CẢM XÚC VỀ SÔNG NƯỚC QUA CA DAO, DÂN CA NAM BỘ
20.07.2007 11:14
|
Sông nước miền Tây . Photo: Trái tim Việt Nam Online |
Nam bộ là một vùng
sông nước có hệ thống sông ng̣i chằng chịt, cho nên từ lâu h́nh
ảnh chiếc ghe, con đ̣, ḍng sông, chiếc cầu... là h́nh ảnh hết
sức quen thuộc với người dân nơi đây. Ngay từ thuở lọt ḷng, họ
đă được tắm ḿnh giữa trời nước bao la rồi khi lớn lên họ phải
đi qua những chiếc cầu tre nối nhịp đôi bờ, những khi buông câu,
thả lưới, những lúc chở hàng bông ra chợ... họ cũng gắn chặt
cuộc đời ḿnh với ḍng nước bao la.
V́ vậy,
trong cuộc sống hàng ngày, cũng như trong những câu ca dao, ḥ,
vè dù thể hiện chủ đề nào, tâm trạng nào th́ ít nhiều h́nh ảnh
ḍng sông, chiếc ghe, con đ̣ cũng hiển hiện trong đó. Người Nam
bộ thường có thói quen dùng lối nói ví von, mượn các h́nh ảnh
quen thuộc của đời thường gần gũi để thông qua đó nêu lên chủ đề
ḿnh định nói. Và các h́nh ảnh quen thuộc đó, được lặp đi lặp
lại trong cách nói của họ cho đến khi thành tiềm thức, để khi có
dịp th́ tự động bật ra. Như: khi có khách ở xa đến thăm ḿnh th́
người Nam bộ nói: từ xa lặn lội tới đây. Mặc dù có thể người đó
đi bằng xe đ̣ hay xe Hon-đa. Hay từ "quá giang" vốn dùng cho
việc đi nhờ ghe cộ lại dùng cho việc đi nhờ xe hay đi cùng đường.
Tất cả đó phải chăng là dấu ấn của vùng sông nước đă ăn sâu vào
huyết quản của họ.
Đi liền với
h́nh ảnh sông nước là các h́nh ảnh: chiếc ghe, con đ̣, con cá,
con cua, cần câu, đăng, đó, ṇ... Đây là h́nh ảnh mà ta thường
gặp trong ca dao dân ca Nam bộ. Ngay cả việc trông ngóng người
yêu, người Nam bộ cũng mượn h́nh ảnh chiếc ghe để nói lên nỗi
ḷng của ḿnh, nói lên sự trông ngóng, khấp khởi chờ mong người
yêu đến thăm ḿnh:
Ghe ai đỏ
mũi xanh lườn,
Phải ghe Gia Định xuống vườn thăm em.
Ở đây người
con gái nhận dạng chiếc ghe của người yêu ḿnh. Chiếc ghe của
người yêu cô có đặc điểm: "đỏ mũi, xanh lườn" nên khi thấy chiếc
ghe có đặc điểm này th́ cô gái mừng thầm, đinh ninh là ghe của
người yêu xuống thăm ḿnh. Nhưng cô gái ở đây vẫn cẩn trọng,
không hấp tấp vội vă. V́ cả vùng sông nước này có biết bao chiếc
ghe có cùng đặc điểm đó, không khéo sẽ bị hớ. Nên cô gái mới đặt
lời ướm hỏi. Từ "phải" là một từ để hỏi nhưng ở đây là dạng hỏi
tu từ. Không cần người đáp. Hỏi để rào trước đón sau mà thôi. Có
phải th́ hăy đến nơi hẹn, hăy thẳng nơi mà đến. C̣n không phải
th́ chỉ việc đi ngang qua. Câu ca dao này c̣n có một dị bản
khác:
Ghe ai
nhỏ mũi trảng lườn,
Ở trên Gia Định xuống vườn thăm em.
Chiếc ghe
cũng là h́nh ảnh của cuộc sống thương hồ, trên đó có chức năng
như một ngôi nhà di động. Phía sau là cuộc sống sinh hoạt của cả
gia đ́nh. Phía trước là dùng để chất hàng hóa bán. Cứ thế, chiếc
ghe vào từng con kinh, con rạch, hết nơi này đến nơi khác. Hết
hàng th́ quay ra chợ bổ hàng rồi đi bán tiếp. Con người cũng
sống trôi nổi cùng chiếc ghe. Nhưng đôi khi chiếc ghe chở hàng
chỉ có người chồng đảm nhận. Vợ con ở nhà, người chồng đi buôn
bán xa, vài ba ngày mới về một lần. Cho nên trông chồng cũng là
h́nh ảnh chiếc ghe và nhớ chiếc ghe cũng là nhớ chồng:
Ghe lui
khỏi vịnh, em thọ bịnh liền,
Không tin anh hỏi xóm giềng mà coi.
V́ cuộc sống
mưu sinh mà vợ chồng phải xa cách, vắng nhau bao ngày là bao nỗi
ḷng nhung nhớ. Về nhà chưa được bao lâu, lửa nồng chưa ấm anh
đă vội ra đi. Nhưng v́ cuộc sống không thể khác được nên ghe
người chồng vừa đi th́ người vợ cũng vừa "thọ bịnh". Quả là một
tấm t́nh son sắt, thủy chung.
Hay giữa một
đêm trăng thanh gió mát, một chiếc xuồng câu đang lờ lững giữa
ḍng, bắt gặp chiếc xuồng của cô gái chở hàng bông ra chợ đang
chèo tới ở phía sau anh ta liền buông mấy lời chọc ghẹo:
Bớ chiếc
ghe sau chèo mau anh đợi,
Kẻo giông khói đèn bờ bụi tối tăm.
Cách chọc
ghẹo của chàng trai ở đây rất có lư, đồng thời thể hiện được sự
quan tâm lo lắng của ḿnh. Giữa trời nước bao la mà chỉ có một
ḿnh cô gái chèo ghe chở hàng ra chợ. Anh lo lắng cho cô gái bảo
cô chèo mau lên, anh đợi, nếu không giông đến thổi tắt đèn mà cô
th́ có môt ḿnh biết phải làm sao. Cô gái cũng cảm thấy ấm ḷng
khi giữa đêm khuya thanh vắng mà lại có người quan tâm đến ḿnh,
nên cô cũng ḥ đáp lại:
Nhứt nhựt
tiểu thân chứ nhà của anh đâu mà em không biết,
Chứ gặp anh giữa đường, cái quyết chí mà thương anh.
Có khi họ
nên duyên cũng từ đó. Chiếc ghe, chiếc xuồng, ḍng sông cũng là
những h́nh ảnh được người dân Nam bộ gởi gắm vào đó những nỗi
niềm tâm sự, những cảm nhận của cuộc đời, than thân trách phận,
nói lên cuộc sống nghèo khó của ḿnh:
Không
xuồng nên phải lội sông,
Đói ḷng nên phải ăn ṛng bè môn.
Như đă nói,
Nam bộ có hê thống sông ng̣i chằng chịt cho nên phương tiện đi
lại của cư dân nơi đây trước kia chủ yếu là ghe, xuồng. Ghe,
xuồng là chân đi là phương tiện vận chuyển chủ yếu, nên dù nghèo
thiếu đến đâu người ta cũng cố dành dụm sắm cho ḿnh một chiếc
xuồng để làm phương tiện đi lại. Tác giả của câu ca dao này có
lẽ do quá nghèo túng, nghèo đến nỗi không có chiếc xuồng để đi,
mọi việc di chuyển chỉ bằng cách lội sông. Mà không có xuồng
cũng có nghĩa là thiếu phương tiện đánh bắt, mà thiếu phương
tiện đánh bắt th́ làm sao có nhiều cá, tôm cho được. Mà không có
nhiều cá, tôm có nghĩa là không có tiền nên phải ăn " ṛng bè
môn".
B́m bịp
kêu nước lớn anh ơi !
Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê.
Đây cũng là
lời than, than cho việc buôn bán ế ẩm. Không có người mua nên
phải chèo măi, chèo đến mỏi mêt mà vẫn không bán được hàng. B́m
bịp là loài chim rất quen thuộc ở Nam bộ, hễ nó kêu là nước lớn,
cho nên tiếng b́m bịp kêu cũng là lời dự báo cho con nước sắp
lên. Ngoài ra tiếng b́m bịp cũng là dùng để chỉ thời gian, thời
gian của con nước lớn, nước ṛng, cũng là thời gian trong ngày.
Lời than của cô gái ở đây phải chăng ngụ ư trong từng tiếng kêu
của con b́m bịp. B́m bịp kêu nước lớn rồi nước ṛng, rồi b́m bịp
kêu : nước lớn... cứ thế hết ngày mà bán buôn chẳng được ǵ. Sự
ngao ngán của cô gái phải chăng là thế.
Dời chưn
bước xuống ghe buôn,
Sóng bao nhiêu gợn dạ buồn bấy nhiêu.
Lại một tâm
trạng buồn cho những kiếp thương hồ. Bước xuống ghe buồn cũng
đồng nghĩa với việc xa nhà, phải đối mặt với cuộc sống cô đơn,
một ḿnh ḿnh đối diện với sông nước đêm đen. Ngoài ra trong
chuyến đi này, không biết buôn bán ra sao, lời lăi thế nào.
Nhưng trên hết là nỗi nhớ nhà da diết, nhớ vợ, nhớ con... c̣n
buồn nào hơn nỗi buồn chia ly. Ở đây tác giả so sánh nỗi ḷng
của ḿnh với sóng nước. Sóng có bao nhiêu gợn th́ ḷng ḿnh cũng
buồn bấy nhiêu, nhưng gợn sóng là vô vàn, không sao đếm được.
Cho nên tấm ḷng của họ nhớ nhà, đau đáu chờ mong, buồn man mác
cũng bấy nhiêu, không sao nói hết được.
Bên cạnh đó
h́nh ảnh của cầu ván, cầu tre, các phương tiện đánh bắt cũng
được người dân ở đây mượn làm phương tiện để nói nên nỗi ḷng
của ḿnh:
Ví dầu
cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắt lẻo gập gh́nh khó đi.
Ví dầu mẹ chẳng có chi,
Chỉ con với mẹ chẳng khi nào ṃn.
Cầu tre, cầu
ván là hai h́nh ảnh rất quen thuộc đối với người dân Nam bộ. Nó
thường được bắc qua những con kinh, con rạch, sông nhỏ. Ở đây,
người phụ nữ mở đầu bằng một h́nh ảnh rất quen thuộc này như là
một lời tâm sự của ḿnh đối với con về t́nh mẫu tử thiêng liêng.
Có thể người phụ nữ này đă bị chồng phụ bạc nên cô rất đau buồn,
coi như là mất tất cả, cô chẳng c̣n thiết sống nữa. nhưng may
c̣n được đứa con, nó là nguồn an ủi vô giá đối với cô, níu chân
cô lại trên cơi đời này. V́ vậy, mọi t́nh yêu cô đều dành cho
nó, xem như là nguồn an ủi duy nhất trong cuôc đời ḿnh.
Không chỉ là
lời than thân trách phận, không chỉ là t́nh mẫu tử bao la, lời
tỏ t́nh dễ thương, sông nước Nam bộ c̣n phản ánh những nếp sinh
hoạt, những buổi lao động hết sức đời thường của họ. Thể hiện
được một cuộc sống đơn sơ, giản dị nhưng đầm ấm t́nh người, t́nh
mẹ con, vợ chồng:
Cha chài
mẹ lưới con câu,
Chàng rể đóng đáy, con dâu ngồi ṇ.
Đây là một
bức tranh sinh hoạt đời thường, đầm ấm không khí gia đ́nh ở Nam
bộ gắn chặt cuộc sống của ḿnh với sông nước bao la. Không ai
nạnh ai, mỗi người một việc, từ cha, mẹ đến rể dâu ai cũng phải
lao động, lao động với một tinh thần hăng say, yêu thích, thể
hiện được sự đoàn kết thương yêu lẫn nhau giữa các thành viên
trong một gia đ́nh.
Hay:
Chiều
chiều ông Lữ đi câu,
Bà Lữ đi xúc con dâu đi ṃ.
Cảnh mẹ
chồng nàng dâu từ xưa đến nay thiên hạ đă nói nhiều. Nhưng ở
đây, ta thấy: mẹ chồng nàng dâu hết sức "ăn ư", mặc dù không nói
ra, nhưng qua cảnh sinh hoạt ta vẫn thấy được nàng dâu và mẹ
chồng rất hợp ư với nhau, ngay cả cha chồng cũng thế. Cả nhà
cùng lao động, không khí gia đ́nh thật đầm ấm vui tươi.
Sông nước là
một đặc trưng không thể thiếu của Nam bộ, mà gắn liền với sông
nước là ghe, xuồng, lưới, câu, ḥ, cầu tre, cầu ván... tất cả đă
trở thành rất quen thuôc với người dân Nam bộ. Cho nên trong ca
dao dân ca Nam bộ, để bộc lộ tâm trạng của ḿnh th́ người dân
nơi đây thường mượn các h́nh ảnh quen thuộc này để ví von, nhằm
bộc lộ những ǵ ḿnh muốn nói, bởi tất cả đó đă trở thành thị
hiếu của người dân nơi đây.
Cùng nằm
trong cái nôi văn hóa của quê hương, đất nước, ca dao dân ca Nam
bộ đă mang đến cho kho tàng văn học dân gian những vần ca dao
ngọt ngào, t́nh tứ. Ca dao dân ca Nam bộ là sản phẩm của sự suy
tư, cảm xúc, sự trải nghiệm của con người, là tiếng nói của
người Việt Nam, đặc biệt là của nguời dân vùng đồng bằng Nam bộ,
góp phần làm phong phú kho tàng văn học dân gian của dân tộc.
TRẦN PHỎNG DIỀU (Theo báo Cần Thơ) |