NHỮNG BIẾN ĐỔI
TRONG VĂN HÓA VIỆT NAM
GS Nguyễn Thanh
Liêm.
Văn hóa là ǵ?
Một
cách tổng quát có thể hiểu văn hóa là lối sống (life style) của một
nhóm người ở trong một khu vực địa lư nào đó hay rộng hơn là của cả
một dân tộc trong một quốc gia. Có xă hội loài người là có văn hóa
v́ có những sinh hoạt có ư thức của con người. Ngôn ngữ, tư tưởng,
tín ngưỡng, các hoạt động kinh tế, các kỹ thuật, các sinh hoạt nghệ
thuật, cách xử sự ở đời, cách ăn mặc, các thứ lễ nghi...tất cả mọi
hoạt động của con người trên cơi đời này đều thuộc về văn hóa.
Khi mở mắt chào đời ta đă được đặt trong một
cộng đồng, một xă hội, một nền văn hóa rồi.
Văn hóa cổ
truyền Việt Nam
Khi nói đến văn
hóa Việt Nam chúng ta nghĩ ngay đến nền văn hóa của người dân Việt
từ thuở xa xưa nào đến giờ và từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, với một
số những đặc tính nào đó gắn liền với con người và xă hội văn hóa
Việt, làm cho nó khác biệt với những nền văn hóa của các dân tộc
khác trên thế giới. Nó bao gồm tiếng Việt, tư tưởng Việt, tôn giáo
tín ngưỡng Việt, lễ nghi Việt, quần áo thức ăn Việt, vv.. V́ mang
những đặc tính rất đặc biệt của dân tộc Việt Nam từ nhiều năm qua
nên văn hóa dân tộc thường được đồng hóa với văn hóa cổ truyền hay
truyền thống văn hóa Việt. Đó là nền văn hóa mà hầu hết người Việt
Nam chúng ta đều nghĩ rằng nó là của chung của chúng ta do tổ tiên
ta dựng nên từ hơn bốn ngàn năm qua.
Văn hóa biến
đổi Những người thiết tha với văn hóa
Việt Nam, muốn làm cái ǵ tốt đẹp cho văn hóa nước nhà thường có thể
nghĩ đến một mặt bảo tồn nền văn hóa cổ truyền của dân tộc và mặt
khác phát huy hay tân tiến hóa nền văn hóa đó để xây dựng nên một
nền văn hóa mới. Và khi nói đến bảo tồn hay phát huy hay tân tiến
hóa là phải nói đến sự biến đổi của văn hóa. Không có một nền văn
hóa nào đứng yên một chỗ, không có một nền văn hóa nào có thể giữ
nguyên trạng thái của nó từ buổi ban đầu cho đến bây giờ dù người ta
có cố bảo tồn duy tŕ nó măi. Kết quả của những
công tŕnh nghiên cứu về văn hóa của các nhà văn hoá nhân loại học
(cultural anthropology) cho thấy không có một nền văn hóa nào hoàn
toàn giữ được nguyên vẹn những đặc tính của nó qua thời gian.
Bất cứ nền văn hóa nào, dù ở trong những xă hội đóng kín không có
những tiếp xúc với bên ngoài đi nữa, vẫn ít nhiều thay đổi
theo thời gian. Nhịp điệu biến đổi có thể
từ rất nhanh, đến nhanh, hay chậm và rất chậm, tùy
theo hoàn cảnh, tùy theo trường hợp. Phần
nhiều các nền văn hóa đều thay đổi rất chậm nếu không có những
va chạm/xung đột lớn lao như sự va
chạm/xung đột giữa văn hóa Á Đông và văn minh Aâu Tây hồi thế kỷ
XIX-XX. Nhưng dầu chậm nó vẫn phải thay đổi mặc dầu trong đà biến
đổi tự nhiên của văn hóa bao giờ cũng có khuynh hướng chóng chọi lại
không nhiều th́ ít.
Sự biến đổi
trong văn hóa Việt Nam
Văn
hóa Việt Nam không tránh được những định luật thay đổi tự nhiên đó
theo thời gian và không gian. Từ trước
thời Bắc Thuộc cho đến cuối thế kỷ XX nền văn hóa Việt Nam đă có
nhiều thay đổi theo thời gian. Một số
những tập tục xưa được ghi chép trong sách sử bây giờ không c̣n tồn
tại nữa, hoặc chỉ c̣n sót lại trong các thế hệ trước đây ở một ít
vùng quê xa xôi mà thôi như tục xăm ḿnh, ăn trầu, nhuộm răng chẳng
hạn. Ngược lại có những thói quen mới chỉ xuất hiện gần đây chớ
không có trong xă hội xưa như thói quen uống cà phê buổi sáng hay
bắt tay khi chào nhau.
Tư tưởng, khoa học, kỹ thuật thay đổi nhiều từ
khi có công cuộc đô hộ của người Pháp hồi cuối thế kỷ XIX.
Trong quá tŕnh bành trướng lănh thổ từ Miền Bắc vào Miền Nam nền
văn hóa Việt Nam cũng có nhiều thay đổi theo không gian, theo môi
trường sinh sống, từ thức ăn, quần áo, đến cách phát âm tiếng Việt,
làng mạc, tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật, tâm lư, tư tưởng, vv...
Về
thức ăn chẳng hạn. Người Bắc có bún chả
trong khi người Nam th́ có bún thịt nướng tuy cả hai thứ đều dùng
những mẫu số chung là bún, thịt nướng,
rau sống và nước mấm, chỉ khác nhau ở phần sắp xếp tŕnh bày. Người
Bắc th́ để chung thịt nướng vào trong
chén với nước mấm c̣n bún với rau th́ để riêng cho khách tùy nghi,
trong khi người Nam để chung tất cả các thứ vào trong cái tô với một
chén nước mấm để riêng để khách hàng tùy nghi chan vào. Nếu lấy bún
với nước lèo làm mẫu số chung th́ ta có
bún thang bún riêu bún ốc của người Bắc, bún ḅ Huế của người Trung,
và bún mấm với bún nước lèo của người Nam. Nước
lèo là tiếng
Nam trong khi nước
dùng là tiếng Bắc, tuy hai tiếng chỉ cùng một thứ nước dùng cho các
loại bún nói trên.
Cách ăn mặc cũng có chỗ khác nhau từ
chiếc áo tứ thân của người Bắc đến chiếc áo bà ba của người Nam. Đàn
ông miền Nam theo Tây sớm hơn trong khi
nhiều người dằn ông miền Bắc vẫn c̣n mặc áo dài theo xưa. Hồi thập
niên 1950 ở Đại Học Văn Khoa và Cao Đẳng Sư Phạm Saig̣n người ta
thấy mấy cụ giáo sư Cử/ Tú từ miền Bắc vào (cụ B́nh, cụ Nghinh, cụ
Quỳnh, cụ Chiểu, trừ cụ Nghè Giác) vẫn mặc áo dài khăn đóng đi dạy
học trong khi các giáo sư lớn tuổi miền Nam (thầyï Tấn, thầy Lúa,
thầy Trụ, cụ Sển...) đều ăn mặc theo Tây. Về phương
diện ngôn ngữ tuy cả ba miền đều sử dụng một thứ ngôn ngữ
chung như nhau nhưng trên phần lớn ngữ
vựng thông dụng cho cả ba miền c̣n có những tiếng địa phương đặc
biệt chỉ xài cho một vùng hay một địa phương nào đó thôi. Có khi
cùng một từ ngữ nhưng ư nghĩa lại khác nhau tùy
theo miền. Cái ḥm đối với người miền
Nam là cái hàng để
tẩn liệm người chết trong khi người Bắc dùng chữ đó với ư nghĩa của
cái rương đựng đồ dùng của người miền Nam.
Củ sắn của ngưồi Bắc là củ khoai ḿ của người
Nam.
Những tiếng xưng hô trong gia đ́nh họ hàng cũng
có chỗ khác biệt. Tiếng cô, chú, bác giữa
người
Nam và người Bắc
rất khác nhau cũng như những tiếng d́ dượng th́ chỉ có người miền
Nam và một số người miền Trung dùng đến.
Khác biệt rơ ràng nhất là cách phát âm tiếng Việt của mỗi vùng, mỗi
địa phương. Người miền Bắc phát âm đủ cả năm dấu, nhất là phân biệt
được rơ ràng dấu hỏi và dấu ngă, phân biệt được phụ âm t và c ở cuối
chữ (như phát và phác, phút và phúc...), nhưng lại không phân biệt
được hai phụ âm tr và ch (trân châu và
chân trâu chẳng hạn). Phần đông người miền Nam đều phân biệt các phụ
âm tr và ch nhưng không phân biệt hỏi ngă
và các phụ âm t và c ở cuối chữ. Đối với người b́nh dân miền Nam th́
người Huế phát âm các dấu sắc hỏi ngă đều như dấu nặng, và người
Quảng Nam/Quảng Ngăi th́ phát âm những nguyên âm a như ơ và ơ như ô.
Trên
phương diện tôn giáo, tín ngưỡng, mặc dầu hầu hết người Việt Nam đều
ít nhiều chịu ảnh hưởng của tam giáo và
đều xem sự thờ cúng tổ tiên như một tôn giáo chính của người Việt
Nam nhưng riêng ở miền Nam th́ ngoài căn bản tín ngưỡng đó c̣n có
thêm những tôn giáo tín ngưỡng khác hơn chẳng hạn như Cao Đài giáo,
Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật Giáo Ḥa Hảo. Ở địa hạt
nghệ thuật hát cải lương và câu ca vọng cổ là cái ǵ rất đặc biệt
của người miền
Nam trong khi hát
chèo hát quan họ th́ chỉ có người Bắc mới biết.
Tiểu thuyết (như tiều thuyết của Hồ Biểu Chánh chẳng hạn) hay nói
chung văn chương miền Nam có những sắc thái đặc biệt của người miền
Nam mà chỉ những người sanh trưởng ở vùng đồng bằng sông Củu Long
mới có thể thưởng thức được cái hay cái thích thú trong đó.
Đặc biệt là tổ chức làng xă ở trong
Nam không giống tổ
chức xă thôn ở ngoài Bắc. Ở ngoài Bắc các xă thường được bao bọc bởi
lũy tre xanh và có một cái cổng vào làng.
Làng này cách biệt với làng kia bằng
những ranh giới có thể nhận biết dễ dàng. Ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long làng này tiếp nối với làng khác, không
có cổng làng, không có lũy tre làm ranh giới.
Nếu không phải là người ở tại địa phương th́ khó
mà biết được ranh giới giữa làng này với làng khác. Tổ chức
hành chánh địa phương cũng khác với miền Bắc. Ở đây mỗi làng, dưới
thời Pháp thuộc có ban hội tề gồm hương cả, hương chủ, hương sư,
hương trưởng, hương quản...và chánh lục bộ, lo về việc cai trị, hành
chánh trong làng. Ngoài ban hội tề c̣n có các vị bồi, bái, kề
hiền... là những người lớn tuổi có nhiều uy tín trong làng thường
giữ vai tṛ như cố vấn nhất là trong những việc tế tự lễ nghi. Ở
miền Nam thời Pháp thuộc có những chức vụ không thấy có ở miền Bắc
như Thầy Cai Tổng hay ông Hội Đồng. Tóm
lại từ châu thổ sông Hồng Hà đến châu thổ sông Cửu Long lối sống của
người dân Việt cũng như tổ chức xă hội Việt Nam đă có nhiều biến
đổi.
Điều kiện cần
để có biến đổi
Tại sao có những biến đổi như vậy?
Môi trường sinh sống mới và sự tiếp xúc với
những nền văn hóa khác là những điều kiện cần yếu đưa đến những biến
đổi đó. Từ khi Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa và các chúa Nguyễn
nối tiếp, xây dựng nên Đàng Trong th́ bắt đầu có một nhánh văn hóa
Việt biến dạng dần dần trở thành một chi nhánh văn hóa (subculture)
có phần khác biệt với văn hóa cổ truyền ở miền Bắc. Sự cắt đứt liên
hệ chính trị giữa Đàng Trong (Chúa Nguyễn) và Đàng Ngoài (Chúa
Trịnh), sự phân tranh Nam Bắc và chia đôi lănh thổ đă là cơ hội để
tạo nên một chi nhánh văn hóa mới xa dần văn hóa cổ truyền.
Đến thế kỷ XVII khi Họ Nguyễn chiếm hết cả miền
Trung và rồi một số người miền Trung vào khai phá miền
Nam khẩn hoang lập
ấp xây dựng nên miền Nam th́ một chi nhánh văn hóa khác nữa lại
thành h́nh.
Chi nhánh văn hóa mới này lại càng cách biệt với
văn hóa gốc ở miền Bắc hơn nữa. Về phương diện địa lư và môi
trường sinh sống, khác với những vùng đất đai chật hẹp khô cằn nằm
giữa núi non và ven biển, miền Nam là cả một vùng đất hoang mênh
mông chằng chịt sông rạch với không biết là bao nhiêu cá tôm rau cỏ
cây trái. Đất đai lại rất ph́ nhiêu do
phù sa mang lại. Khẩn hoang lập nghiệp tuy có cực nhọc nặng nề nhưng
kết quả thu lượm dễ dàng và khả quan, đời
sống tự nhiên ung dung thoải mái. Vùng mới lập này tuy có ít nhiều
liên hệ với Chúa Nguyễn nhưng triều đ́nh ở xa, tổ chức cai trị không
chặt chẽ tùy thuộc ở triều đ́nh Huế (chế độ tổng trấn), thêm vào đó
c̣n có những biến cố chính trị làm thay ngôi đổi chủ nhiều lần cho
nên tương đối có nhiều tự do địa phương. Nỗ lực chính của những thế
hệ đầu tiên vào đây là khai khẩn đất đai,
thiết lập đời sống mới nhiều hơn là trau dồi kinh sử để lănh lấy măo
áo chức tước của triều đ́nh. Đời sống dễ dăi, tương đối thừa thăi về
vật chất và tự do về tinh thần, đă không bắt buộc người dân Việt ở
đây phải duy tŕ hay theo đúng những phong tục tập quán đă được mang
vào Đàng Trong từ mấy thế kỷ trước. Sự lỏng lẻo của khuông phép từ
thế hệ này sang thế hệ khác đă tạo nên một nếp sống mới, một tính
t́nh và nhân cách mới, rộng răi và phóng khoáng, với tâm hồn chân
thật, chất phác, mở rộng để đón nhận những cái mới lạ hơn là khép
kín để duy tŕ những cái đă có. Ngoài hoàn cảnh địa lư nói trên,
trong quá tŕnh mở rộng đất đai về phương
Nam chi nhánh văn hóa Đàng Trong đă phải tiếp xúc va chạm với những
nền văn hóa khác tạo nên điều kiện rất cần cho sự biến đổi về văn
hóa. Có tiếp xúc với văn hóa khác là có cơ hội
để nh́n thấy lối sống, cách hoạt động, sự tín ngưỡng, lề lối suy tư
của một giống người khác. Từ đó có thể có
những thích nghi với nhau hay vay mượn lẫn nhau ít nhiều từ tập
quán, kỹ thuật, đến tín ngưỡng và nghệ thuật. Từ thế kỷ XVII
người Đàng Trong đă có cơ hội gần gũi với
văn hóa Chiêm Thành, đă nh́n thấy và hiểu biết lối sống của người
dân Chàm. Sau đó sang thế kỷ XVIII người Việt khi bành trướng lănh
thổ về miền Nam lại có dịp sống bên cạnh người Miên và người Trung
Hoa (Minh Hương, Triều Châu). Và gần đây hơn từ
thế kỷ XIX người Việt ở đây lại có nhiều dịp để biết đến đạo Thiên
Chúa cùng văn minh Tây Phương do người Pháp mang đến. Có thể
nói miền Nam cũng na ná như xứ Mỹ, nó là
một xă hội mới thành h́nh với nhiều chủng tộc sống lẫn lộn trong đó
và với một nền văn hóa ít nhiều pha trộn đủ thứ. Nó như cái “melting
pot” hay cái “salad bowl” của Việt Nam. Nó mang
rất ít tính chất cổ truyền của nền văn hóa gốc.
Điều kiện đủ để
có biến đổi
Sự gặp gỡ, tiếp xúc giữa các nền văn hóa thật ra
chỉ là điều kiện cần mà thôi chớ chưa phải là điều kiện đủ để cho sự
vay mượn, học hỏi xảy ra. Trường hợp của
bốn bộ lạc lân cận trên vùng Nilgiri (Ấn Độ) chẳng hạn, cho thấy tuy
có tiếp xúc văn hóa với nhau nhưng bốn bộ lạc khác nhau này không hề
vay mượn nhau tí nào trong lối sống của họ. Các nhà văn hóa
nhân loại học gọi trường hợp trên đây là “kinh tế, xă hội cọng sinh”(economic
and social symbiosis) nghĩa là cùng sống với nhau về phương diện xă
hội và kinh tế mà thôi nhưng không vay mượn nhau hay thích nghi với
nhau về văn hóa (acculturation). Điều kiện đủ để đưa đến vay mượn và
thích nghi văn hóa là sự có mặt của những yếu tố sau đây: (1) tinh
thần khai phóng của người vay mượn, (2) sự tự do chấp nhận cái mới
lạ của người vay mượn, và (3) sự lợi ích của những ǵ được vay mượn
học hỏi. Văn hóa không thay đổi nếu các thành
phần trong nền văn hóa đó không có tinh thần cởi mở, không chấp nhận
những cái mới lạ của nền văn hóa khác. Mặt khác dù các thành
phần chấp nhận những cái mới lạ của văn hóa khác nhưng không có tự
do để học hỏi, thực hiện th́ văn hóa cũng không có cơ hội thay đổi.
Có thể v́ luật lệ cứng rắn của quốc gia, có thể v́ tính khắt khe của
phong tục tập quán mà người ta không có đủ tự do để học hỏi và thực
hiện điều ǵ mới lạ trong cuộc sống. Sau hết người ta chỉ học hỏi
vay mượn khi nào điều người ta muốn học hỏi vay mượn đó đáp ứng được
nhu cầu sinh sống của con người. Đây không phải là những đ̣i hỏi căn
bản ở hạ tầng sinh lư (primary drives) như đói, khát, làm t́nh...mà
là những thôi thúc ở gia tầng cao hơn (secondary drives) như phẩm
chất của đồ ăn thức uống, phẩm chất và sự tiện lợi của loại đồ dùng
nào đó, và cao hơn nữa là những nhu cầu tinh thần như tôn giáo tín
ngưỡng, nghệ thuật, vv...
Thích ứng với
môi trường: sinh tồn và tiến hóa
Những điều kiện
trên đây cần phải có đủ th́ văn hóa mới có thể thay đổi được.
Người Việt
Nam trong quá
tŕnh bành trướng lănh thổ và định cư vào Phương Nam đă có đủ những
điều kiện ghi trên.
Họ có tinh thần rộng răi khai phóng, không mù quáng tôn sùng cổ
nhân, không khép kín chật hẹp hay bế quan tỏa cảng. Họ có ít nhiều
tự do chớ không bị chặt chẽ ràng buộc bởi luật lệ cứng rắn của triều
đ́nh hay tập quán khắt khe của xă hội. Khi đă có đủ những điều kiện
cần và đủ th́ tất nhiên văn hóa phải thay đổi
theo lối sống thay đổi của con người ở vùng đất mới mẻ này.
Như vậy có thể nói một cách tổng quát là
người Việt Nam có một nền văn hóa chung (general culture) là văn hóa
Việt Nam (Vietnamese Culture), và dưới nền văn hóa chung đó có
những chi nhánh văn hóa (subculture) như chi nhánh văn hóa sông
Hồng, chi nhánh văn hóa miền Trung, chi nhánh văn hóa vùng đồng bằng
sông Cửu Long. Các chi nhánh văn hóa có cùng một số đặc tính xem như
cùng mẫu số chung nhưng trên mẫu số chung
đó vẫn có những nét đặc thù khác biệt của mỗi vùng hay mỗi miền.
Những khác biệt này là những biến đổi tự nhiên
của văn hóa Việt
Nam qua bao nhiêu
thế hệ và qua quá tŕnh bành trướng lănh thổ, tiếp xúc với nhiều nền
văn hóa khác.
Biến đổi để thích ứng với môi trường và hoàn
cảnh mới, đó là điều kiện cần yếu để một nền văn hóa sinh tồn và
tiến hóa.
Ư kiến kết thúc
Những người làm
chính trị cũng như những nhà làm văn hóa, hay nói rộng ra hơn, tất
cả những ai thiết tha với nền văn hóa nước nhà, cần phải nh́n thấy
sự khác biệt giữa những chi nhánh văn hóa cũng như những lư do đưa
đến sự khác biệt đó. Nhận biết như vậy không phải để cổ vơ cho sự
chia rẽ hay gây tinh thần kỳ thị địa phương mà là để có thể đi đến
tinh thần đa nguyên đa văn hóa (cultural pluralism). Tinh thần này
đ̣i hỏi người ta phải nh́n thấy và chấp nhận sự khác biệt giữa các
nền văn hóa hay giữa các chi nhánh văn hóa với nhau.
Từ sự chấp nhận khác biệt đó người ta mới có thể
hiểu nhau và cọng tác với nhau lâu dài và hữu hiệu được.
Ngược lại nếu phủ nhận sự khác biệt để đi đến cái nh́n thiên lệch là
chỉ có văn hóa của ḿnh là tốt nhất th́ khó có thể tránh được hậu
quả tai hại là sẽ bị rơi vào một h́nh thức nào đó của chủ nghĩa
“chủng tộc độc tôn” (ethnocentrism) và tinh thần kỳ thị chủng tộc
hoặc một h́nh thức kỳ thị nào khác. Sự đoàn kết quốc gia cũng như sự
thống nhất ư chí để làm một việc lớn lao
nào cũng phải tựa trên tinh thần đa nguyên, đa văn hóa.
Phải khởi sự bằng sự chấp nhận những khác biệt
của người khác cái đă rồi mới có thể đi đến những cuộc đối thoại
thông cảm xây dựng và có hiệu quả thật sự. Hơn nữa, muốn dân
tộc tiến bộ, muốn hiện đại hóa xă hội, cần phải biết rơ những điều
kiện cần và đủ để làm cho văn hóa biến đổi theo
chiều hướng tiến bộ chung của nhân loại. Đó là những điều kiện đă
đưa xă hội Miền Nam đến chỗ giàu có và dân Miền Nam đến chỗ thịnh
vượng, hạnh phúc hơn xă hội Miền Bắc như đă thấy ở phần trên.