CA-DAO
VIỆT-NAM, VĂN-HÓA NHÂN-BẢN
- "Một cây làm chẳng nên non,
- Ba cây chụm lại nên ḥn núi cao."
Đạo-lư Việt-Nam, gọi là Việt Đạo,
được truyền tụng từ thời thái-cổ đến nay bằng ca-dao,
tục-ngữ và Kinh-Việt với những truyện dân-gian mà người
ta c̣n gọi là Sử-thi hay Sử-ngôn. Ngày nay, muốn hiểu
cho tường-tận những ca-dao tục ngữ đó, ta cần suy-luận
theo người thái-cổ với những âm điệu và ngôn-ngữ xưa nay
kèm những h́nh tượng xưa. Một trong những h́nh-tượng xưa
nhất nằm trong Kinh-Dịch, nói cho chính xác là Việt-Dịch.
[Việt Dịch với biểu tượng Âm Dương
như sau:
* 1 khuyên-tṛn, nằm trên trục thẳng
đứng, là Dương --------> O
* 2 khuyên-tṛn, đối-xứng qua
trục-Dương, là Âm --------> -------0--------0---
Trễ hơn về sau, người Hán Mông (vốn
là dân du-mục) đánh chiếm lấy "Trung-Nguyên"(là lănh thổ
vùng Động Đ́nh Hồ và phía nam sông Dương-Tử sau này) rồi
nhận vơ độc quyền nền văn-minh Dịch-Lư Nông-Nghiệp của
Tộc Bách-Việt (Chinese Mithology of Anthony Christie/
Library of the World’s Myths and Legends, page 5; họ
cũng đă thiêu hủy Liên-Sơn Dịch và Quy-Tàng Dịch thuộc
thời Hạ, Thương, Ân (các nhà Dịch Học như Thiệu Vĩ Hoa/ḍng
dơi Thiệu Khang Tiết; Lê Văn Quán . . . đều cho biết
hiện những sách này không c̣n) sau khi đă đúc kết lại và
sửa đổi biểu tượng Âm Dương thành "vạch-liền" và "vạch-đứt"
(trong khi vẫn dựa trên Hà-Đồ và Lạc-Thư với những "nút
kết-thằng", tác-phẩm của Ṇi Việt () rồi gọi là Chu-Dịch
(mà đành phải bỏ quên trục không-gian; mặc dầu như về
cách cấu-tạo chữ viết, người Trung-Hoa luôn nói đến "ngang
bằng, sổ ngay" như một câu thiệu nằm ḷng. Sự thực là v́
do "tiến-bộ" của dụng-cụ dùng để viết, họ không thể
khoanh tṛn nhỏ được nữa; vả lại khi điểm các chấm rời
liền nhau th́ chúng lại bị nối liền với nhau / Chinese
Character by Dr. L. Wieger and Davrout)].
Muốn giải thích cho rốt ráo những
Sử-ngôn xưa, ta không thể dùng biểu-hiệu Âm Dương của
Chu Dịch sinh sau đẻ mụôn được, mà phải xử-dụng đến
kư-hiệu Âm Dương là những "khuyên tṛn"(đă xuất-hiện rất
sớm trên Hà-Đồ và Lạc-Thư, và trên trống-Đồng Lạc-Việt
về sau) của Việt Dịch (đầu tiên chỉ là những "chấm"
tạo-h́nh, trên 2 lần 9 ô vuông của 2 Đồng-Bánh-Chưng-lớn
4 lạt kết lại, để hoàn-tất 36 quân Tṛ-chơi KIANO
công-bố năm 1993) như trong trường-hợp câu ca-dao:
"Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên ḥn núi cao."
Trong câu ca-dao này, NON và NÚI là
tiếng Việt, chúng có cùng nghĩa nhưng chữ th́ khác; chữ
Nôm gọi là SƠN, chữ Hán gọi là CẤN. Theo Việt Dịch:
* CÂY được khoác Tượng LÔI (Chấn) có
h́nh như 1 gốc mọc lên 2 cành, hoặc h́nh 2 luồng điện
xẹt nhau gây ra
* NÚI, NON được khoác Tượng SƠN (Cấn)
như h́nh ngôi nhà hay hang động, lànơi Người trú ngụ vào
thời tiền-sử.
Xem thế, ta thấy 2 h́nh của LÔI và
SƠN là h́nh lật úp (quay 180 độ) của nhau theo trục dọc:
Một đằng giống h́nh cái bát úp xấp, một đằng giống h́nh
cái bát lật ngửa. Cũng chính v́ vậy, Tổ-Tiên ta đă để
hai h́nh đó kề nhau mà ví von, mà so-sánh v́ khi lật
ngược lên th́ "CÂY chẳng khác ǵ NÚI" (nhưng Chấn và Cấn
lại là 2 h́nh nghịch nhau). Đây mới chính là cái thú-vị
của Việt Dịch trong văn-chương chữ nghĩa.
[Chúng tôi xin mở ngoặc ở đây để nói
rằng, một khi nh́n Tượng LÔI / SƠN qua Việt Dịch như nói
trên, chúng ta nhận ra rơ ràng đó là h́nh vẽ "cái chầy"
để giă; trong khi đáng buồn cho các tác-giả người Đức và
Mỹ, họ đă không dám vẽ "cái chầy / PESTLE” để dăn-chứng
kèm với quẻ Tượng TIỂU QUÁ theo Chu Dịch trong đề mục
“History of Civilization” (đương nhiên là viết theo lời
các Đại Dịch-Sư người Hán)/ Sách The I CHING or Book of
Changes của Wilhelm/Baynes, Princeton University Press ,
seventh printing 1971, trang 334].
H́nh ảnh đối chứng của CÂY và NÚI
cũng đă được các nhà Dịch-Học, tiền bối của chúng ta
xử-dụng trong bài thơ sau đây:
Bắc Nam đâu cũng một non sông,
Đi, ở can chi phải bận ḷng. -
- 0 - - - - - 0- -
Vận nước hăy c̣n đang Kiển, Bĩ, - - 0
- - - - - 0 - -
Làm trai chi sá ngại
lao-lung. O
Gió mưa mấy độ cây không chuyển,
O
Sấm sét nhiều phen núi chẳng rung. - -0-
- - - - -0- -
Việc trải qua rồi, rồi mới biết,
- -0- - - - - -0- -
Non sông muốn thử khách anh-hùng.
Bài thơ này do cụ Phan-Chu-Trinh làm
(năm 1908, khí các cụ Vơ Hữu Kiên, Trần Cao Vân, Huỳnh
Thúc Kháng, Nguyễn Tiểu La và Phan Chu Trinh đang cùng
mgồi tù ở nhà lao Quảng-Nam, th́ các cụ Huỳnh, cụ Phan,
cụ Nguyễn phải lên đường trước v́ bị đầy đi tù
chung-thân tại Côn-Đảo) để nói lên tâm-sự của kẻ ở người
đi. Trong bài, “gió mưa”, “sấm sét” được ví với những
tra-tấn, khủng-bố của thực-dân Pháp và tay-sai; c̣n
"cây" và "núi" được ví như chí-khí của các Cụ với một
ḷng v́ Nước thương Ṇi, không thể bị lay chuyển.
Trong ca-dao và thơ, CÂY và NÚI được
đối nhau về bằng trắc đă đành, 2 Tượng của chúng c̣n đối
nhau chan chát v́ chúng là h́nh lật ngửa của nhau nữa
(một đằng là “bát úp”, một đằng là "bát ngửa"), mà chúng
ta đă thấy rơ qua biểu-tượng bằng Việt Dịch như ở trên.
Ta hiểu và thấy rơ ràng NÚI có khối
chóp đặc 3 chiều; về CÂY th́ khi nh́n phần phía ngọn, ta
cũng thấy có h́nh NÚI, vậy th́ làm ǵ có “đối” thật sự!
Tiền nhân đă muốn ta nh́n thấy "đối qua Dịch Tượng".
Thường khi nói đến “cây” là người ta
muốn nói đến chiều cao (bởi v́ nói đến cây là nói đến
“trèo", "trèo cao té nặng" v.v.) Đơn-giản-hóa đi, cây
được vẽ bằng 1 đoạn thẳng đứng, có cành và tàn lá như
chóp núi (cây thông là loại cây chịu rét rất giỏi là một
thí-dụ) (h..
Để suy b́ với NÚI, Tổ-Tiên ta đă nghĩ
đến chuyện chụm ngọn 3 cây lại với nhau
(ngọn giao nhau và gốc choăi ra ở 3
hướng) hầu tạo được một h́nh khối tam-giác 3 chiều rất
khó bị lật chuyển, tương-tự như núi (h.2).
Khi so sánh CÂY với NÚI th́ đúng là
các Cụ đứng ở gần cây, và núi th́ ở xa xa, hướng sau
cây. Cây gần hơn nên ta thấy cây cao hơn núi, lớn hơn
núi (chẳng khác nào khi ta đưa ngón tay chỉ mặt-trăng,
di chuyển ngón tay càng gần mắt hơn th́ có lúc thấy
"ngón tay ta lớn hơn mặt Trăng vậy" vậy. Phải nói là
phương-pháp nhận-xét tỉ-giảo của Tổ-Tiên ta vào thời xua
cũng đă tinh-tế lắm! mà v́ chưa có chữ viết nên chỉ
truyền-khẩu lại.
Nh́n h́nh 2 và 3 ta thấy: Khi để 3
cây chụm lại với nhau, ta tạo được môt h́nh trái núi.
Lúc cây ở gần, núi ở xa th́ núi chẳng khác nào như một
"ḥn"(ḥn non bộ) mà thôi. Chắc hẳn thời-gian xuất-hiện
câu ca-dao này là thời-gian Tổ-Tiên ta biết dùng Tượng
của Việt Dịch, và vào lúc đó mới chỉ có Việt Dịch thôi
(Thời-gian hoàn-thành Việt Dịch phải là thời-gian ngay
sau khi 2 bảng Hà-Đồ và Lạc-Thư xuất-hiện, với những
chấm-tṛn đen và trắng). Hồi đó các Ngài sống ở vùng
Trung-nguyên nông-nghiệp, chỉ có đồi mà không có núi,
khong như dân du-mục Hán Mông sống trên vùng cao-nguyên
có núi cao và chuyên nghề săn bắn. Phải chăng câu ca-dao
là một bài học đơn-giản nhưng chính yếu, nói lên nét
giáo-dục từ thời Hùng-Vương dựng nước; cũng là sự
chống-đối giữa văn-minh nông-nghiệp và nhóm người sống
bằng du-mục săn bắn.
Thực sự khi truyền-tụng câu ca-dao
này, Tổ-Tiên ta muốn nói nhiều về nghĩa bóng của nó,
chẳng khác nào câu hát "Đèo cao th́ mặc đèo cao, ḷng ta
quyết-chí c̣n cao hơn đèo!" hoặc "Đường đi khó, không
khó v́ ngăn sông cách núi, mà khó v́ ḷng người ngại núi
e sông!"v . v . Hầu hết là những câu ca-dao tục-ngữ nhằm
đề cao những giá-trị Nhân-Bản Việt Nam, đầy tính
giáo-dục cao-cả, nhắc-nhở con cháu đoàn-kết vượt
khó-khăn. Ba cây “chụm” lại mới có h́nh quả núi , chớ 3
cây nối lại th́ tuyệt-nhiên không phải. Ba cây chụm lại
là một biểu-tượng "vững như núi", nhất là khi 3 ngọn cây
lại được cột lại với nhau. Ta c̣n thấy 3 cây chụm lại
(cây dễ kiếm và rẻ tiền nhất là cây tre) như giàn treo
gầu ṣng, tát nước từ vũng thấp lên ruộng cao ở những
miền quê thuộc Văn-Lang Bách-Việt xưa.
Chỉ với Tượng của Việt Dịch, chúng ta
mới t́m thấy những h́nh ảnh đích-thực diễn-tả được
đầy-đủ lư nghĩa của Văn-Hóa Dân-Tộc. Thế mới biết, muốn
hiểu rơ di-sản Văn-Hóa của Tổ-Tiên mà ta từng nghe nói
"năm ngàn năm văn-hiến”, ít nhất chúng ta phải có
tấm-ḷng Việt và tâm-tư Việt trước đă; Tâm-tư Việt dầy
đặc trong Việt Dịch và Việt Đạo. Không như những kẻ
“cá-nhân chủ nghĩa”, may mắn được sống tạm ổn để “nuôi
thân” (làm nô-tài) là đă vội thỏa-măn, không biết rằng
đa số đồng-bào ta vẫn c̣n bị khinh chê (mà ngay ḿnh
cũng vậy) nên ta vẫn rất cần quảng-bá Văn-Hóa Việt Nam
với các cộng-đồng bạn để cùng tôn-trọng nhau. Khi người
Việt-Nam được tôn-trọng chung như vậy, sự làm việc của
chúng ta mới được chú-ư và do đó dễ đem lại hiệu-quả
hơn. Lại có kẻ, v́ cá-nhân ḿnh tạm thất-bại, đă bất-măn
với tiền-nhân, để buông lời rẻ rúng những biểu-tượng
văn-hóa cố-hữu, như Chùa-Một-Cột chẳng hạn; có kẻ viết
"Không thể cứu dù có là Thánh. . . ." (lại nêu hẳn tên
riêng ra), mới đáng trách. Kẻ khác, tự nhận ḿnh là "văn
sĩ”, lại trắng trợn sủa đổi cả những sự-tích thần-kỳ làm
nên lịch-sử hào-hùng của Dân-Tộc; họ đă không hiểu nổi
Gậy-Thần 9 đốt có 2 đầu Sinh Tử (một bộ mặt mới của “cửu
cung bát-quái” mà có lẽ họ quen thấy nhưng không nhận ra
được) lại bịa ra là Gậy-Thần 3 đốt .v .v . Thậm-chí có
ngừơi, đă không hiểu nổi những nhân-thoại trong Cổ-Sử
lại dám đề-nghị lấy Việt-lịch từ khi có Thành Cổ-Loa
thôi; họ không hiểu ǵ về ẩn-dụ "Thần Kim Qui" cả. Để
đến nỗi có kẻ muối mặt viết “Tổ-Quốc Ăn-năn”; họ chẳng
hiểu ǵ hai chữ Tổ-Quốc, họ cho rằng là L’état (tiếng
Pháp) hay Government (tiếng Mỹ) chăng? ( Chỉ những “Đại
Trượng Phu” mới biết coi nhẹ ḿnh, mở lối cho đại khối
đồng-bào, đại đa-số trầm lặng nơi đáy-tầng Dân-Tộc vẫn
bị thế-giới hiểu lầm. Có những nước cho rằng dân ta là
dân Tầu, nước ta là một quận huyện của Tầu, Văn-hóa ta
là vay mượn của Tầu .v . v . Những dân-tộc khác đó đâu
biết rằng chỉ duy-nhất dân Việt ta thờ cúng Tổ-Tiên bằng
Đồng Bánh-Chưng-lớn buộc bằng 4 lạt, (9 ô vuông/ Magic
Square 3) và Cây Mía (dựng cạnh bàn-thờ) tượng-trưng
Gậy-Thần 9 đốt (mà người b́nh-dân, ngay cả tại Bùi-Chu
Phát-Diệm tỉnh Nam-Định, thường gọi là "Gậy Ông-Vải").
Để tạm kết-thúc, chúng tôi xin nhắc
lời của một nhà giáo-dục, cũng là nhà nghiên-cứu
Trống-Đồng Lạc-Việt, Giáo-Sư Tiến-Sĩ Dương–Thiệu-Tống:
"Hăy nên có một tâm-tư Việt khi nói về Văn-Hóa Việt",
bởi v́ Văn-Hóa Việt là Văn-Hóa Nhân-Bản.
Nguyên-Thái Nguyễn Văn-Thắng
Who’s Who of American Inventors
Viện KIANO Văn-Hóa Việt
3/ 1998, Việt lịch 4877
( Vài điều cập-nhật-hóa vào năm 2001.