|
Ca-Dao, Tục-Ngữ, và Thơ về Truyền-Thống Căn-Bản và Cao-Quư của Đàn Bà và Đàn Ông Thuần-Túy Việt-Nam I. Truyền-Thống của Người Đàn Bà Thuần-Túy Việt-Nam Truyền thống cao-quư của Người đàn bà thuần-túy Việt-Nam là coi trọng tiết-nghĩa liêm-sỉ, biết giữ ḿnh, không để ai có dịp trêu ghẹo sàm-sỡ, và luôn-luôn trau-giồi phẩm-hạnh để được mọi người kính trọng. Khi đă lấy chồng rồi, người đàn bà Việt lại càng giữ-ǵn hơn nữa v́ sợ mang tiếng với chồng và dâù sống chết thế nào cũng chỉ biết có chồng mà thôi:
Mặc ai ép nghĩa nài t́nh, / Phận ḿnh là gái chữ trinh làm đầu. Trăm năm trăm tuổi may rủi một chồng,/Dù ai thêu phượng vẽ rồng mặc ai. Ai kêu, ai hú bên sông, / Tôi đang nấu nướng cho chồng tôi ăn. Khi bị góa-chồng, người đà bà Việt dù c̣n trẻ đẹp cũng t́nh-nguyện thủ- tiết với chồng. Có người bất-đắc-dĩ mà phải tái-giá th́ cũng tự thấy xấu-hổ và bị làng nước khinh-khi. Trong trường-hợp không giữ được ḿnh để bị chửa-hoang th́ thường phải trốn-tránh đi nơi khác để tránh sự chê-cười của hàng-xóm láng-giềng. Có chồng mà đi với giai th́ bị nhà chồng đuổi đi và suốt đời bị khinh-khi, không thể lấy ai được nữa, và khi chết xuống âm-phủ phải bị cưa hai nấu dầu: Con gái bỏ chồng theo trai, / Chết xuống âm phủ cưa hai nấu dầu. Người đàn bà Việt thường cần-cù chăm-chỉ làm-ăn trong việc ruộng vườn cũng như việc buôn-bán để lo cho chồng con:
Đàn bà Việt có giáo-dục thường có những đức-tính: hiền-ḥa, nhân-đức, hiếu-hạnh, mực-thước, khôn-ngoan, thủy-trung, trinh-tiết, biết kính cha mẹ, biết chiều chồng, nuôi con nên người, đối-xử tốt với anh em họ hàng, và quán-xuyến việc gia- đ́nh một cách chu-đáo. Đâư là những bậc hiền-phụ. Tuy-nhiên, cũng có một thiểu-số đàn bà Việt được coi là ác-phụ. Số này rất ít.
II. Truyền-Thống Căn-Bản của Đàn Bà Việt và Đàn Ông Việt Trinh-tiết là điều căn-bản mà đàn bà Việt phải giữ. Trung-hiếu là điều căn- bản mà đàn ông Việt phải theo. Người ta lấy hai điều đó làm căn-bản để đánh giá-trị con người Việt rồi sau mới đến điều khác. Chính v́ thế mà khi người đàn ông có vợ nọ con kia th́ người ta vẫn chấp-nhận và tha-thứ. C̣n nếu người đàn bà có chồng mà đi với trai th́ không ai tha-thứ được. Những câu ca-dao nói về trung-hiếu và trinh-tiết của đàn ông và đàn bà Việt:
Trong bất-cứ hoàn-cảnh nào chăng nữa, trung-hiếu và trinh-tiết là điều quan-trọng nhất của đàn ông và đàn bà Việt từ thời xưa cho đến cả thời nay trong cuộc sống gia-đ́nh cũng như ngoài xă-hội. Trai có trung-hiếu, gái có tiết-hạnh th́ gia đ́nh mới yên-vui, đất nước mới có trật-tự và thanh-b́nh.
III. Vũ-Phu và Ác-Phụ Tuy đa-số những bà vợ và ông chồng người Việt đều là người tốt, nhưng vẫn có một thiểu-số hư-hỏng và bị gọi là “vũ-phu” và “ác-phụ.” Những người chồng đánh vợ được xếp vào hạng vũ-phu. Những người đàn bà có thái-độ chua-ngoa, cay-độc, lẳng-lơ, khinh chồng như chó, chửi con có ngành có ngọn, mắt quằm-quặm như diều-hâu, mồm toang-toác như quạ, ghen-tuông không biết điều, và lăng-loàn đều được xếp vào loại ác-phụ. Bởi v́ có trường hợp người vợ đảm và ngoan mà gặp phải người chồng vũ-phu hoặc người chồng tốt mà gặp phải người vợ là ác-phụ, nên mới có cảnh chồng thượng cẳng chân hạ cẳng tay đánh vợ đánh con, và gia đ́nh tan-nát v́ có người vợ lăng- loàn trắc-nết. Thường th́ vũ-phu gặp ác-phụ v́ vung nào úp nồi ấy. Chính v́ thế mà có cảnh chồng đánh vợ và vợ chửi rủa chồng không thể nào tránh được. Đó là lỗi của cả hai bên:
Để giúp cho những bà vợ tránh được các lỗi lầm, tiền-nhân ta đă có luật “Thất-Xuất.” Điều này có nghĩa là 7 (thất) điều cấm-kỵ do tiền-nhân đưa ra để bắt các bà vợ phải tránh hầu khỏi bị chồng đuổi đi (xuất): không có con, dâm-dật, không thờ cha mẹ chồng, lắm-điều, trộm cắp, ghen-tuông, và có ác-tật. Nếu bà vợ nào có một trong 7 điều “Thất-Xuất” này th́ bị ông chồng đuổi ra khỏi gia-đ́nh. Tuy-nhiên, tiền-nhân ta lại c̣n cố giúp các cặp vợ chồng được yên-ổn nếu bà vợ nào đă làm được 3 điều gọi là “Tam Bất-Xuất” th́ ông chồng không được phép bỏ vợ. “Tam Bất-Xuất” gồm có: đă từng để đại-tang (3 năm) cho nhà chồng, trước nghèo sau giầu, và không có chỗ nương-tựa.
IV. Những Câu Ca-Dao Củng-Cố Hạnh-Phúc của Đạo Vợ Chồng Phần đông vợ chồng người Việt có giáo-dục th́ thương yêu nhau, tương-kính như tân (“tân” nghĩa là khách), và lịch-sự với nhau. Giáo-dục ở đây không có nghĩa nói về học cao và bằng nọ cấp kia mà có ư nói về những người biết cách cư-xử đúng đạo làm người.
Những người vợ Việt nam có
giáo-dục th́ có thái-độ như sau:
Muốn đời sống của vợ chồng có hạnh-phúc th́ vợ chồng phải thương-yêu nhau, kính-trọng nhau, nhường-nhịn nhau, lấy lời-lẽ hơn-thiệt ngọt-ngào sửa-chữa lỗi-lầm cho nhau, tránh to tiếng và đánh đập nhau, giữ thể-diện cho nhau để ư săn-sóc và chiều sở-thích của nhau, và vợ làm việc nọ th́ chồng đỡ đần việc kia, v.v.:
(Thơ Khải Chính, “Từ Duyên Bằng Hữu Đến Nghĩa T́nh.”)
Vợ chồng có ḥa-thuận, gia-đ́nh
mới hạnh-phúc, con cái mới thành người tốt, và nhiên-hậu xă-hội đất-nước mới an-vui.
Có được việc ḥa-thuận này phần lớn là nhờ người đàn bà Việt-Nam là những đấng
hiền-phụ. Khi chồng là đấng trượng-phu và vợ là đấng hiền-phụ th́ không có cảnh
xáo-trộn trong gia đ́nh:
|
Xin vui ḷng liên lạc với
haphuonghoai@gmail.com về tất cả
những ǵ liên quan đến trang web nầy
|