Chỉ còn chưa đầy 1 tuần nữa điệu múa cổ Bài
Bông sẽ hoàn chỉnh ra mắt với người dân vào ngày khai hội Yên Tử, suốt 6
tháng qua nhóm Ca trù Tràng An phối hợp với nhà chùa Yên Tử đã phục dựng
thành công một điệu múa cổ mà theo một số các học giả khi xưa nhận định
là “Nhã nhạc đế vương thịnh điển nhất trong nhạc giới”
Câu chuyện “Người người lớp lớp”
Câu chuyện của một thế kỷ qua khi mà những công chúng yêu Ca trù
chứng kiến sự hưng vong của môn nghệ thuật này, nhiều người đã chôn đi
tình yêu của mình cho những tiếng hát được coi như tôn vinh nét đẹp của
tiếng Việt trong định kiến hẹp hòi của số đông những người dân bắt đầu
mưu cầu một cơ ngơi văn hóa mới từ kinh nghiệm của sự tự thất bại.
Đến khi mọi người bắt đầu nghĩ đến Ca trù cũng là lúc
những “Giọng oanh cao khó dựng vẻ xuân tàn” như lời thơ của một quan
viên cả đời cống hiến cho sự tồn vong của Ca trù, đó chính là nhà thơ
Ngô Linh Ngọc.
Những cuộc bảo tồn hấp tấp vội vàng bắt đầu từ những
năm đầu của thế kỷ 21 đã làm cho những người yêu nghệ thuật thực sự ngán
ngẩm và thất vọng. Năm 2000, khi Sở Văn hóa – thông tin Hà Nội tổ chức
Liên hoan Ca trù Hà Nội mở rộng có nhà báo đã từng hỏi một nhà nghiên
cứu trẻ: Làm gì để bảo tồn Ca trù? Anh trả lời rằng: Ca trù bây giờ ví
như cô gái đang ốm yếu lắm rồi, phải phục thuốc cho cô ấy khỏe chứ không
nên tô son trát phấn đẩy cô ra sân khấu. Nhà nghiên cứu trẻ đó giờ đã
trở thành một quý ngài học vị Tiến sĩ và cô gái Ca trù mà anh đã thành
tâm thương khóc ngày hôm nào giờ chỉ như bột phẩm nhuộm màu mới cho dải
dây trên chiếc mũ cánh chuồn anh mặc trong ngày bảo vệ luận án. Đến năm
2006, khi Bộ Văn hóa thông tinh tổ chức Đêm Ca trù toàn quốc nằm trong
khuôn khổ công trình đưa Ca trù hội nhập với thế giới di sản quốc tế,
thì những người yêu và hiểu Ca trù lúc đó đành “lấy câu vận mệnh” để cho
“nguôi dần nhớ thương”.
Múa Bài Bông cũng không nằm ngoài sự hưng vong của Ca
trù. Rất nhiều người yêu Ca trù không hề biết đến sự tồn tại của điệu
múa bộ môn nghệ thuật này. Nhiều người chỉ biết đến cụm từ “Múa Bài Bông”
trong các sách cổ, hoặc trong bài viết, các công trình nghiên cứu của
các học giả đầu thế kỷ 20. Đến nỗi những dấu vết về điệu múa này ngoài
dân gian đã được tập thể các nhà nghiên cứu của Viện Âm Nhạc, những linh
hồn của bộ hồ sơ Ca trù đệ trình UNSCO thống nhất cho một tên gọi là
“Múa đèn vai”.
 |
 |
 |
 |
Tập dựng Bài Bông tại chùa Phúc
Khánh. |
Bắt đầu thời điểm đầu thế kỷ 20 cho đến nay, điệu múa Bài Bông diễn
chính thức trong các dịp đại lễ đúng 2 lần. Lần thứ nhất vào dịp Tứ tuần
đại khánh của vua Khải Định, dưới đây là những gì mà tác giả Đỗ Bằng
Đoàn và Đỗ Trọng Huề tả lại trong cuốn Những đại lễ vũ khúc của vua
chúa Việt Nam về lần múa này: “Rồi điệu nhạc nổi lên 64 em vừa trai
vừa gái vai mang hai chiếc đèn lồng bằng giấy hồng điều trong thắp nến,
xếp hành hàng một tiến vào như con rồng dài có ánh sáng. Múa Bài Bông
bắt đầu…Điệu múa khoan tai linh động, tiếng hát êm ái du dương, khán giả
đều khen là tuyệt kỹ”. Lần thứ hai vào năm 1945, khi mà các giáo phường
Ca trù Hà Nội tổ chức các đêm biểu diễn ở nhà Hát lớn nhằm quyên tiền
cứu đói và ủng hộ tuần lễ vàng của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Một trong những vũ sinh còn lại trong đội múa Bài Bông năm đó chính là
nghệ sĩ Ca trù Phó Thị Kim Đức đã nhớ và giữ lại được lần múa duy nhất
của mình trong đời cho đến tận bây giờ.
Năm 1980, khi nhà thơ Ngô Linh Ngọc được mời làm cố
vấn cho bộ phim Hát cửa đình Lỗ Khê do Trung tâm nghe nhìn Hà Nội ghi
hình và thu thanh tại đình Lỗ Khê - Đông Anh, có ý tưởng phục hồi lại
điệu múa Bài Bông. Nhưng do thiếu kinh phí nên đoàn làm phim do ông
Nguyễn Đăng Tuất làm đạo diễn đành gác lại và quay đắp điệu múa Bỏ Bộ do
các nghệ nhân Ca trù làng Lỗ Khê dựng lại. Tuy vậy đoàn làm phim vẫn thu
được phần nhạc của 3 bài trong điệu múa Bài Bông, phần nhạc do nghệ sĩ
Kim Đức hát.
Cuối năm 2003, Nhà thơ Ngô Linh Ngọc có đến chơi với
nghệ sĩ Kim Đức tại nhà riêng của hai người học trò của bà là anh Nguyễn
Văn Hải và chị Nguyễn Bạch Dương, món quà nhà thơ đem đến cho học trò
của nghệ sĩ Kim Đức lúc đó chính là cuộn băng Catset ghi âm phần nhạc
của múa Bài Bông mà năm xưa ông đã từng có cơ hội phục dựng lại, thứ hai
là ý tưởng thành lập một địa chỉ văn hóa Ca trù do nghệ sĩ Kim Đức phụ
trách nghệ thuật để là nơi duy nhất giới thiệu tinh hoa của bộ môn nghệ
thuật này. Hơn một tháng sau đó nhà thơ Ngô Linh Ngọc mắc bệnh hiểm
nghèo và qua đời.
Cuối năm 2006, địa chỉ văn hóa Ca trù Tràng An thành
lập, xuất phát từ chính ý tưởng của nhà thơ Ngô Linh Ngọc, tên Tràng An
là do nghệ sĩ Kim Đức đặt.
Đầu năm 2007, dựa trên sự công đức của các phật tử
chùa Yên Tử, nhóm Ca trù Tràng An đã tiến hành phục dựng lại điệu múa
Bài Bông phần vì vinh danh nghề tổ, phần vì phát nguyện công đức Phật
pháp, và cũng là “của tin gửi một chút lòng” với người quan viên đã cả
đời đau đáu cho nỗi hưng vong của nghệ thuật Ca trù.
6 tháng phục dựng một điệu múa cổ
Thực tế là năm 2004, nghệ sĩ Kim Đức đã tiến hành dạy lại cho học trò
của mình là chị Bạch Dương toàn bộ phần vũ điệu và và dạy hát, sau đó có
ghi âm và thu băng để giữ lại làm tư liệu. Đến trước tháng 6 năm 2007,
khi bắt đầu quá trình phục dựng điệu múa thì bản thân nghệ sĩ Kim Đức đã
chuẩn bị đào tạo được cho mình hai trợ giảng đều là hai học trò của bà
là chị Bạch Dương và nghệ sĩ Đoàn Thanh Bình trường Đại học Sân khấu
điện ảnh.
Khi phục dựng điệu múa Bài Bông trong tay gần như
không có phần tư liệu nào ghi chép cụ thể, các sách cổ hầu như không
thấy chép lại, hầu hết các tư liệu đầu từ đầu Thế kỷ 20 thì chỉ chỉ dừng
lại ở mức giới thiệu về điệu múa này, tất cả những dòng giới thiệu đó
không quá nửa trang giấy. Trong tay nhóm Ca trù Tràng An lúc bấy giờ có
đúng một số cuốn sách: Việt Nam Ca trù Biên Khảo; Những đại lễ và vũ
khúc của vua chúa Việt Nam (Đỗ Bằng Đoàn & Đỗ Trọng Huề); Tuyển tập thơ
Ca trù(Ngô Linh Ngọc); Một số sách và bài viết về Ca trù đầu Tk20 của
các tác giả; Một số ảnh chụp múa Bài Bông đầu Tk20 do những công chức
người Pháp đã từng làm việc ở Đông Dương chụp và quan trọng nhất là trí
nhớ tuyệt vời của nghệ sĩ Kim Đức.
Công việc phục dựng điệu múa Bài Bông của nhóm Ca trù
Tràng An dựa theo phương pháp nghệ nhân bắt tay chỉ ngón, mọi yêu cầu
của nghệ sĩ Kim Đức về mặt nghệ thuật đều được các 24 vũ sinh là các em
bé lấy từ con em Phật tử trong chùa đáp ứng đầy đủ.
Tháng đầu học, một số em bé lúc đầu chưa hiểu gì khi
cho đi học nghe đến điệu múa cổ thì ngượng ngiụ sợ sệt; đến tháng thứ 2
có những ngày mưa to chính những em đó đã trốn nhà thuê xe ôm đến chùa
Phúc Khánh để học, tháng thứ 3 hầu hết 20 vũ sinh đầu tiên của đội múa
Bài Bông đã vỡ xong cả bài múa. Hôm múa thử lần đầu tiên tại tư gia nhà
chị Bạch Dương học trò của nghệ sĩ Kim Đức tại khu vực hồ Đải Lải trước
sự quan sát của một số nhà báo, các em đều căng thẳng nhưng kết quả của
lần múa thử đầu tiên khá thành công. Trong số các khách mời hôm đó có
nhà văn Ngô Văn Giá, ông bảo với chúng tôi: “Điệu múa này đủ tư cách đối
thoại với quốc tế”.
Sau ba tháng đầu nhóm Ca trù Tràng An bắt đầu công
việc phục dựng trang phục của điệu múa Bài Bông, ngược hẳn với sự lạc
quan của một số người tổ chức đội múa, công việc phục dựng trang phục
khó hơn rất nhiều so với phần vũ đạo. Nhóm Ca trù Tràng An phục dựng
phần trang phục hoàn toàn dựa trên trí nhớ của nghệ sĩ Kim Đức vào thời
điểm đó bà đã ngoài 76 tuổi. Trang phục múa Bài Bông không giống như các
trang phục múa cung đình khác đã được dựa trên một số quy ước chuẩn về
mặt hoa văn, đường nét, khối hình mà ở mỗi giáo phường có mỗi kiểu dáng
trang phục khác nhau. Theo yêu cầu của nghệ sĩ Kim Đức, nhóm Ca trù
Tràng An đã phục dựng đúng bộ trang phục mà bà đã mặc vào biểu diễn tại
nhà hát lớn Hà Nội và năm 1945, tức là bộ trang phục của giáo phường
Khâm Thiên cũ.
 |
|
Quá trình phục dựng riêng khâu vẽ lại trang phục theo trí nhớ của
nghệ sĩ Kim Đức thay đổi 2 họa sĩ trải qua nhiều lần vẽ khác nhau, đến
bản vẽ cuối cùng gần với tinh thần của trang phục ngày xưa nhất, khi đem
đi gia công phải mất thêm 4 lần thay đổi, có những lần trang phục may
xong rồi chưa đúng phải bỏ đi làm lại từ đầu.
Riêng phần mũ Bài Bông đã có 5 chi tiết phải gia công,
phần lớn những chi tiết đó đem đặt ở các tiệm may không nơi nào nhận làm,
cuối cùng các khâu đòi hỏi sự tỉ mẩn nhất như đính cườm, may mũ, làm quả
bông…vv.v toàn bộ nhóm Tràng An và một số thành viên lớn trong đội múa
trực tiếp làm. Suốt hai tuần liền tại địa chỉ 973 đường Hồng Hà, địa chỉ
văn hóa Ca trù Tràng An như một xưởng may, người đính cườm, người làm
quả bông, người thêu vảy rồng… bản thân chị Bạch Dương có hôm nghỉ việc
cơ quan để ở nhà… làm quả bông.
Sau 2 tháng cả nhóm Ca trù và đội múa cùng chung sức
phục dựng điệu múa những bộ trang phục đầu tiên hoàn thành trước ngày
giỗ vua Trần Nhân Tông tức là buổi diễn báo cáo đầu tiên chỉ gần một
tuần.
Phục dựng múa Bài Bông và một số điều so sánh
Phục dựng điệu múa cổ Bài Bông là kết quả của sự truyền dạy dựa trên
trí nhớ của nghệ sĩ Kim Đức, tuy nhiên chúng tôi vẫn đặt ra câu hỏi liệu
điệu múa Bài Bông mà nhóm Tràng An vừa phục dựng được có khác gì so với
điệu múa Bài Bông khi xưa hay không? Câu hỏi này luôn làm những người tổ
chức lớp học băn khoăn.
Trong khi đó tư liệu có về Bài Bông quá ít để có thể
giúp cho những người đứng ra bảo tồn có một cái nhìn chính xác và đầy đủ
được về điệu múa này. Nhưng dựa trên nguồn tư liệu văn bản và hình ảnh
chúng tôi có, vẫn có thể đưa ra một số kiến giải giúp đi đến một kết
luận thống nhất.
Thứ nhất là về trang phục: Trong tay chúng tôi có 4
tấm ảnh chụp các đội múa Bài Bông ngày xưa, ảnh do người Pháp chụp đầu
tk20. Nếu như đem ra so sánh thì bộ trang phục Bài Bông hiện giờ khác so
với ngày trước. Nhưng qua 4 bức ảnh chúng tôi có một nhận xét: Về mặt
trang phục với 3 đội múa khác nhau có 3 kiểu trang phục khác nhau. Hai
tấm ảnh của bác sĩ Charles-Edouard Hocquard chụp vào đầu thế kỷ XX chụp
tại Nam Định thì các vũ sinh mặc áo tứ thân bình thường đầu đội khăn vấn,
vai đeo đèn vuông.
Tấm ảnh thứ hai không có tác giả thì các vũ sinh lại
trong mặc áo dài, ngoài mặc áo mã tiền tay cầm quạt, đâu đội mũ hoa sen
gắn quả bông; Tấm ảnh thứ ba chụp đoàn ca công Thanh Hóa, các vũ sinh có
mặc áo dài ở trong, ngoài mặc áo nậu, tay cầm quạt, đầu đội mũ (không rõ)
nhưng có gắn quả bông. Trong bốn tấm ảnh có tấm ảnh đoàn ca công Thanh
Hóa diễn múa Bài Bông trong dịp Tứ tuần đại khánh của vua Khải Định làm
chúng tôi quan tâm nhất vì: Theo lời kể của nghệ sĩ Kim Đức có học được
điệu múa Bài Bông từ bà cô là cụ Phó Thị Yến, cụ Phó Thị Yến trước theo
học Ca trù ở Thanh Hóa sau lấy ông Trưởng Bảy bên ấp Thái Hà nên mọi
người vẫn hay gọi là bà cụ Trưởng Bảy, nếu cụ Phó thị Yến gốc Ca trù
Thanh Hóa thì chắc chắn điệu múa Bài Bông mà cụ dạy lại cho con cháu sẽ
mang màu sắc của múa Bài Bông trong Thanh Hóa; thêm vào đó Những gì mà
tác giả Đỗ Bằng Đoàn & Đỗ Trọng Huề tả lại về điệu múa Bài Bông múa
trong dịp Tứ Tuần đại khánh của vua Khải Định làm cho chúng tôi với được
một cái “phao” chắc chắn hơn để bám vào.
Với tấm ảnh chụp đoàn Ca công Thanh Hóa tuy qua lớp
mầu trắng đen chúng tôi vẫn phát hiện ra một số chi tiết: Đoàn Ca công
Thanh Hóa có mặc áo dài ở trong và một cái áo nậu bên ngoài, áo nậu cổ
tròn xẻ giữa, hai viền cánh áo có đính mặt gương, trong thêu hoa văn ngũ
phúc chúc thọ, năm con dơi ngậm một chữ thọ. Đầu có thể đội mũ hoa sen
kết quả bông.
Trong khi đó theo lời tả về trang phục của đội múa
Bài Bông là đầu đội nửa khăn vấn nửa sau buộc dây, trên có thêu rồng
chầu một cái mặt gương bằng đồng xu đính ở giữa tượng trưng cho mặt
nguyệt, trên có gắn quả bông, tóc đằng sau búi và có một cái mũ chụp cài
trâm thẳng đứng, trên trán có buộc tấm vải có xâu cườm. Vũ sinh đi bít
tất trắng trong mặc áo dài trắng, ngoài mặc áo nậu, cổ vuông hai cánh có
viền nẹp để đính mặt gương, áo có hai mầu một màu đỏ, một màu xanh, ngày
xưa áo nậu may bằng vải sa_tanh cứng, vẫn quen gọi là “sa_tanh xúp”.
Qua những gì nghệ sĩ Kim Đức tả và phục dựng lại thì
trang phục của giáo phường Khâm Thiên xưa có nhiều chi tiết giống so với
bức ảnh chụp lại của đoàn ca công Thanh Hóa về chiếc áo nậu có gắn mặt
gương ở hai bên viền áo. Trong khi đó ở chiếc mũ ta vẫn thấy có chi tiết
giống so với bức ảnh hai bức ảnh của đoàn ca công Nam Định khi chiếc mũ
của giáo phường Khâm Thiên cách điệu chiếc khăn vấn ngày xưa thành một
nửa khăn và một nửa buộc dây, trên đó có thêu hoa văn rồng chầu
Về chiếc đèn đeo vai, đa số ta thấy các bức ảnh chụp
chiếc đèn đeo vai đều là đèn vuông trong đó gắn cành hoa đào như hình
một chiếc giỏ hoa, trong thắp nến (Điệu múa Bài Bông còn có tên là múa
Trận hoa), nhưng chiếc đèn đeo vai sau khi phục dựng có hình bông hoa
sen; trong bức ảnh của đoàn ca công Thanh Hóa ta không thấy họ có đeo
đèn.
Tháng 10 năm 2007, trong quá trình phục dựng điệu múa
Bài Bông chúng tôi có vào Huế để phục dựng tiếp điệu múa Lục cúng hoa
đăng theo yêu cầu của nhà chùa Yên Tử, trong chuyến đi đó, chúng tôi có
đặt một số đèn hoa sen thử nghiệm làm chiếc đèn đeo trên vai vì theo như
lời tả của nghệ sĩ Kim Đức, chiếc đén đeo vai của múa Bài Bông gần giống
với đèn hoa đăng của múa Lục Cúng, nhưng khác ở một chỗ là nó chỉ có 5
cánh trong đó đèn Lục Cúng là sen 10 cánh.
Trong Huế, chúng tôi có gặp nghệ sĩ Thanh Tâm, sau
này bà chính là người giúp chúng tôi trong việc phục dựng một số động
tác nguyên thủy của điệu múa Lục Cúng khi xưa. Bà cho biết trong biên
chế các điệu múa cung đình thì cũng có điệu múa cũng phải đeo đèn hoa
sen trên vai, khi tôi đưa mẫu đèn Bài Bông cho bà, bà bảo chính xác là
đèn này. Điệu múa đó như thế nào ở phần sau chúng tôi sẽ nói kỹ hơn. Khi
tôi ra Hà Nội đưa lại mẫu đèn cho nghệ sĩ Kim Đức, bà cũng thừa nhận đó
chính là đèn múa Bài Bông. Như vậy chúng tôi có thể yên tâm rằng đèn múa
Bài Bông do nhóm Ca trù Tràng An phục dựng lại vẫn mang dấu vết của điệu
múa cổ.
Thứ hai về phần động tác: Rất may mắn cho chúng tôi,
trong cuốn Những đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam có tả lại đôi
dòng để cho chúng tôi có thể hình dung và so sánh được với điệu múa phục
dựng. Trong sách có viết: “Chia làm 8 hàng, theo điệu nhạc, vũ sinh
quỳ xuống đứng lên rất nhịp nhàng, đèn lồng ở trên vai cũng lúc lên lúc
xuống theo nhịp với tiếng trống, sáo, nhị và thanh la. Hai cánh tay
chúng dang thẳng ra, hai bàn tay dựng đứng lên với khuỷu tay thành một
góc vuông. Chúng múa theo hàng ngũ, khi thì hàng nọ sát cạnh hàng kia,
khi thì hàng nọ đi xuyên qua hàng kia, khi lộn ngược lại, khi xoay vòng
tròn… điệu múa biến đổi thiên hình vạn trạng, vừa múa vừa hát…”
Những gì mà hai học giả tả lại nếu đem so với những
động tác trong điệu múa Bài Bông mà nghệ sĩ Kim Đức phục dựng lại hoàn
toàn không có gì khác. Chúng ta sẽ xem những hinh ảnh minh họa mà chúng
tôi đã nhờ anh Lê Anh Dũng chụp lại từ giai đoạn phục dựng đến biểu diễn
ở chùm ảnh dưới đây để có thể có một so sánh chuẩn với những gì hai học
giả Đỗ Bằng Đoàn & Đỗ Trọng Huề tả lại.
Vấn đề lịch sử của điệu múa Bài Bông
Như ở một bài viết trước chúng tôi có giới thiệu về
điệu múa Bài Bông tương truyền có từ đời Trần, nhưng trong các sách
chính sử thì chưa nhắc tới điều này. Có người phản biện với chúng tôi
nếu điệu múa Bài Bông có từ đời Trần thật thì tại sao trong một cuốn sử
rất có giá trị như An nam chí lược mà Lê Tắc cũng không thấy có nhắc tới.
Nhưng tôi cũng xin thưa lại ngay rằng cuốn Lê Tắc chạy sang hàng nhà
Nguyên từ cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2, nếu theo luận
điểm có múa Bài Bông có từ đời nhà Trần, được làm ra trong hội Thái Bình
Diên Yến của vua Trần Nhân Tông tổ chức để ăn mừng đất nước thái bình
sau lần thứ 3 đuổi quân Nguyên ra khỏi bờ cõi. Như vậy khi có điệu múa
Bài Bông thì sử gia Lê Tắc cũng không biết được để đưa và sách của mình.
Mọi vấn đề sử liệu chúng tôi có nhắc tới trong bài
viết trước nhưng cũng muốn bổ sung thêm một số kiến giải nữa trong quá
trình tìm hiểu thực địa.
Trở lại với chuyến đi Huế vào tháng 10 năm 2007, khi
trao đổi với nghệ sĩ Thanh Tâm nguyên là một vũ sinh trong đoàn Ba vũ cổ
nhạc của đức Từ Cung thành lập sau năm 1945 với nhiệm vụ lưu giữ, diễn
các điệu múa và hệ thống Nhã nhạc cung đình triều Nguyễn, chúng tôi phát
hiện một điều là bản thân trong hệ thống ba vũ cung đình có một điệu múa
khá giống múa Bông.
Điệu múa này có tên là Bông Tam Quốc, lấy tích Tam
quốc ra để múa, nghệ sĩ Thanh Tâm còn nhớ đôi chút vì bản thân ngày xưa
bà cũng đã diễn điệu múa này. Về phần lời, có thể nói 2/3 lời Bông Tam
Quốc giống Múa Bài Bông, về phần nhạc thì hoàn toàn bài Đào viên kết
nghĩa giống, dẫu vậy Bông Tam Quốc nét nhạc Tuồng trong phần nhạc vẫn rõ
hơn; phần vũ điệu tuy mới chỉ được xem bài Đào viên kết nghĩa nhưng
chúng tôi thấy bộ động tác khi so sánh hai màn với nhau thì cảm nhận đầu
tiên là giống, nhưng xem kỹ thì thấy bộ động tác trong Bông Tam Quốc là
của nghệ thuật Tuồng, động tác gọn mạnh mẽ dứt khoát, trong khi đó ở Bài
Bông phần động tác nhẹ nhàng uyển chuyển, khoai thai.
Theo sử chép lại thì Bông Tam Quốc và Bông Tây Du do
Đào Duy Từ làm ra, Đào Duy Từ là ông tổ của Ba vũ và Nhã Nhạc triều
Nguyễn. Ông vốn là con nhà đào hát ở Đằng ngoài do bấy giờ có lệ cấm con
em nhà ca kỹ không được đi thi nên ông đã trốn vào Đằng Trong theo chúa
Nguyễn dựng nghiệp. Như vậy ắt hẳn phải có một mối liên hệ nào đó giữ
điệu múa Bài Bông của Ca trù và Bông Tam Quốc của Nhã nhạc cung đình
triều Nguyễn, tự thân Đào Duy Từ không thể sáng tạo ra một khối lượng đồ
sộ các điệu múa và định ra các bản Nhã Nhạc cho triều Nguyễn mà ắt hẳn
đó phải là kết quả của sự huân tập của nhiều môn nghệ thuật khác nữa.
Như vậy đến thời nhà Lê chúng ta đã có những dấu vết
chứng tỏ có sự tồn tại của điệu múa Ca trù Bài Bông.
Một mặt khác trong khi quan sát chúng tôi cũng phát
hiện ra ở riêng múa Bài Bông có những động tác ảnh hưởng múa Chàm khá
đậm nét, mà chúng ta biết dưới thời Trần sự giao lưu văn hóa giữa vương
triều nhà Trần với quốc gia Chiêm Thành khá đâm đặc mà minh chứng tiêu
biểu nhất vẫn là cuộc hôn phối chính trị giữa công chúa Huyền Trân với
vua Chiêm Chế Mân để nước ta có được mảnh đất châu Ô, Lý.
Tuy vậy múa Bài Bông có phải từ đời Trần hay không
còn phải một thời gian dài nữa với những phân tích cẩn thận và cụ thể
chúng ta mới có thể chứng minh được.
Nhưng gạt bỏ qua quy phạm nghiêm ngặt về niên đại,
thời gian, thì cái còn lại vẫn là tính nghệ thuật trong điệu múa Bài
Bông mà nghệ sĩ Kim Đức cùng với những thành viên của địa chỉ văn hóa Ca
trù Tràng An với chị Bạch Dương, nghệ sĩ Thanh Bình, nghệ sĩ Công Hưng,
anh Ngọc, anh Hải đội múa Bài Bông cộng với sự động viên và khích lệ của
những nhà sư tu hành chùa Yên Tử làm được để cúng dường tổ Trần Nhân
Tông, cũng là để tri âm với những người muôn năm cũ đã sống và cống hiến
cho văn hóa của dân tộc.
Múa Bài Bông được phục dựng vẫn xứng đáng là“Nhã
nhạc đế vương thịnh điển nhất trong nhạc giới”. Tôi chắc chắn rằng
trong ước mơ của thành viên của những người đứng ra bảo tồn một điệu múa
cổ độc đáo này Bài Bông sẽ không chỉ diễn trong lễ hội Yên Tử mà ở mỗi
dịp đại lễ lớn của dân tộc những tiếng hát, điệu múa chúc tụng đất nước
thanh bình, cầu mong quốc thái dân an lại cất lên sống lại không khí của
những mùa xuân an lạc.
|