, khi đứt, khi nối, hàng ngh́n năm. Trong cuộc đụng đầu lịch sử hàng ngh́n năm ấy, kết quả lịch sử 
			đă chứng minh: nền văn hoá bản địa trên quê hương này không những 
			không bị đồng hoá, tiêu diệt mà ngược lại, nền văn hoá ấy vẫn tiếp 
			tục phát triển giá trị, bản sắc riêng, để rồi, khi đất nước độc lập, 
			vùng văn hoá dân gian xứ Kinh Bắc lại trở thành vùng văn hoá nền 
			tảng của văn hoá, văn minh Thăng Long nước Đại Việt, thế kỷ XI. Cuộc 
			thử thách lớn lao và kéo dài trong trận chiến giữ ǵn, phát triển 
			giá trị, bản sắc văn hoá, nghệ thuật quê hương, đă có những cống 
			hiến lớn lao cho công cuộc xây dựng văn hoá đất nước, quê hương. Trong lịch sử khoa cử của các triều đại, kể từ khoa thi đầu tiên, 
			1075, triều Lư, đến khoa thi cuối cùng, 1919, triều Nguyễn, trong 
			845 năm, có 187 Khoa (đại Khoa) người Hà Bắc dự thi 145 Khoa, đỗ 
			được 645 tiến sĩ và tương đương tiến sĩ, chiếm hơn 1/4 tiến sĩ cả 
			nước. Trạng nguyên là học vị cao nhất, vinh dự nhất trong khoa cử 
			thời xưa th́ Hà Bắc có hơn 1/3 số trạng nguyên cả nước, chưa kể 
			những người đỗ đầu thi đ́nh trong những kỳ thi không lấy đỗ trạng 
			nguyên. Lấy học vị đại khoa (thái học sinh, tiến sĩ, tam khôi) là 
			mốc để xét, th́, đất Hà Bắc một thời ngót ngh́n năm đă có số lượng 
			đỗ nhiều, nhiều người đỗ rất cao, nhiều người đỗ trẻ nhất, so với cả 
			nước. Có làng được gọi là "Làng nghè" (nghè là tên nôm của học vị 
			tiến sĩ) như làng Kim Đôi (nay thuộc huyện Quế Vơ), làng Tam Sơn 
			(nay thuộc huyện Tiên Sơn)...Có ḍng họ nhiều đời nối tiếp, cha con, 
			anh em đồng khoa, đồng triều như ḍng họ Thân ở Yên Ninh (Yên Dũng 
			nay thuộc Việt Yên), ḍng họ Nguyễn ở Vĩnh Kiều (xưa thuộc Đông Ngàn 
			nay thuộc Tiên Sơn)...Có nhà sinh 5 con trai đều đỗ tiến sĩ cả 5 
			người và người đỗ trẻ nhất là Nguyễn Nhân Thiếp: đỗ tiến sĩ 15 tuổi 
			(khoa 1466). Tao Đàn, hội thơ văn đầu tiên, duy nhất trong thời phong kiến, 
			do Lê Thánh Tông, vị vua hay bậc nhất một thời, thế kỷ XV, đă tuyển 
			chọn danh nhân cả nước lấy 28 người, gọi là nhị thập bát tú (28 v́ 
			sao sáng), để xướng hoạ thi ca, th́ gần nửa là người Kinh Bắc, trong 
			đó có Phó nguyên suư và Sái-phu Tao Đàn là người Kinh Bắc, có nhà 2 
			người như họ Nguyễn ở Kim Đôi, họ Ngô ở Tam Sơn... Một đội ngũ trí thức đại khoa đông đảo đến các ngơ, các làng, 
			lại phần đông am hiểu và sáng tạo thơ ca, cho nên, một h́nh thái 
			sinh hoạt văn hoá dân gian làng xă như Quan họ chắc chắn thu hút sự 
			tham gia sáng tạo của đội ngũ này. Chính v́ thế, những người nghiên 
			cứu Quan họ ngày nay đă t́m thấy trong Quan họ mối quan hệ gắn bó 
			giữa sáng tạo bác học và sáng tạo dân gian, sự đan xen, hoà nhập 
			giữa lao động sáng tạo của người trí thức và người b́nh dân.   Phần 3 : Lề lối ca hát Quan họ Hát đối đáp Hát canh Hát hội Hát thờ Hát cầu đảo Hát giải hạn Hát mừng Hát kết chạ    Lề lối ca hát Quan họ cũng có nhiều điểm tương đồng với các dân 
			ca khác của người Việt và các dân tộc khác. Nhưng, nh́n chung, lề 
			lối ca hát Quan họ mang tính chất quy củ, khuôn phép chặt chẽ và tác 
			động đến sự giữ ǵn, phát triển Quan họ. Hát đối đápKhi hát vui ở hội, ở một canh hát gặp gỡ bạn bầu, bao giờ Quan 
			họ cũng tuân theo lề luật: đối đáp nam nữ, đối giọng, đối lời và hát 
			đôi nam đối với nữ. Đối đáp nam nữ là bên gái hát một bài, tiếp đó, 
			bên trai lại hát một bài, cứ thế dài hết cuộc hát hoặc canh hát. Đối 
			giọng: bên hát trước hát bài có làn điệu âm nhạc như thế nào th́ bên 
			hát sau phải hát đối lại một bài cũng có làn điệu âm nhạc như thế, 
			được coi là đối giọng. Đối lời: Đối lời khác với đối giọng không chỉ 
			ở chỗ một bên thuộc lĩnh vực âm nhạc, một bên thuộc lĩnh vực thơ ca, 
			mà c̣n khác ở chỗ: nếu bên hát trước đă hát một lời ca nào đấy (một 
			đoạn thơ, một bài thơ...) th́ bên hát sau cũng sử dụng làn điệu âm 
			nhạc giống như bên hát trước, nhưng lời ca phải khác đi mà vẫn gắn 
			bó với t́nh, ư, h́nh tượng...của lời ca người hát trước để tạo nên 
			hiệu quả hô-ứng, tương hằng, đối xứng, cảm thông. Hát đối nam nữ, đối giọng, đối lời được coi là sự đối đáp hoàn 
			chỉnh theo lề lối của Quan họ. Điều này cũng giống lề lối của nhiều 
			ḍng dân ca khác. Nhưng cần lưu ư rằng tŕnh độ đối giọng, đối lời 
			của ca hát Quan họ đă tiến tới một đỉnh cao mới về nghệ thuật âm 
			nhạc và thơ ca, buộc Quan họ không ngừng liên tiếp vươn tới những 
			sáng tạo mới, vươn tới sự tích luỹ thường xuyên về vốn âm nhạc, vốn 
			thơ ca, tŕnh độ sáng tác và nghệ thuật ca hát.  Hát cầu đảo Không biết tự bao giờ người Quan họ cũng như đông đảo cư dân 
			nông nghiệp trên quê hương Quan họ tin rằng mưa, nắng thuận hoà, mùa 
			màng tươi tốt, dân an, vật thịnh...là kết quả của hoà hợp âm dương, 
			hoà hợp giữa đất trời và con người. Nếu âm thịnh dương suy th́ gây 
			lụt, băo. Nếu dương thịnh âm suy sẽ gây hạn hán, sâu keo...Người 
			Quan họ tin rằng tiếng hát Quan họ có thể thấu đến trời cao và thế 
			giới thần linh, có thể hoà hợp âm dương. V́ vậy, nếu trời hạn hán 
			kéo dài măi không mưa th́ ở một số đền miếu trong vùng Quan họ 
			thường có hát cầu đảo (cầu mưa). Hát cầu đảo thường chỉ có Quan họ nữ. Dân làng gọi hết Quan họ 
			nữ trong làng, giữ ǵn chay tịnh, đến ăn ngủ tại cửa đền hát liền 2, 
			3 ngày đêm. Không hát những bài t́nh tứ trao duyên như Quan họ 
			thường hát mà chỉ hát những bài có nội dung cầu nguyện mưa thuận gió 
			hoà và chỉ hát một giọng La rằng. Người ta nói rằng hát như vậy cũng có linh nghiệm.  Hát canh Nhiều nơi kiêng chữ hát, nên canh hát c̣n được gọi là canh ca; 
			chẳng hạn: ca một canh. Một canh hát Quan họ đúng lề lối xưa thường 
			diễn ra vào mùa xuân hoặc mùa thu, mùa của hội chùa, hội đ́nh làng 
			vào đám, giữa những nhóm Quan họ nam và nữ mới nhau đến nhà "ca một 
			canh cho vui bàu vui bạn, vui xóm, vui làng, cầu may, cầu phúc". Canh hát thường được giữ đúng các lề lối như Quan họ đă định ra 
			và thường kéo dài từ 7, 8 giờ tối đến 2, 3 giờ sáng. Đôi khi, hội 
			làng mở nhiều ngày, cũng có những canh hát kéo dài 2, 3 ngày đêm. Tŕnh tự một canh hát đúng lề lối có thể chia thành 3 chặng. Trong chặng đầu tiên, sau những nghi thức giao tiếp giữa Quan họ 
			khách và Quan họ chủ, thường là bên nam, bên nữ, Quan họ đi vào 
			chặng hát đầu tiên. ở chặng hát này, người ta hát những giọng cổ 
			cũng gọi là giọng lề lối. Truyền rằng xưa Quan họ có đến 36 giọng cổ 
			đă được ghi nhận trong một bài văn vần theo thể lục bát về tên các 
			giọng. Nhưng cho đến trước tháng 8-1945 th́ chặng hát này thường chỉ 
			hát chừng 5, 6 giọng: Hừ la, La rằng, Đương bạn (Bạn lan), T́nh 
			tang, Cây gạo, Cái ả... Các giọng cổ thường mang âm điệu cổ kính, 
			chậm răi, rền, nẩy, nhiều tiếng đệm lót, mang nhiều dấu hiệu đặc 
			trưng của ca hát Quan họ truyền thống. Vai tṛ của giọng La rằng đặc biệt quan trọng trong việc chi 
			phối nghệ thuật ca hát ấy, cả hai bên sớm đi vào sự ăn nhập về cao 
			độ, trường độ về sự vang, rền, nền, nẩy...của nghệ thuật ca hát. Có 
			khi hai bên hát đến hàng mười giọng khác nhau rồi mà âm thanh ca hát 
			vẫn cứ chênh vênh, hụt hơi, với (cao) hoặc sỉn (thấp)...th́ các bậc 
			bề trên của Quan họ ngồi nghe thường nhắc: "Bắt lại La rằng một lần 
			nữa đi, không th́ lại chênh vênh đến sáng". Hầu hết người Quan họ 
			đều cho rằng không ca được bài Là rằng cho vang, rền, nền, nẩy th́ 
			đừng nói chuyện ca Quan họ. Chặng ca những bài cổ là chặng bắt buộc, được duy tŕ rất nghiêm, 
			có thể coi là tiêu chuẩn để đánh giá sự nghiêm chỉnh, đúng lề lối 
			Quan họ. Không làm như vậy sẽ bị chê cười. Chặng giữa tiếp theo sau chặng hát những bài giọng cổ như trên. 
			Lúc này, Quan họ hát sang những bài thuộc hệ thống mà người Quan họ 
			gọi là Giọng vặt. Tuyệt đại bộ phận trong hệ thống bài ca quan họ 
			c̣n sưu tập được đến hôm nay là Giọng vặt, trong đó bao gồm nhiều 
			những bài mà hôm nay coi là những ca khúc dân gian mẫu mực ở tŕnh 
			độ nghệ thuật hoà hợp thơ ca và âm nhạc. Vào chặng ca giọng vặt, không phải ca theo một tŕnh tự bắt buộc 
			theo thứ tự tên các bài ca. Nhưng cũng do tập truyền lâu đời, về đại 
			quát, các canh hát cũng có những tŕnh tự không khác nhau nhiều. 
			Tŕnh tự này đă được người Quan họ chỉ rơ bằng một câu nói quen 
			thuộc, cửa miệng: "Quan họ càng về khuya càng bổng, càng trầm, càng 
			mặn nồng t́nh nghĩa." Nhờ vậy, canh càng về khuya những bài hát 
			thiết tha gắn bó, về nỗi nhớ, niềm thương, đôi khi, kể cả những nỗi 
			trăn trở về cuộc đời, về số phận con người...càng được người Quan họ 
			hát, ca, đối, đáp, khiến canh hát, nói như cách nói hôm nay, càng 
			đẩy tới cao trào của t́nh cảm và sự tài hoa, bay lượn, luyến láy của 
			nghệ thuật ca hát. Người Quan họ như tỉnh, như say trong t́nh bạn, 
			t́nh yêu, t́nh người trong chặng ca này. Chặng cuối thường diễn ra vào khoảng 12 giờ đêm, 1 
		giờ sáng, có thể cuối hoặc gần cuối chặng hát giữa, su lúc người Quan họ 
		mời nhau xơi tiệc mặn và tiệc ngọt có nơi uống rượu, có nơi không. Nếu 
		nơi có uống rượu th́ Quan họ chủ thường nâng chén rượu hát bài ca chuốc 
		rượu để mời bạn. Xong bữa tiệc và tuần trầu, nước, Quan họ cũng có thể 
		hát đối đáp thêm một số câu giọng vặt nữa rồi chuyển sang ca những bài 
		ca giă từ bạn, cũng tức là chuyển sang chặng cuối của canh hát.  Mở đầu chặng hát này thường là Quan họ khách bắt 
		đầu ca một câu giă bạn tỏ ư xin tạm biệt ra về, và, để đối lại (không 
		buộc phải theo lệ đối giọng) Quan họ chủ cũng ca bài giă bạn nhưng mang 
		ư níu giữ khách. Những bài ca giă bạn được cất lên vào lúc giă hội hoặc 
		vào khi tàn một canh hát, khoảng 2, 3 giờ sáng, trong tâm trạng quyến 
		luyến, bịn rịn, nuối tiếc không nguôi...nên t́nh, ư, giai điệu, âm thanh 
		bài ca rất xúc động ḷng người. Những bài ca giă bạn quen thuộc và nổi 
		tiếng c̣n lưu hành vẫn là các bài:  Người ơi người đừng về, Tạm biệt từ đây, Chia rẽ 
		đôi nơi, Kẻ Bắc người Nam, Con Nhện giăng mùng...Tiếp theo là cuộc tiễn 
		đưa nhiều lưu luyến và Quan họ hẹn rằng "...đến hẹn lại lên"...   |