"Vượt
biển" là một truyện thơ dân gian Tày, Nùng, dài chừng 1.000 câu thơ.
Tiếng Tày, Nùng gọi là "Khảm hải". Truyện được lưu truyền rộng rãi ở
vùng xung quanh hồ ba bể, tỉnh Bắc Cạn. Các thầy cúng xưa nay vẫn đọc "Vượt
biển" trong những buổi lễ cầu hôn, cầu mát nghe rất não nùng, ai oán.
Có thể tóm tắt truyện thơ "Vượt
biển" như sau:
Có hai anh em nhà kia mồ côi, lúc nhỏ rất yêu thương nhau. Sau khi
người anh lấy vợ, rồi giàu có. Người anh trở nên nhạt nhẽo và bỏ mặc em
sống nghèo đói lam lũ, rách rưới. Chị dâu thương tình vá áo cho đứa em
chồng. Lưng áo rách của em đã in những ngón tay chàm của chị dâu. người
anh đi làm về nhìn thấy vết tay chàm trên lưng áo em, ghen tức.
"Chém đầu em treo ngọn cọ,
Chặt chân em treo ở ngọn vông".
Em chết đau đớn, oan khuất. Linh hồn không nơi lưng tựa, bơ vơ. Rồi
bị các quan slay ở âm phủ bắt làm sa dạ sa đồng - phu chèo thuyền trên
biển ma. Mỗi lần vượt
biển là phải trải qua một
hải trình dài 12 rán nước, đay thuỷ quái, mặt biển réo sôi. Các sa dạ sa
đồng lúc thì cất tiếng than hãi hùng, lúc thì hối hả gọi nhau chèo gấp.
Lúc các slay lên bờ kéo vào chợ Đường Chu (chợ xứ ma của Diêm Vương), sa
dạ ngồi trên bờ biển than khóc, khiếp sợ nghĩ đến cảnh phải vượt
biển trở lại tiếp theo...
Phân tích đoạn thơ "Chèo thuyền vượt
biển"
Ở dương gian, người em trải qua nhiều cái khổ: mồ côi, cô đơn, đói
rách, bị anh giết chết một cách dã man và oan uổng. Xuống địa ngục lại
trở thành sa dạ sa đồng, phải trèo thuyền vượt qua biển dữ, biển ma. Hải
trình là 12 rán nước, mỗi rán nước là một cửa tử, rùng rợn vô cùng. Phép
liệt kê tăng cấp cùng với tiếng than khóc, tiếng biển sôi, biển réo tạo
nên cảnh chết vô cùng hãi hùng! Rán thứ chín "mặt biển nước sôi gầm
réo", rán thứ mười "nước trời băng băng, làm cho con thuyền "cánh dầm
tung bốn góc". Rán thứ mười một "sóng đuổi sóng xô
đi", v.v… Thuỷ quái, nhất là con "ngọ lồm" - quỷ biển ma - đón đường cắn
xé sa dạ sa đồng. Phu chèo thuyền kinh hãi, cất tiếng khóc than:
"Biển ơi, đừng giết tôi
Nước hỡi, đừng lôi lấy thuyền".
Họ gọi nhau "chèo mau lên, chèo cố" giữa biển ma mịt mù và cái chết
nơi cõi âm bủa vây.
Các slay - quan quân lên bờ, có người "ôm hoa", "ôm hương", có người
"cầm nón", "cầm ô", "xách giầy hoa...giầy đẹp", gánh gồng bao của quý
"đi lễ người". Còn các sa dạ sa đồng, hồn ma của người em bất hạnh ngồi
trên bờ biển càng cảm thấy cô đơn, nghĩ đường về nhà kinh hãi:
"Chèo thuyền qua lò than, qua biển
Nhìn đường về, nước cuộn ầm rung".
Hết rán nước này qua rán nước khác, chèo thuyền đi rồi lại chèo
thuyền về trên biển ma - kết cấu chuyển dịch nhằm diễn tả những kiếp
người luân hồi đau khổ. "Vượt
biển" qua giọng đọc và khấn cầu của thầy cúng, ai đã một lần được
nghe mới súc động trước âm điệu thê thiết não nùng, mới cảm thấy cái
khủng khiếp của bể trầm luân và thương sót với những kiếp người đau khổ,
bất hạnh. Truyện thơ "Vượt
biển" là tiếng kêu đau thương từ cõi âm vọng về cõi dương. Đó là nội
dung nhân đạo của nó.