Ở Sài Gòn trước năm 1975, những người thích đi ăn nhà hàng Tàu trong Chợ Lớn 
    đôi khi được nghe nhạc Trung Hoa từ những dàn nhạc nhỏ, qua đó họ gặp một 
    nhạc cụ nhiều dây, tạo âm thanh do đôi que gõ vào dây. Sau năm 1975, trong 
    một số dàn nhạc dân tộc cải biên, của Nhạc viện Tp. Hồ Chí Minh, người ta 
    thấy cây đàn này xuất hiện, chiếm vị trí giữa dàn nhạc … Đàn có tên là “tam 
    thập lục”, nó có thể tham gia trong các dàn nhạc dân tộc nhưng ít thấy độc 
    tấu hay trình diễn nhiều thể loại âm nhạc như những nhạc cụ khác.
    
    
    Đàn tam thập lục chỉ gia 
    nhập vào hệ nhạc khí của dân tộc ta từ những năm 60 thế kỷ XX. Cây đàn thuộc 
    họ dây (cordiophone) và có những sợi dây mắc song song với mặt đàn nên thuộc 
    “gia đình cithare”. Hộp đàn hình thang, với rất nhiều dây được mắc song song 
    theo chiều ngang của mặt đàn. Tuy gọi là tam thập lục, tức ba muơi sáu dây 
    nhưng số dây thực sự nhiều hơn rất nhiều, đó là do mỗi một âm thanh, một bậc 
    âm người ta gắn từ 2 đến 3 sợi dây đàn và nó được định âm do những con lăn 
    (con nhạn) và sự căng dây.
    
    Người chơi đàn có thể gõ 
    lên những sợi dây bằng đôi que đàn bằng tre có đính phần nỉ ở đầu, mà người 
    ta gọi là búa. Đôi khi người ta còn chơi bằng cách gẩy, búng, bốc bằng ngón 
    tay, gẩy bằng đuôi que v.v… nhưng lối gõ bằng “búa” là thông dụng nhất. Do 
    vậy, đàn tam thập lục thuộc họ dây – gõ.
    
    I. Nguồn gốc đàn tam 
    thập lục
    
    Về nguồn gốc, đàn tam thập 
    lục còn gọi là Dương cầm, theo phiên âm từ tiếng Trung hoa (yang - qin). 
    Theo nghĩa từ nguyên Trung Hoa, “Dương” có nghĩa là từ ở ngoài, nước ngoài. 
    Như vậy cho thấy, đàn tam thập lục từ nước ngoài đưa vào Trung Hoa. 
    
    
    Đến thế kỷ thứ 15 mới thấy 
    có những tài liệu chính thức nghiên cứu, ghi chép về những cây đàn có dạng 
    như vậy, hình ảnh được khắc trên ngà voi, được chế tác vào khoảng thế kỷ thứ 
    XII và có gốc Ba Tư. Những cây đàn dạng này rất phổ biến ở khu vực các nước 
    Trung Á và được sử dụng rộng rãi trong dân gian. Ngoài ra nó còn được phổ 
    biến ở các nước phương Tây thời Trung cổ. 
    
    Đến thế kỷ XVIII nó được 
    truyền vào Triều Tiên và tiếp tục vào Trung Hoa, Nhật Bản. Ở mỗi nước các 
    cây đàn này có tên gọi khác nhau : ví dụ như ở Ba Tư nó có tên là Santur, 
    hoặc những tên khác như Santari, Santuri, Santir, Suntur. Ở Syrie, Arab nó 
    có tên là “Qanun”. Ở Trung Quốc nó có tên là yang - qin, Mông cổ là Yoochir, 
    Nhật là Yan kin, Triều Tiên là Yanggum, Thái Lan là Kim … các nước Trung Á 
    gọi là Yenjing , các nước phương tây gọi là Cymbalom v.v…
    
    I. Đàn tam thập lục ở 
    Việt Nam
    
    
    
    
    Có thể nói, dân ca là thể tài được các nhạc sĩ quan tâm trước nhất để chuyển 
    soạn cho cây đàn tam thập lục diễn tấu ở Việt Nam. Đàn tam thập lục không có 
    phím để bấm, cũng không thể dùng tay trái nhấn, rung, mổ luyến láy như những 
    nhạc cụ dân tộc Việt nên nhiều nhạc sĩ khi chuyển soạn rất thận trọng chọn 
    lựa tác phẩm dân ca.. Với những bài Lý (dân ca), cây đàn tam thập lục sẽ làm 
    nổi bật hơn âm điệu trong sáng, vui tươi, nhất là dân ca Nam Bộ. 
    
    Dân ca ở các vùng khác như 
    Quan họ Bắc Ninh, dân ca các dân tộc thiểu số … cũng được biên soạn với 
    những kỹ thuật đơn giản, những nét luyến láy sẽ được thay bằng những nốt nhỏ 
    đánh nhanh dẫn vào nốt chính để tạo cảm giác luyến. Ngoài việc dựa vào những 
    kỹ thuật và những đặc điểm riêng của cây đàn, ví dụ như hệ thống dây đàn tam 
    thập lục là theo thang âm bình quân (thang âm có 12 bán âm đều nhau), đàn 
    tam thập lục có thể đi song thanh, song thanh lệch, tạo ra những câu nhạc 
    chạy liền tiếng rất nhanh thay cho những nét nhấn nhá, luyến láy. Các nhạc 
    sĩ cũng thích chuyển đổi hệ thống thang âm, viết lại với những giọng có dấu 
    hóa để có thể luyến bằng những nốt nhỏ cao độ bán âm v.v… để có thể diễn tấu 
    những nét đặc trưng của dân ca. 
    
    Ngoài dân ca, những bài 
    bản âm nhạc cổ truyền cũng là mục tiêu chuyển soạn của các nhạc sĩ. Với mong 
    muốn mở rộng khả năng diễn tấu của, các nhạc sĩ đã chuyển soạn các bài nhạc 
    Chèo cho đàn tam thập lục. Những bài này chiếm vị trí quan trọng trong nhạc 
    mục của cây đàn, đôi khi trở thành những bài độc tấu cho đàn tam thập lục. 
    Tất nhiên, những đặc điểm âm nhạc của Chèo vẫn phải giữ và cũng bằng những 
    kỹ thuật của cây đàn. Đó là nét nhạc chạy lướt mềm mại, những kiểu nhân đôi 
    giai điệu của hai bè, giai điệu bị chia cắt, có nhiều nét đan xen với phần 
    đệm v.v… 
    
    Diễn tấu đàn tam thập lục 
    đối với những bài bản cổ truyền có nhiều điểm không thuận lợi, nên khi 
    chuyển soạn các tác phẩm, bài bản âm nhạc cổ truyền, đặc biệt là bài bản 
    nhạc Tài tử Nam Bộ, các nhạc sĩ đã chú ý chuyển soạn các bài bản thuộc điệu 
    Bắc, hơi Bắc do ít luyến láy, hoặc những bài có hơi Quảng. 
    
    Ngoài bài bản thuộc hơi 
    Bắc, hơi Quảng, các nhạc sĩ cũng chuyển soạn các bài bản thuộc các hơi, 
    giọng khác như Oán, Xuân, Ai. 
    
    Ngoài ra các nhạc sĩ còn 
    có những sáng tác theo kỹ thuật âm nhạc phương Tây: Variation cho đàn tranh, 
    sáo và đàn tam thập lục (của NGƯT Nguyễn Văn Đời); hòa tấu đàn tam thập lục 
    và dàn nhạc dân tộc (của giảng viên Nguyễn Thị Bích Thủy) … 
    
    III. Kết luận
    
    - Việc tham gia vào gia 
    đình nhạc khí Việt Nam của đàn tam thập lục đã làm hệ thống nhạc khí nước ta 
    phong phú hơn, có thêm âm sắc nhạc cụ mới, làm cho số lượng bài bản phát 
    triển.
    
    - Để phát huy khả năng 
    trình diễn của cây đàn, làm cho nó trở thành thành viên của hệ nhạc khí Việt 
    Nam, các nhạc sĩ đã nỗ lực sáng tác bài bản, sáng tạo nhiều kỹ thuật diễn 
    tấu. Với hàng trăm sáng tác mới, tác phẩm chuyển soạn từ ca khúc cho đàn tam 
    thập lục, tác phẩm nước ngoài v.v… nhưng trong chương trình giảng dạy chính 
    thức của 2 nhạc viện quốc gia tại Việt Nam,  phần chủ yếu vẫn là âm nhạc 
    truyền thống: nhạc thính phòng Huế, nhạc Tài tử, những làn điệu của tuồng, 
    chèo, cải lương… 
    
    - Đưa đàn tam thập lục vào 
    hệ nhạc khí Việt nam cũng nhằm tiếp thu và phát huy những di sản âm nhạc thế 
    giới. Nhưng đó không phải là việc làm duy nhất trong sự nghiệp giữ gìn và 
    phát huy nền  âm nhạc dân tộc ngày nay. Chúng ta đã có bài học tốt trong 
    việc tiếp thu những di sản văn hóa thế giới và phát huy truyền thống âm nhạc 
    dân tộc như việc cải tiến cây đàn guitar Tây Ban Nha thành cây guitar phím 
    lõm và đưa nó vào âm nhạc Tài tử – Cải lương, đây cũng là bài học quý để 
    chúng ta rút kinh nghiệm khi tiếp thu cây đàn tam thập lục và đưa nó vào hệ 
    nhạc khí dân tộc Việt Nam.
    
      - 
      Thạc sĩ Nguyễn 
      Thị Mỹ Liêm