Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
  Thú chơi bài cḥi 
 
Bài cḥi là một tṛ chơi truyền thống rất quen thuộc và phổ biến trong những ngày đầu xuân ở các tỉnh miền Trung Trung bộ, từ Thừa Thiên - Huế đến B́nh Định.
Người ta chọn khu đất cao ráo, mát mẻ và bằng phẳng, thường là sân đ́nh, sân miếu để dựng hai dăy cḥi lá đối diện nhau. Mỗi dăy có bốn cḥi. Mái lợp lá, trụ cột bằng thân tre dài, vuông vức, mỗi cạnh chừng vài mét. Sạp lót ván hay lót khịa đan bằng cật tre già có trải chiếu, cách mặt đất chừng vài mét. Người chơi bài cḥi thường kéo theo cả gia đ́nh hay bạn bè cùng ngồi cho vui. Riêng một cḥi ở giữa có vẻ cao ráo và bề thế gọi là cḥi cái. Tất cả chín cḥi liền nhau theo h́nh chữ U. Giữa hai dăy cḥi là lối đi rộng khoảng năm sáu mét. Đối diện với cḥi cái là nơi làm việc của ban trị sự, có kê bộ phản ngựa, trải chiếu hoa, trên để sổ sách, trà nước, khay đựng vật dụng mang đến thưởng cho những người trúng bài. Kế bên là ban nhạc giúp vui hoặc đánh nhịp cho chú hiệu khi hô bài. Ngoài ra c̣n có trống chầu, trống cơm và phèng la...
Người chơi bài cḥi phải mua cḥi. Có tất cả 9 cḥi chia làm 9 phần tiền, nhưng khi phát thưởng chỉ phát có tám phần, c̣n một phần giữ lại để ban trị sự chi dụng gọi là "tiền xâu".
Bài cḥi dùng bài tam cúc, có tất cả 30 cặp bài. Người ta dùng 9 cḥi mỗi cḥi có 3 lá (9x3=27), vậy có thể tùy nghi bớt ra 3 cặp. Tên bài có thể là tên gọi nửa Hán nửa Việt, như thuộc pho sách có: Nhất nọc, nh́ nghèo, ba gà, tứ tượng, sáu tiền, bảy thưa, tám dây, cửu điền, năm dây; thuộc pho vạn có: Nhất tṛ, nh́ bí, tam quăng, ngũ trợt, lục chạng, bảy dây, bát bồng, cửu chùa, tứ giống; thuộc pho văn có: Chín gối, nh́ bánh, ba bụng, tứ cẳng, ngũ rún, sáu miệng, tám tiền, đổ ruột, bảy liều. Và c̣n ba tên nữa là: Thế tử, bạch huê và ông ầm. Mỗi quân bài được viết trên mỗi thẻ tre có bề rộng bằng hai ngón tay và bề dài chừng vài tấc. Bộ bài có 27 cặp, chia làm 2, một nửa số bài cho vào chiếc ống tre tra vào trụ gỗ chôn ở giữa sân khấu cao vừa tầm người, và một nửa th́ đem chia đều cho 9 cḥi, mỗi cḥi 3 thẻ. Chú hiệu thường là một thanh niên có giọng tốt, nhanh nhẹn, biết hô các làn điệu dân ca như vè, ḥ, hát bội và có tài giễu cợt để giúp vui. Mỗi cḥi có phát một chiếc mơ tre, riêng cḥi cái th́ phát chiếc trống cơm. Khi đă đủ người chơi, kèn trống bắt đầu nổi lên ầm ĩ. Chủ hiệu bưng khay đựng quân bài lần lượt đến từng cḥi cho khách bốc đủ 3 thẻ. Xong, anh hô hiệu: "Hai bên cḥi lẳng lặng mà nghe, róc rách ống tre, con ǵ lại ra..." rồi xướng lên một quân bài ngay, hoặc ca lên một bài có liên hệ rồi hô tên sau. Chẳng hạn chú rút thẻ bài "nhất tṛ", th́ hô:
Đi đâu mang sách đi hoài
Cử nhân chẳng đậu tú tài cũng không
Bớ ... bớ... Nhất tṛ! 
Một khi có cḥi nào trúng con bài "nhất tṛ" th́ gơ lên 3 tiếng mơ cốc, cốc, cốc hay 3 tiếng trống cơm tum, tum, tum. Chú hiệu liền chạy đến trao cho cḥi thẻ bài ấy. Đoạn chú hiệu đưa tay lắc lắc chiếc ống, rút thẻ bài rồi hô tiếp:
Vai mang túi bạc kè kè,

Nói quấy, nói quá người nghe rầm rầm

Bớ... bớ... Ông Ầm

Hoặc

Sông sâu anh bắc cầu khum

Em đi cho khéo kẻo ngă ùm xuống sông

Bớ... Ông Ầm

Cḥi nào có con bài "Ông Ầm" th́ gơ mơ, gơ trống để báo hiệu. Nhiều câu nghe phải tức cười, như:

Chồng nằm chính giữa

Hai vợ hai bên

Lấy chiếu đắp lên

Cũng là ba bụng

(Ba bụng)

Hay:

Tiếc công bỏ cú nuôi cu

Cu ăn cu lớn cu gù cu bay

Cu say mũ cả áo dài

Cu chê nhà dột phụ hoài duyên em!

(Chín cu)

Khi cḥi nào trúng đủ 3 con bài trong thẻ là bài đă tới, cḥi đó phải hồi trống hay hồi mơ. Chú hiệu chạy đi các cḥi thu hồi thẻ bài, sau đó bưng đến cḥi trúng thưởng chiếc khay đựng tiền và lá cờ đuôi nheo màu xanh xanh, đỏ đỏ. Để chơi ván khác, chú hiệu tiếp tục phát thẻ cho các cḥi. Cứ thế mà cuộc chơi luôn luôn hào hứng, sôi nổi cho đến ván thứ chín mới măn. Sau chín ván, cḥi nào cắm nhiều lá cờ đuôi nheo trên nóc cḥi th́ cḥi đó lấy làm hănh diện lắm!

Chơi bài cḥi là tṛ chơi tao giải trí tao nhă, vui vẻ và hào hứng trong ngày tết. Đó là những điểm vui xuân thu hút đủ mọi lớp tuổi. Từ lối chơi bài cḥi trên đây, dần dà phát triển thành lối hô bài cḥi hay hát bài cḥi, một thể loại dân ca rất phổ biến ở miền Trung Trung bộ

5/9/ 2004
. Theo Thế giới trong ta

Bài cḥi được khôi phục tại Hội An

KIM EM

TTO - Đă thành lệ, cứ đến tối thứ bảy hàng tuần, đông đảo người dân đủ mọi lứa tuổi từ Đà Nẵng, Điện Bàn, Duy Xuyên đến Cù lao Chàm...lại vượt hàng chục cây số về tập trung bên bùng binh An Hội ở đầu đường Nguyễn Thái Học (khu phố cổ Hội An) để chơi bài cḥi. 

 

Ḥ Bài Cḥi

Mới hơn ba giờ chiều thứ bảy, cụ bà Bùi Thị Mại - 75 tuổi (trú tại phường An Hải Tây , TP Đà Nẵng) lại giục con cháu đưa bà ra bến xe buưt để về Hội An chơi bài cḥi. Cùng đi chuyến xe với cụ Mại chiều hôm ấy c̣n có một nhóm học sinh lớp 10/3 trường PTTH chuyên Lê Quư Đôn- Đà Nẵng. Họ cũng là những thành viên tích cực của hội bài cḥi. Cụ Mại cho hay, hơn ba năm qua không bao giờ cụ vắng mặt vào các tối mà Hội An có tổ chức chơi bài cḥi. 

Nếu ai đă từng chơi bài cḥi th́ sẽ biết v́ sao cả người già lần trẻ đều mê tṛ chơi này. Cái không khí rộn ràng khi tiếng trống chầu khua vang mỗi khi có ai đó được bài cùng với những lời ca , ḥ vè mang đậm bản sắc của vùng đất quê nhà do anh Hiệu - người hô bài trong mỗi hội chơi như có mănh lực kéo mọi người đến với hội. 

Bài cḥi - sở dĩ có tên gọi như vậy v́ người chơi ngồi trên cḥi. Thường th́ trên một khoảnh đất rộng, hoặc sân đ́nh, sân chợ, người ta cất 9 cḥi  theo cạnh h́nh chữ nhật. Trên 2 cạnh dài, mỗi bên dựng 4 cḥi con đối mặt nhau. Chính giữa một cạnh ngắn là cḥi cái, dành cho  những người có địa vị trong làng đến tham gia hội bài cḥi. Cạnh ngắn kia  đặt một trống chầu, cùng một chiếc bàn lớn đặt khay tiền và những lá cờ hiệu, cạnh đó là chỗ ngồi cuả dàn nhạc. 

Tại đây, trồng một cây tre, trên đó treo những ống tre lủng lẳng để đựng những thẻ quân bài. Đây là một tṛ chơi đánh bài nhưng không hề mang tính cờ bạc đỏ đen, mà lại nghiêng về nghệ thuật hô diễn, ngày xưa thường được tổ chức trong dịp tết cổ truyền, từ mồng một đến mồng 7 tháng giêng ở các vùng nông thôn Nam Trung bộ. 

Bài cḥi là tṛ chơi dân gian lành mạnh và có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với công chúng. Một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn này là tài năng của anh hiệu. Anh hiệu phải là người có giọng tốt, nắm vững lề lối hô và diễn, có vốn liếng về thơ ca, có khả năng sáng tác và cải biến nhanh lời hát tại chỗ. 

Hội An không phải là cái nôi của bài cḥi. Loại h́nh này ra đời B́nh Định nhưng lại phát triển mạnh ở Quảng Nam. Và đặc biệt hiện nay, trong khi tṛ chơi bài cḥi đă vắng bóng ở nhiều vùng nông thôn Nam Trung bộ, và làn điệu dân ca Bài Cḥi hầu như chỉ c̣n trên sân khấu của 3 đoàn ca kịch Khánh Hoà, B́nh Định, Quảng Nam, th́ tại Hội An, người dân lại được chơi, được nghe hát bài cḥi. 

Bài và ảnh: KIM EM
Source : tuoi tre online

Tṛ chơi bài cḥi hay tiếng gọi của làng quê

Túc Hạnh

(VietNamNet) - Bài cḥi là một loại h́nh nghệ thuật dân gian truyền thống đặc sắc của miền Trung nói chung, Quảng Nam nói riêng. Vào mỗi dịp lễ Tết, ở vùng nông thôn rất phổ biến tṛ chơi này. Ban đầu, tṛ chơi chỉ mang tính chất gia đ́nh, về sau, cứ mỗi độ xuân về, người ta dựng những cḥi cao trên băi đất trống thu hút  khách thập phương đến tham gia...

 
Ngày Tết, người đi xa vừa về đến đầu thôn đă nghe tiếng hô bài cḥi giục giă. Những cḥi lợp mái rạ ngày mùa c̣n thơm hương nếp, những cây cờ con ngũ sắc trên bàn cái rồi tiếng hô, tiếng mơ vang dậy một góc làng như thúc giục các cụ, các bà, các em nhỏ đến xin những con bài thử vận đầu năm.
 
Có thể nói đă là người miền Trung th́ đều biết chơi bài cḥi. Hát bài cḥi từ lâu đă trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân nông thôn miền Trung. Người ta sáng tác những câu ḥ, làn điệu dân ca... trong quá tŕnh chơi. Văn chương bài cḥi là văn chương b́nh dân, nhưng nghe kỹ vẫn thấy chất thơ lai láng. Bộ bài chơi gồm 30 con bài in mộc bản theo lối thủ công, được dán trên những thanh tre vót mỏng. Người quản tṛ được gọi là "ông hô hiệu", là người có kiến thức văn chương, có tài ứng đối dí dỏm, có thể độc diễn với tiếng trống, tiếng đàn c̣, tiếng phèng la... Khi con bài được rút ra, ông hiệu bắt đầu chạy lăng xăng, miệng không ngớt xướng to những câu thơ, câu vè ghép với tên những con bài ngộ nghĩnh, khiến người lớn lẫn đám trẻ con cười ngặt nghẽo. Tuỳ theo mỗi địa phương mà tên gọi các con bài khác nhau từ nhất tṛ, nh́ nghèo, ba bụng, tứ giống, tám tiền, chín xe... cho đến sưa, dóng, xơ, quăng, ầm, voi, rún...
 

Người chơi có thể mua một hoặc nhiều thẻ cho mỗi lần chơi. Ông hô hiệu xáo thẻ trong ống lon rồi rút một thẻ bất kỳ. Mỗi đợt chơi đều có người trúng. Người chơi khi nghe hô trúng con bài của ḿnh th́ đáp to, lập tức sẽ được trao một chiếc cờ nhỏ màu đỏ. Sau đó, cuộc chơi tiếp tục cho đến khi có người trúng đủ ba con bài trong cùng một thẻ. Giải thưởng được trao bằng tiền mặt, chỉ độ vài ba chục ngh́n đồng nhưng niềm vui th́ thật lớn; mà người không trúng cũng vui! 

Người chơi sành bài cḥi chỉ cần nghe câu hô đầu tiên là có thể đoán ra con bài, ví như: "Chồng nằm chính giữa - hai vợ hai bên - lấy chiếu đắp lên - gọi là ba bụng - ơ con  ba bụng!", "Đi đâu mang sách đi hoài - Cử nhân không đậu, Tú tài cũng không - con nhất tṛ nó vừa ra xong"  hay như "Hai bên cḥi lẳng lặng mà nghe - róc rách ống tre con ǵ nó ra đây? - anh trai Kim Bồng đi bán chiếu tre - gặp em gái nhỏ bên sông Thu Bồn -  thương ai ḷng thấy bồn chồn - đêm nằm thao thức chiếu bông anh gối đầu - con chín gối nó ra rồi"...

Đánh bài cḥi là một tṛ chơi giải trí mang tính văn chương b́nh dân. Cái thú của bài cḥi không nằm ở ăn thua đỏ đen mà chủ yếu là vui đầu năm cùng bà con làng xă. Điệu hát bài cḥi khẳng khái, rắn rỏi cũng v́ thế trở thành máu thịt trong ḷng người miền Trung xa xứ, gợi nhớ đến nao ḷng...

    Túc Hạnh
    19/01/2004 
    Source: VietNamNet

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17