Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 
CÂY LÚA VIỆT NAM XƯA
 
BS Hồ Đắc Duy
 
28 tháng 05 năm 2009
 
 
Phần I
 
LIÊN QUAN ĐẾN CÂY LÚA TRONG THƯ TỊCH CŨ
 
Cổ nhân nói: Ngũ cốc là sinh mệnh của muôn dân, vật quí báu quan trọng của quốc gia.
 
Xã Tắc còn có nghĩa là quốc gia, Xã là đất chỉ thần đất, Tắc là lúa chỉ thần lúa, trong từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh định nghĩa như sau:
 
Thuở xưa dựng nước tất quí trọng nhân dân. Dân cần có đất ở nên lập Xã để tế thần Hậu Thổ; dân cần có lúa ăn nên lập Tắc để tế Thần Nông. Mất nước thì mất Xã Tắc, nên xã tắc cũng có nghĩa là quốc gia.
 
Lúc tôi còn bé, mỗi khi ăn cơm xong thấy trong bát còn sót lại mấy hột cơm, mẹ tôi thường nói với anh em chúng tôi: “Hột gạo là hột ngọc trời cho, các con phải ăn cho hết không để chừa lại”.
 
Người Việt rất coi quí thóc gạo. Ngay từ thời lập quốc lúa gạo đã được nói đến. Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trang 131 có nhắc đến năm Nhâm Tuất (2879 năm trước công nguyên): Kinh Dương Vương tên húy là Lộc Tục con cháu họ Thần Nông; Thần Nông là người dạy cho dân biết cày bừa, trồng trọt thóc lúa…
 
Gạo nếp được đề cập trong truyện cổ tích Bánh Chưng Bánh Dầy thời Hùng Vương, hàng năm vào ngày hội đều có giữ tục cúng các vua Hùng bằng xôi nhiều màu: xôi trắng, xôi nhuộm đỏ, xôi nhuộm tím có ư nghĩa tượng trưng cho nhiều giống lúa khác nhau.
 
Năm 111 trước Công Nguyên nước ta đã biết sản xuất lúa gạo, dùng làm quân lương. Sử xưa còn ghi lại: “Vào năm Hán Nguyên Đỉnh thứ 6: Mùa đông Dương Bộc nhà Hán đem 9 nghìn tinh binh vây hăm Tam Hiệp, phá Thạch Môn do Lữ Gia dựng lên trên sông và cướp đi thuyền thóc của ta…”
 
Các vua chúa nước ta thường hàng năm có làm lễ Tịch Điền, đó là môt lễ hội do nhà vua đích thân khai mạc.
 
Lễ Tịch Điền thường được tổ chức vào mùa xuân.
 
Trong bộ Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ gồm có 262 quyển thì quyển số 81 dành viết riêng về cày ruộng tịch điền gồm có các chương: Điển lệ cày ruộng tịch điền, công việc cày ruộng tịch điền, lời chúc cho lúa tốt…
 
Nghi thức lễ Tịch Điền được ghi lại dưới thời nhà Nguyễn như sau: “Giao cho bộ Lễ phụ trách. Ruộng Tịch điền gồm 12 mẫu nằm ở trong Kinh thành, phía bắc Ngự Hà. Ở đây có đàn Thần Nông, có đài quan canh để nhà vua ngự xem cày, có hệ thống nhà làm việc, nhà kho”.
 
Trước lễ Tịch điền, quan Phủ doăn Thừa Thiên chịu trách nhiệm chuẩn bị đầy đủ cày, bừa, thóc giống và lễ vật. Trước đó vài ngày, các quan mời vua ra tập cày trước. Sáng sớm ngày hành lễ, đám rước vua đi hành lễ đầy đủ nghi thức của hoàng đế xuất cung. Phường bát âm luôn cử khúc nghinh xuân, tiếp giá.
 
Mở đầu lễ Tịch điền là nghi thức quán tẩy (rửa tay). Tiếp theo là nghi thức tiến tửu (dâng rượu). Lễ tất, nhạc nổi lên. Quan bộ Lễ dẫn vua sang nhà cụ phục thay áo, đội khăn rồi ra ruộng cày. Vua cày xong ba luống th́ trao cày cho quan Phủ doăn và quan Thượng thư bộ Hộ.
 
Sau đó, nhà vua ngự đến đài quan canh chứng kiến các quan chức, hoàng thân cày tiếp. Các hoàng thân, hoàng tử cày 10 luống, quan văn vơ đại thần gồm 9 người, cày 18 luống. Phần c̣n lại dành cho các chức sắc, bô lăo sở tại. Mọi người cày xong, vua lên kiệu về cung ban yến cho các quan. Mùa lúa chín, quan Phủ doăn Thừa Thiên trông coi việc gặt hái cùng với một quan thuộc Bộ Hộ. Lúa gặt về được lựa giống để gieo vào lễ Tịch điền mùa sau. Số c̣n lại được xử dụng cho tế lễ trong Đại Nội, tế giao, tế thần linh và lăng miếu.
 
Ư nghĩa của lễ Tịch điền được vua Thiệu Trị thể hiện trong bài “Thường Mậu quan canh”,  nhân một lần lên đài quan canh xem các quan cày ruộng:
 
Chót vót lầu cao giữa khoảng không
 
Nh́n xa quang cảnh chốn nương đồng
 
Ba đường dẫn lối khuyên cày cấy
 
Năm tháng thương người trọng việc nông.
 
Trong lời chúc cho cây lúa tốt có đoạn :
 
Làm lễ xong, đi đến bên thửa ruộng lớn
 
Dây thừng đỏ, bánh xe sơn màu xanh, và cày,  và đồ mặc, và dây cương ngựa
 
Cầm cái roi ở tay đem giơ lên
 
Người coi việc làm ruộng bưng thúng vàng đựng thóc đồng thóc lục…
 
(Lúa đồng (lúa Minh Xuân, lúa thơm, lúa sản (gạo De An Cựu) lúa móng chim… ) cấy trước mà chín sau (Lúa lục cấy sau mà chín trước, loại lúa giống 60 ngày như: loại lúa Tẻ chín sớm, lúa Tiên ở tình Thái Bình, lúa của Chiêm Thành... loại lúa 80, 90 hoặc 100 ngày như lúa Mạn, lúa Chiêm, lúa hẻo trắng, lúa lăng…)
 
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trang 224: Mùa xuân năm Đinh Hợi (987), vua Lê Đại Hành lần đầu tiên cày ruộng tịch điền ở núi Đọi hay còn gọi là Đội Sơn ở huyện Duy Tiên (Nam Hà), được một hũ nhỏ vàng nhỏ. Năm sau cày ở núi Bàn Hải được một hũ nhỏ bạc nên vua đặt là ruộng Kim Ngân.
 
Sách Việt sử lược cũng có chép sự kiện này. Vào thời Lư, Vua Lư Thái Tông đă nhiều lần tự ḿnh xuống cày. Trang 255 có ghi: mùa Hạ tháng Tư ngày 1 tháng 5 năm Nhâm Thân (1032), vua cày tịch điền ở Tín Hương - Đỗ Động Giang, có nhà nông dâng Vua một cây lúa Chiêm có 9 bông thóc, Vua xuống chiếu đổi gọi ruộng ấy là ruộng Ứng Thiên. Trang 259 ghi như sau: "Mùa xuân tháng 2 năm Mậu Dần (1038), Vua ngự ra cửa Bố Hải cày ruộng tịch điền. Vua sai hữu ty dọn cỏ đắp đàn vua thân tế Thần Nông, tế xong, vua tự cầm cày để làm lễ tự cày. Các quan tả hữu có người can rằng: - Đó là việc của nông phu, bệ hạ cần ǵ làm thế? Vua nói: - Trẫm không tự cày th́ lấy ǵ làm xôi cúng, lấy ǵ cho thiên hạ noi theo? Nói xong vua đẩy cày ba lần rồi thôi.
 
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Lý Thái Tông khôi phục lễ cổ, tự ḿnh cày ruộng tịch điền để nêu gương cho thiên hạ, trên th́ để cúng tôn miếu, dưới th́ để nuôi muôn dân, công hiệu trị nước dẫn đến của giàu dân đông, nên thay!
 
Vua Minh Mạng ra chiếu dụ: ... Từ khi Trẫm lên ngôi, luôn luôn nghĩ đến an dân, nên quan tâm đến việc chính này (Cày ruộng tịch điền"... Vua định ngày lễ Tịch điền tháng 2... và phải xây tại ruộng Tịch điền các dinh thự là Quan Canh (nh́n cày), Cụ phục (mặc áo), đàn Tiên Nông, kho lúa dự trữ để cúng thờ (thần Thương)...
 
Giống lúa cấy trên ruộng tịch điền  được chọn để cho loại gạo ngon dùng vào việc tế lễ, đặc biệt là tế thần nông và thần xă tắc.
 
Lễ cày tịch điền chấm dứt dưới thời vua Khải Định. Xem thêm : http://www.hanam.gov.vn/index.asp?newsID=1595&language=tiengviet  
 
Hiện nay Việt Nam đứng hàng thứ 5 toàn cầu về sản xuất gạo, cũng là một trong ba nhà xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
 
Đến năm 2008, Việt Nam lại đạt sản lượng lúa kỷ lục: vượt 38 triệu tấn, tăng khoảng 2,6 triệu tấn so với năm 2007, và tiếp tục đứng thứ 2 trong thị trường xuất khẩu gạo. Vụ đông xuân 2009 này vừa thu hoạch ở ĐBSCL lại đạt sản lượng cao hơn vụ đông xuân trước, đạt gần tới mốc 10 triệu tấn thóc, mặc dầu diện tích sản xuất có ít hơn, và khoảng 1,5 triệu ha (http://khoahoc.net/baivo/nguyenvanluat/230409-cayluavietnam.htm)
 
Hiện nay lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của nhân loại, cùng với bắp, lúa mì, sắn và khoai tây.
 
Theo sách Chu Lễ, nó đứng đầu trong cửu cốc là 9 thứ hột để ăn được gồm:
 
1/         Tắc: thứ lúa cao, cây dài đến hơn một trượng, là giống lúa chín sớm nhất
 
2/         Thuật: một thứ lúa nếp nhiều nhựa
 
3/         Thử: một loại nếp
 
4/         Đạo lúa dé: một thứ lúa ưa ruộng có nước, mỗi năm chín 2 mùa
 
5/         Ma là mè, có 2 loại trắng và đen
 
6/         Đại đậu: một thứ đậu hột to
 
7/         Tiểu đậu
 
8/         Đại mạch: một loại lúa mì, hột có lông dài
 
9/         Tiểu mạch
 
Trong sách của Lê Danh Phương (1726-1784), nó là một trong 5 hột Ngũ Cốc (Ma, thủ, tắc, mạch, đậu); cũng là 1 trong 3 hột (Tam cốc)  trong sách Vật lý luận của Dương Tuyền đời Tấn gồm: Lương, Đạo, Thúc
 
 Lương là tên chung của Tắc và Đạo. Thúc là đậu.
 
3 loại cốc (hột) này mỗi thứ có 20 giống.
 
Rau, trái cây có 40 giống.
 
3 loại cốc + chung với rau trái gọi là Bách Cốc
 
(không nên nhầm với 100 giống lúa).
 
Trong sách của Lê Danh Phương trích dẫn các sách như Tề dân yếu thuật, Bản thảo của Lý thời Trân, Uyên giám loại hàm, Thông giám của Tư Mã Quang… nói lên nhiều chi tiết về việc cày cấy, gieo trồng, tưới tiêu, luân canh, thời vụ, đồng thời ông mô tả một cách tương đối chi tiết đặc tính của các giống lúa khác nhau kể cả việc so sánh giống lúa ở nước ta và vài vùng ở Trung quốc như Dương Châu, Kinh Châu, Sơn Đông, Giang Biểu…
 
 
 
PHẦN II
 
CÁC GIỐNG LÚA VIỆT NAM XƯA
 
Trong Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An năm 1555 phần nói về Sản vật và Phong tục, ông đã cho những nhận xét về nghề nông, cây lúa, giống lúa và thổ nhưỡng của 2 châu Ô Lý (vùng đất từ Quảng Bình đến một phần tỉnh Quảng Nam) như sau:
 
Huyện Đan Điền liền với phương Nam, cương giới bên ngoài châu Ô. Dân lấy thóc làm giàu, nhà nông dùng trâu đạp lúa, gắng sức nghề nông có dân Triệu Đông, Hoằng Phước, thóc Đơn Quế chất đống như gò…
 
Giống là một trong 4 yếu tố chính quyết định thành bại của việc canh tác trong ca dao đã có câu truyền tụng kinh nghiệm “Nhất nước, nh́ phân, tam cần, tứ giống”.
 
Các giống lúa của Việt Nam thời xưa được mô tả khá chi tiết trong các sách mà Đại Nam Nhất Thống Chí đã trích dẫn trong phần thổ sản như: Lễ Ký Nguyệt Lệnh, Loại Dịch Bộ của Diêu Bồi Khiêm, Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An, Loại Ngữ của Lê Danh Phương, Gia Định Thông Chí của Trịnh Hoài Đức, Nghệ An Phong Thổ Ký của Bùi Dương Lịch…Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ.
 
Ở đây tôi chỉ xin trích dẫn từ 2 tác phẩm:
 
Một nghiên cứu có tính cách cá nhân là của ông Lê Danh Phương, hai là của tập thể: Quốc Sử Quán triều Nguyễn.
 
Lê Danh Phương tự là Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, sinh 1726 tại Thái Bình, cha là Lê Phú Thứ đậu tiến sĩ năm 1724 làm quan tới chức Hình bộ thượng thư.
 
Lê Danh Phương đậu Giải Nguyên năm 18 tuổi, Bảng Nhãn năm 1752, ông được sung vào đoàn sứ bộ Việt Nam qua Trung Quốc yết kiến vua nhà Thanh năm 1761.
 
Ông được xem như một thần đồng và là một nhà bác học nổi tiếng Việt Nam, chức vụ cuối cùng là thượng thư bộ Công.
 
Ông chết năm 1784 lúc 58 tuổi, để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng. Trong lời tựa của sách Loại Ngữ, ông đã nói lên kinh nghiệm khi sọan quyển sách này, một tác phẩm gồm có 9 quyển bao gồm Lý khí, hình tượng, Khu vũ, Điển vựng, Văn nghệ… Phẩm vật. Cuốn sách mà chúng tôi xin trích dẫn nói về cây lúa Việt Nam xưa nằm trong quyển Phẩm vật.
 
Bộ Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn biên soạn gồm có 4 tập. Các giống lúa Việt Nam được các sử thần ghi chép trong tập 1, quyển 1, phần Phủ Thừa Thiên đoạn “Loại Cốc”.
 
Lê Danh Phương sau khi bàn luận đã dẫn chứng trong các cổ thư của Trung Quốc nói đến Hoàng Đế là người đầu tiên dạy cho dân biết hấp gạo làm cơm, nấu gạo làm cháo.
 
Sách Cổ Kim Chú năm 123 đời vua Hán An Đế có nhận xét rằng: “Lúa tốt mọc ở Cửu chân (Thanh hóa), 150 gốc mà được 768 bông.
 
Ông còn lưu ý khí hậu vùng miền Nam: “Nửa năm có mưa, nửa năm không mưa, từ tháng 4 đến tháng 9 mỗi ngày sau 12 giờ trưa thì trời đổ mưa, từ tháng 10 đến tháng 3 một giọt mưa cũng không có”.
 
Lê Danh Phương cho biết lúa đạo hay đồ là tên thông dụng của lúa canh lúa nọa. Lúa canh là thứ gạo người ta thường ăn. Lúa nọa là nếp.
 
Ruộng nước ta thì có 2 thứ: Ruộng mùa thu gọi là ruộng mùa, ruộng mùa hạ gọi là ruộng Chiêm (hạ điền).
 
Thóc có 2 thứ: Lúa canh là lúa tẻ, lúa nọa là nếp. Ta thường nói nôm na có Tẻ có Nếp
 
Lúa Canh thích hợp với ruộng Chiêm có 8 loại như :
 
Lúa Sài Đường: cây mềm yếu, hột lúa màu đỏ thân dài, hai đầu nhọn, vỏ dày, hột gạo màu trắng, chín sớm, nấu cơm dẻo.
 
Lúa Bồ Lộ: Cây lúa cứng mọc thẳng, hột lúa màu trắng, thân nhỏ tròn, vỏ mỏng, hột gạo có 2 màu đỏ trắng, chín không sớm mà cũng chẳng muộn, cơm cứng.
 
Lúa Thạch rất dễ sống, trồng nơi nào cũng được, cây cao thẳng bông chia ra mấy gié, chín muộn, hột gạo trắng, rất nhiều nhựa, mềm dẻo, giã và xay bột được.
 
5 giống lúa Chiêm: Chiêm Di, Dự cơm mềm dẻo
 
Loại Chiêm Hoàng cơm cứng, Chiêm Bảo cấy ở ruộng thấp nhiều nước, Chiêm Hâm…
 
Lúa Canh thích hợp với ruộng mùa gồm có 23 giống như:
 
Lúa Bát Xuân, lúa Thông gồm có: lúa Ô Canh và Sùng Canh, gạo có 2 loại màu trắng và tím.
 
Lúa Bảo Thế, Từ Bồn, Bát Ải, Bát Lại, Bát Sinh, Bát Tu, Lúa tẻ chín sớm, cây và gạo đều có mùi thơm, lúa Hiên, lúa tam nguyệt ở Nghệ An.
 
Lúa Điền kê (lúa Ếch) trồng vụ chiêm, vụ mùa đều đươc, trồng tháng 4 gặt tháng 7, hột lúa dài, hột gạo trắng, nhỏ… có mùi thơm, vị hậu.
 
Lúa Mộ trồng vùng đất núi như Thái Nguyên, canh tác bằng cách phá rừng, đốt cây lấy tro bón ruộng… trồng tháng 2, gặt tháng 6…
 
Ông còn ghi chép cẩn thận chi tiết các giống lúa Chiêm Thành, cũng như các giống lúa lai tạo của Chiêm Thành và nước ta.
 
Năm 998-1022, nhà Tống sai sứ sang nước Chiêm Thành lấy 3 vạn hộc lúa phân ra cấp cho các nơi nên mới có giống lúa Cái Hạ Bạch, lúa này sinh ra 4 loại gọi chung là Lúa Tiên, đặc điểm của loại lúa này là chín sớm.
 
Về thời gian gieo gặt, ông đã thống kê được một số chi tiết rất đáng quí của các cây lúa Việt Nam xưa mà bất cứ nhà khoa học nào nhất là các nhà nông nghiệp cũng phải giật mình.
 
Lúa Thiền Minh chỉ có 63 ngày là có thể thu hoạch; lúa Tiễn Tử loại hột nhỏ chỉ trồng 60 ngày, có loại chín trễ 80 đến 100 ngày, phần lớn là giống của nước Chiêm Thành.
 
Ở Thái bình có giống lúa Tiên chỉ trồng trong 60 ngày gọi là Lúa Đà Lê Kiếm, lúa Xích Hồng tiên, Bát Nguyệt Tiên đều là các giống ngắn ngày, Lúa Tuyết Lý Đống, lúa Lăng (Quảng Trị) cũng là lúa 60 ngày.
 
Lúa Tái thục là giống lúa ngọn đã gặt rồi mà gốc vẫn lên cây kết hột một lần nữa (lúa tái liêu - gọi là lúa gặt 2 lần).
 
Trong sách Đại Nam Nhất Thống Chí có ghi một loại giống lúa cực ngắn ngày, đó là Lúa Câu ở vùng Thừa Thiên – Huế mà Lê Quí Đôn cũng không biết tới. Thời gian gieo gặt chỉ có 40 ngày.
 
Đặc điểm của các giống lúa ngon, quí, chất lượng tuyệt hảo gọi là lúa Cống dùng để tiến vua có 3 loại chính: lúa De An Cựu hay còn gọi là lúa hương, lúa Minh Xuân và lúa móng chim (Vĩnh Long).
 
Biểu tượng cho cây lúa Việt Nam là cây lúa tẻ (lúa Canh) được vua Minh Mang cho khắc hình tượng vào Cao Đỉnh, trên quốc huy cây lúa là một yếu tố chính nhưng không rơ giống lúa nào. (http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c_huy_Vi%E1%BB%87t_Nam)
 
 
Mời các bạn đọc các phần tiếp sẽ đăng:
 
 
            phần III: Kinh nghiệm gieo trồng, thu hoạch, bảo quản, kho đụn… của các giống lúa VN xưa,
 
phần IV: Cây lúa VN xưa - Ôn Cố Tri Tân : Lai tạo, bảo quản nguồn gene, phát triển tiềm năng của cây lúa VN…
  
HỒ ĐẮC DUY
 
     Cuối tháng 4 năm 2009

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17