Tự
thuở hồng hoang, loài người đã tìm cách lưu lại
sinh hoạt bằng ngôn ngữ tạo hình, qua
những nét vẽ hoặc khắc trên vách đá hang động,
thân cây, tảng đá, tấm gỗ, thanh tre ... rồi
tiến dần văn minh, đẽo gỗ, khắc phù điêu, tạc
bia mộ, vẽ tranh, đúc gạch ngói, đúc tượng, đúc
trống đồng ...
Đồng thời với hình tượng ngôn ngữ tạo hình,
tiếng nói được lưu truyền bằng văn học dân gian
với truyện kể và thi ca liên hệ đến sinh hoạt xã
hội và lịch sử, và sau đó được thể hiện bằng chữ
viết để diễn đạt tư tưởng, phổ biến hiểu biết,
mở rộng và nối kết liên lạc khắp toàn cầu. Từ
ngôn ngữ tạo hình khắc vẽ đi đến chữ viết là cả
một thời gian dài bốn mươi lăm nghìn năm!
Theo đà tiến hóa, con người phát triển những
ngành nghệ thuật, và thời trang là tiếng nói
thầm lặng của mỗi địa phương, mỗi dân tộc. Kể
từ khi biết che thân, loài người đã tìm cách làm
đẹp với những vật dụng thô sơ như lá cây, vỏ cây,
da thú, lông chim, và sau đó tìm cách ngâm lá
ngâm vỏ và thân cây như cây gai cây đay, cán
bông vải, lấy sợi đan hay kết lại, rồi tìm ra tơ
tằm dệt gấm lụa, tiến đến kỹ thuật chế biến tơ
sợi hóa học... và sáng tạo nhiều kiểu may mặc.
zzzzz
Áp chui đầu và váy sợi vỏ cây, đầu thời đồ đồng.
Bảo tàng viện Copenhahue, Denmark
Tự thuở nào, y phục cũng như chữ viết - những
nét văn hóa của một dân tộc - trở thành biểu
tượng quốc gia. Và tự thuở nào, y phục biến đổi
trở thành thời trang từng miền, từng địa phương,
giao thoa, pha trộn, gạn lọc, nhưng vẫn giữ nét
riêng trong tổng thể thế giới để không bị đồng
hóa hay mai một.
Thời trang ngày nay là thị trường lớn của thế
giới. Thời trang là đề tài học hỏi của sinh
viên, từ Royal Academy ở London đến Viện Kỹ
thuật Thời trang Fashion Institute of Technology
New York, nơi nhà tạo mẫu Calvin Klein tốt
nghiệp và nổi danh với thương hiệu CK; và từ
Metropolitan Museum ở New York với Costume
Institute, đến Victoria và Albert Museum ở
London. Ngay từ tháng 4 năm nay 2008 và còn
tiếp diễn cho đến giữa tháng 7, đang có triển
lãm tại Bảo tàng viện Boston's Museum of Fine
Arts, qua tranh của hai họa sĩ Tây Ban Nha El
Greco và Valazquez, về thời trang thế kỷ XXI và
XVII.
Thời trang Việt Nam lần đầu tiên được trưng bày
suốt ba tháng liền tại Wing Luke Museum Seattle,
tiểu bang Washington, Hoa Kỳ, với những bộ áo
dài và khăn quàng lụa vẽ Art onSilk của Trần thị Lai Hồng, từ tháng 9 năm 1992.
Mới đây, tháng 4 năm 2006, một số áo mệnh phụ
triều Nguyễn thế kỷ XX được nghệ sĩ Trịnh Bách
phục chế, trưng bày cùng một số áo dài gọi là
"cách điệu" của các nhà thiết kế Lê Sĩ Hoàng,
Đặng thị Minh Hạnh, Lê Minh Khoa, Lê Phương Thảo
và Monica Trần tại Viện Bảo tàng San José Museum
of Quilts & Textiles, California.
Thời trang Việt Nam ngày nay rộ nở huy hoàng từ
trong nước ra hải ngoại. Không thiếu những buổi
trình diễn, nhan nhản từ thôn quê quan họ Bắc
Ninh hay vùng Đồng Tháp, Huế Sàigòn Hà Nội, và
khắp nơi nào có bóng dáng người Việt.
Tuy nhiên, qua thời gian, sự diễn đạt có khi đi
lạc, nhất là khi dựng lại những nhân vật lịch
sử, có thể vô tình, không đặt đúng vị trí không
gian và thời gian xuất phát.
Mẹ Âu Cơ bốn nghìn năm trước, thời huyền sử,
không thể dùng thời trang áo váy tứ thân thế kỷ
XIV - XV hay áo ngũ thân quần hai ống thế kỷ
XVIII. Hai Bà Trưng đầu thế kỷ thứ nhất không
thể mặc quần mang boots mang bao tay và đội khăn
vành Hoàng hậu Nam Phương. Công chúa Huyền Trân
của triều đình Nhà Trần thế kỷ XIV không thể
dùng thời trang triều Nguyễn thế kỷ XIX- XX.
VÁY hay QUẦN???
Những
dẫn nhập dài dòng không phải vô tình mà có ý,
khi nhắc nhở những nhân vật lịch sử.
Người Việt Nam ai cũng nhớ công đức Hai Bà
Trưng, hai vị phụ nữ đầu tiên trong lịch sử đã
đứng lên hô hào tập hợp binh mã chống lại và
đánh đuổi bọn thống trị Đông Hán, dành lại
độclập. Hằng năm đến ngày giỗ Hai Bà, mồng 6
tháng 2 âm lịch, dân chúng trong cũng như ngoài
nước đều long trọng tổ chức tưởng niệm. Có tế
lễ, có diễn hành xe hoa, có đại nhạc hội, có họp
bạn, và tất nhiên có trình diễn hình ảnh Hai Bà.
Trong nước, Hai Bà cỡi voi thật đi diễn hành.
Ngoài nước thì dựng bàn thờ, có tranh vẽ Hai Bà
rất trang trọng. Cả trong và ngoài nước đều có
thiếu nữ công dung ngôn hạnh đóng vai Hai Bà, áo
quần rực rỡ, huy hoàng lọng tía tàng vàng.
Vấn đề nêu ra, là trang phục của Hai Bà Trưng.
Tuy sử sách ta cũng như Tàu không hình ảnh để
lại, nhưng đều ghi rõ cuộc kháng chiến của Hai
Bà Trưng, hai vị nữ anh hùng đầu tiên của dân
tộc. Hai Bà khởi nghĩa vào năm 39 thế kỷ thứ
nhất sau Tây lịch, đánh đuổi Thái thú Tô Định,
dành lại độc lập cho quê hương. Cả hai cùng lên
ngôi vua, lấy hiệu Trưng Nữ Vương, trị vì từ năm
40 đến năm 43, thì bị Nhà Hán bên Tàu cử lão
tướng Mã Viện sang đánh bại.
Thời điểm thế kỷ thứ nhất, trên tất cả
thế giới, từ Tây sang Đông, đàn ông cũngnhư
đàn bà đều mặc váy, vì chưa phát minh ra chiếc
quần. Mãi đến thế kỷ thứ ba sau Thiên Chúa
loài người mới sáng chế chiếc quần, và chỉ dân
vùng đồng hoang cỏ dại cỡi ngựa chăn nuôi săn
bắn mới dùng. Khi xuất hiện dưới thời Gaulois
bên Pháp, quần chỉ phổ biến trong giới bình
dân. Chiếc quần qua Cổ Ba Tư vào thế kỷ thứ VI,
lan sang Hy Lạp, La Mã, qua Trung Á, lên Mông
Cổ, Mãn Châu, xuống Tàu vào thế kỷ XVII rồi vào
Việt Nam. Phụ nữ Việt Nam vẫn mặc xống/ váy,
nên có cụm từ áo xống đặc biệt ở Đàng
Ngoài, cho đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh thế
kỷ XVIII, đàn bà Đàng Trong mới bắt đầu bỏ chiếc
váy để mặc quần cùng áo dài, dưới thời Chúa
Nguyễn Phúc Khoát, và cụm từ áo quần xuất
phát vào thời điểm này.
Khăn đội đầu, áo khoác, váy, giày nam chiến sĩ
20,000 Years of Fashion, The History of Costume
and Personal Adornment,
Francois Boucher
Cuối thế kỷ XIV, đàn ông Tây phương vẫn mặc váy
hoặc áo chùng
Ngay tại quốc gia văn minh tân tiến như nước Mỹ,
mãi tới thế kỷ XIX, đàn bà Mỹ mới bắt đầu thay
váy mặc quần, theo phong trào The Bloomer
Costume hay Bloomers, do bà Amelia
Jenks Bloomer cổ võ trên đặc san The Lily, tờ
báo nữ đầu tiên tại Mỹ, vào năm 1848. Thời điểm
này, đàn ông Anh, nhất là vùng Bắc Tweed, vẫn
còn mặc váy, có khi ngắn cũn cỡn.
Thế kỷ thứ nhất,
y phục Hai Bà Trưng tất nhiên là y phục xưa còn
rõ nét khắc trên cán dao, lưỡi rìu, tượng đồng,
và hoa văn trống đồng, gồm yếm, áo bên trong
tròng đầu hoặc xẻ phía trước, ngắn ngang hông
hoặc có hai vạt dài, áo khoác ngắn bên ngoài,
mặc váy quấn hoặc váy chui, buộc thắt lưng có
bản thòng dài che cả phía trước và phía sau, đeo
kiếm, đầu quấn khăn gắn lông chim, bông lau hoặc
tàu cau, lá cây, chân quấn xà cạp, mang dép giản
dị.
Váy hay quần??? - Xin thưa: - Váy! Hai Bà
Trưng mặc váy, vì vào thời điểm đó, thếkỷ thứ
nhất, chiếc quần chưa ra đời.
Hai Bà Trưng, tranh Võ Đình
*****
TRÁI hay PHẢI ???
Trước khi nói đến chuyện trái hay phải, xin hãy
nhận xét áo của các đấng nam nhi. Có phải áo
của quý vị mày râu vạt úp qua phải và cài nút
bên phải không? Đúng vậy !
Bây giờ, mời quý vị nhìn lại, nếu quý bà quý cô
ăn mặc theo kiểu Tây phương, chắc chắn áo quý vị
cài bên trái.
Nhưng,
xin nhấn mạnh chữ nhưng này,nhưng nếu
quý bà quý cô mặc áo dài, thì áo dài Việt Nam
của quý bà quý cô lại cài bên phải, như đàn
ông ! Áo dài cài bên phải, dấu vết nô lệ
còn sót lại sau một nghìn năm ta bị Tàu đô hộ.
Nếu có người đẹp nào mặc qi
pao/cheongsam/xường xám, tức là áo Tàu, thì
rõ ràng áo Tàu cài bên phải.
Nhìn quanh thế giới, từ Đông sang Tây, từ Nam
lên Bắc, như có một luật lệ ngầm không văn bản
không ký kết, nhưng loài người cùng tôn trọng:
đàn ông mặc áo cài bên phải, đàn bà cài qua
trái. Duy chỉ có người Tàu, đàn ông đàn bà
nhất loạt áo cài qua bênphải.
Những tài liệu tiền nhân để lại cho thấy người
Việt luôn luôn cố gắng phấn đấu, không những bảo
tồn từng tấc đất giang sơn, mà còn gìn giữ căn
bản văn hóa dân tộc, trong số, phải kể đến chiếc
áo dài phụ nữ. Sử sách ghi chép rằng người Văn
Lang xưa, tức là tổ tiên ta, mặc áo cài bên
trái. Chỉ từ khi bị người Tàu xâm chiếm đô hộ,
ta bị buộc đồng hóa, phải dùng kiểu Tàu: áo cài
bên phải.
Trong bài viết về Y Phục Người Việt Qua Các
Thời Đại, học giả Thái Văn Kiểm nhắc đến các
sách Tàu như Lễ Ký, Luận Ngữ, Xuân Thu Tả
Truyện, Hoài Nam Tử, nói về văn hóa, phong tục
tập quán các sắc dân phía Nam nước Tàu, trong số
có người Văn Lang Lạc Việt, thuộc nhóm Bách Việt
phía Nam Hồ Động Đình.
Đặc biệt sách Luận Ngữ ghi chép những nhận định
của Đức Khổng Tử, bản dịch của Đoàn Trung Còn,
và Sử Ký Tư Mã Thiên, Sử Trung Quốc, bản dịch
của học giả Nguyễn Hiến Lê, đều có nhắc lời Đức
Khổng Tử khen Quản Trọng. Sách Luận Ngữ do Đoàn
Trung Còn dịch, chương 14 về Hiến Văn, trang
222, ghi lời Đức Khổng Tử khi luận về các công
thần tài trí hơn người, đã nói " Vi QuảnTrọng
ngô kỳ bị phát tả nhậm hỉ. " Nghĩa là nếu
không có Quản Trọng thì ngày nay ta - tức là
người Tàu phương Nam, trong số có Khổng Tử quê
nước Lỗ ở phương Nam - phải cắt tóc, mặc áo cài
bên trái vậy.
Quản Trọng là ai ?
Sử Ký Tư Mã Thiên ghi Quản Trọng là Tể tướng của
Tề Hoàn Công nước Tề đời nhà Chu bên Tàu, thế kỷ
X trước Tây lịch. Thời đó dân Việt còn ở phía
Nam nước Tàu và là một trong nhóm Bách Việt.
Rất tài trí, Quản Trọng lập chính sách " Phú
quốc Cường binh, " tổ chức " ngũ gia liên binh "
giúp Tề giàu mạnh, thu phục chư hầu, chinh phục
các nước nhỏ phía Nam, coi như man-di, sửa đổi
văn hóa phong tục, cách ăn mặc, bắt . bỏ kiểu áo
cài bên trái gọi là tả nhậm, và phải theo
Tàu cài qua phải gọi là hữu nhậm.
Lời khen của Đức Khổng Tử rất quan trọng, xác
nhận các sắc dân phía Nam nước Tàu, phía Nam
sông Dương Tử - trong số có Lạc Việt - xưa mặc
áo cài qua trái nhưng bị Tàu đồng hóa buộc cài
qua phải như họ.
Thế kỷ XVIII, thời ta bị nhà Thanh đô hộ, họ còn
cấm dân ta để tóc dài, bắt phải dóc tóc bím đuôi
sam, và không cho nhuộm răng đen. Người Tàu gốc
nhà Minh không chịu theo nhà Thanh, đã di tản
sang sinh sống tại Việt nam với cao trào Phản
Thanh Phục Minh, không chịu dóc tóc thắt bím.
Việt nam cũngkhông chịu khuất phục áp
lực người Tàu, mùa Xuân năm Kỷ Dậu 1789, Vua
Quang Trung Nguyễn Huệ xuất quân ra Bắc quyết
đánh đuổi quân xâm lược. Đêm ba mươi Tết,
mặc tối đen âm thầm, mặc quân nhà Thanh ăn Tết,
quân Nam tiến băng rừng tràn ra sa trường ...Bài
hịch xuất quân chữ nôm của Vua Quang Trung nhấn
mạnh:
Đánh để cho dài tóc/ đánh để cho răng đen
Đánh để cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ
...
Mặc dầu qua thời gian, việc cắt tóc ngắn và để
răng trắng là những tiện nghi hữu ích, và là nét
văn hóa chung cả toàn thế giới, nhưng tinh thần
bất khuất của Vua Quang Trung cho thấy nước Nam
ta có nền văn hóa riêng, và không bao giờ cúi
đầu chịu nhục ngoại bang áp đặt đồng hóa.
Về phía người bình dân, tập Tranh Dân gian Việt
Nam Imagerie Populaire Vietnamienne của
Maurice Durand, một học giả Pháp chuyên nghiên
cứu Việt nam, viết về nghề khắc gỗ làm mộc bản,
có in một bức Hai Bà Trưng và một bức Bà Triệu,
ba vị nữ anh hùng dân tộc.
Hầu hết tranh dân gian từ cả 500 năm trước hoàn
toàn chịu ảnh hưởng nặng nề của Tàu. Nhưng điểm
son nghệ nhân khắc hai bức mộc bản này, là đã
tôn trọng nét văn hóa Việt Nam rất rõ rệt: Hai
Bà mặc áo kiểu Việt Nam xưa, không cài qua bên
phải theo Tàu. Đặc biệt bức mộc bản Bà Triệu
càng rõ rệt y phục người Việt xưa, vùng Núi Nưa
Thanh Hóa mà cho đến nay người Mường còn giữ nếp
cũ. Bộ y phục này bên trong là yếm và bên ngoài
có áo cánh rồi áo khoác giống áo tứ thân nhưng
không có cổ cao kiểu Tàu mà lại là giao lãnh,
tức là hai vạt trước giao vào nhau.
Qua nhiều gian lao thử thách với các biến chuyển
lịch sử, có khi chiếc áo dài bị hạn chế phổ biến
vì cho là xa xỉ phẩm như dưới thời nội chiến
Quốc Cộng Nam Bắc, suốt 30 năm liền, đàn bà
ngoài Bắc phải ngắn gọn quần tây áo cộc như đàn
ông. Nhưng sau khi chiếm được miền Nam, thống
nhất đất nước, người Bắc ùa vào Nam thấy trù phú
sung túc bèn " nhận hàng ",rồi chẳng bao
lâu các bà các cô vụt bung đua đòi quần là áo
lượt thời thượng rực rỡ màu mè, cổ cao cổ thấp
không cổ hay khoét rộng hở vai hở ngực, tay dài
tay ngắn tay loe, vạt hẹp vạt rộng ba tà bốn tà
hay mớ ba mớ bảy, dài lệt bệt quét đất chẳng
thấy đâu chiếc quần ...nhưng vẫn nô lệ áo cài
bên phải theo lệnh Tàu.
Thời trang thay đổi tùy thích mỗi người theo
phong trào chung cả thế giới, vì nếu không đổi
mới chẳng được gọi là thời trang. Thay đổi để
tiếp nhận tinh hoa mà gạn lọc cặn bã và hài hòa
kết hợp, nhưng vẫn giữ gìn truyền thống căn bản
của mỗi dân tộc.
Nhưng,
lại vẫn chữ nhưng quan trọng này,
ta thoát ách đô hộ Tàu cả nghìn năm trước, và
nay đã là một quốc gia hoàn toàn độc lập,
không có lý do giữ lại dấu vết nô lệ lạc
lõng giữa phụ nữ thế giới với quy luật y phục
chung cho toàn cầu, là áo phụ nữ cài qua bên
trái.
Áo dài phụ nữ cài bên trái, lý tình đều thuận
hợp.
Trần thị Lai Hồng
Hoa Bang, hè 2007 sang Xuân 2008
Trích và bổ túc Tìm Hiểu Áo Dài Việt Nam
của Trần thị Lai Hồng, đầu tiên
đăng trên Phụ Nữ Ngày Nay 1986, và sau đó
trên nhiều báo chí hải ngoại, báo điện
tử www.gio-o.com/ cùng nhiều
báo điện tử khác.
Tài liệu tham khảo :
-Anna Buruma, Fashion of the Past,
Collins & Brown, London 1999
-Association for Viet Arts, Áo Dài: A
Modern Design Coming of Age, San Jose Museum
of Quilts & Textiles 2006
-Bernard Dupaigne, Vidage d'Asie,
Edition Hazan, Italy 2000
-Francois Boucher, 20,000 Years of Fashion,
The History of Costume and Personal Adornment,
Expanded Edition 1967
-Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Linh, Hoàng Hưng, Lê
Văn Lan, Thời đại Hùng Vương, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội 1976
-Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, Văn
nghệ 2003
-Nguyễn văn Huyên, La Costume Annamite,
Hanoi 1940
-Trần Trọng Kim, Việt nam Sử lược, Khai
Trí 1971
-P. Huard và M. Durand, Connaissance du
VietNam, E.F.E.O. Hanoi, 1954
- Tranh Võ Đình, tư liệu của Trần thị LaiHồng
Từ phải : Y phục Mỵ Nương, Bà Trưng, phụ nữ
Mường, trưng bày trước buổi trình diễn
Hành trình về Đất Mẹ của Trần thị LaiHồng, dùng
khoảng 200 bộ y phục phụ nữ do tác giả vẽ kiều,
để ôn lại phần nào lịch sử và văn hóa Việt Nam,
tổ chức tại Orange County, California, 6 tháng
8, 2011