Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 

nguồn: daichung.com

BẢO TỒN VĂN-HÓA
TỪ MIẾNG TRẦU ĐẾN TRẦU VÀ RƯỢU

(T́nh Trai Gái/ HÀM - Đạo Vợ Chồng/HẰNG)

Nguyên-Thái Nguyễn Văn-Thắng

Dân Tộc Việt-Nam ta có tục Ăn-Trầu từ rất lâu, có lẽ từ thời Tổ Tiên thuần-hóa súc vật và cây cối khi mở đầu giai-đoạn nông nghiệp Ḥa- B́nh (Tên một tỉnh tại miền Bắc Việt Nam) khoảng 15.000 trước Tây Lịch (1).Về sau, tiền nhân mới dùng chữ viết ghi lại sự tích Trầu Cau để mô tả sự liên hệ giữa Lá Trầu, miếng Cau và Vôi. Sự tích này bắt nguồn từ các thời Vua Hùng, thể hiện lên t́nh gia-tộc thuộc Họ Hồng Bàng, nước Văn-Lang ngày xưa (2).

Suốt mấy ngàn năm, chẳng những Trầu Cau thông dụng trong các giao tiếp giữa mọi người, cũng lại được dùng kèm với rượu trắng để cúng tế nữa. Từ những nghi thức quan trọng nhất như Tế, Lễ, Tết, Cưới, Hỏi..., Trầu Cau cũng được dùng để mời mọc thông thường phổ cập trong dân giă, đôi khi chỉ cốt để mào đầu một câu chuyện:

 “Miếng trầu là đầu câu chuyện”

Khởi đầu của bước đường Dân-Tộc, không gợn chút dục-vọng, chỉ là vô-tư (trạng-thái đầu của vô-vi?). Ta thấy điều đó trong bài đồng-dao về ông Tiên:

“Ông tiển Ông Tiên,
Ông có đồng tiền,
Ông giắt mái tai
Ông cài lưng khố
Ông ra hàng phố
Ông mua miếng trầu
Ông nhai tóp tép...”

Têm trầu là quệt một ít vôi trên lá trầu, cuốn tṛn, gài lại bằng cuống lá đó, kèm bên cạnh một miếng cau (đă tước vỏ nhưng c̣n hột), đôi khi c̣n có cả miếng vỏ cây chay nữa. Người ăn trầu sẽ bỏ bớt hột hay không, tùy sở thích. Gom tất cả những thứ này lại để ăn ta gọi là “miếng trầu”. Nói là “ăn” nhưng lại nhả bă và nhổ “quưt trầu”  (Tuy nhiên miệng cũng có hấp thụ một ít nước trầu) vào ống nhổ.

Tục nhuộm răng đen (là một tiến tŕnh rất cầu kỳ) và ăn trầu c̣n dự phần trong “y-khoa pḥng ngừa” và đó là một trong những nét văn-hóa đặc thù của Tộc Bách Việt ta từ rất lâu đời (3). Thế nên, trong lời hiệu triệu tướng sĩ đánh quân Thanh, Vua Quang-Trung viết:

“Đánh cho để tóc dài, đánh cho để đen răng...”

Ngày xưa, người phụ nữ Việt Nam đă kỹ càng trong việc nhuộm răng đen rồi lại ăn trầu cho má hồng thêm nữa th́ thật tuyệt, nhưng cô ta hơi khó tính đấy:

“Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
Bơ công trang điểm má hồng răng đen.”

Nếu dùng người đẹp này vào kế-mỹ-nhân th́ dẫu cho Hồng Thừa Đào quyết trung thành với nhà Minh mà rồi cũng phải đầu hàng (nhà Thanh) mà thôi (4).

Mời trầu là phải trực tiếp gặp mặt chớ không “ăn trầu cách mặt”:

“Tiện đây ăn một miếng trầu,
Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là?”

hoặc là

“Gặp nhau ăn một miếng trầu,
Gọi là nghĩa cũ ngày sau mà nh́n.”

th́ đâu có phải chỉ là lẳng-lơ trắc nết như

“Bướm ong lại đặt những lời nọ kia” (Kiều).

Tiếp khách là có trầu, chớ không như ông Tú Xương:

“Đầu tṛ tiếp khách trầu không có,
Khách đến chơi đây, ta với ta.”

Quư nhau mời trầu đă đành, có ghét nhau cũng vẫn ra vẻ lịch sự, vẫn mời... trầu... nhưng:

“Yêu nhau cau sáu bổ ba,
Ghét nhau cau sáu bổ ra thành mười.”

Như trên đă nói, trong “miếng trầu” ít nhất là có 3 thứ: lá trầu, vôi và cau. Ở  đây chỉ thấy nói cau bổ ba hay bổ mười mà thôi, như vậy nghĩa là khi ít thành phần “cau” th́ người ăn sẽ thấy không đậm đà nữa... và mất thú vị chăng? Hay là chỉ cần nh́n miếng cau, người được mời cũng đă nhận ra cách cư xử của nhau rồi.

Trước năm 1954, dân các tỉnh giáp ranh Hà-Nội, như Hà-Nam chẳng hạn, thường đem cau lên bán ở chợ Đồng-Xuân; đây là trung-tâm thương-mại của miền Bắc. Trước cửa chợ có đường tàu điện nên rất tiện di-chuyển, nhưng cũng không ít người v́ vội vă mà nhảy lộn tàu, thay v́ về Chợ Hôm lại lên tàu đi Bưởi. Gặp lúc tàu nghỉ trưa, phải xuống đi bộ trở lui, chó tây của các nhà hai bên đường tha hồ mà sủa..., cũng hú vía.

Có dịp theo các Bác, các Cô đem cau lên Hà-Nội bán lại càng nhớ Ông Bà ta có câu:

“Chuối đằng sau, cau đằng trước”

Nhận xét này rất là khoa-học bởi v́ những nơi này được hứng nhiều ánh mặt trời hơn, trái sẽ lớn hơn, đẹp và ngon hơn; những trái ở phía này già trước, chín trước.

Trong xă giao, người con trai chủ động đă đành:

“Sáng nay tôi đi hái dâu,
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn,
Hai anh đứng dậy hỏi han,
Thưa rằng tôi đi hái dâu,
Hai anh mở túi đưa trầu mời ăn..."

lời rằng:

“Trầu bọc khăn trắng cau tươi,
Trầu bọc khăn trắng đăi người xinh xinh.
Ăn đi cho biết sự t́nh,
Để cho nó thỏa sự ḿnh sự ta."

Đôi khi, ngầm phản ứng lại sự khắt khe từ ảnh hưởng Nho Giáo, có những lúc người con gái cũng bạo dạn mời trầu:

“Trầu này trầu quế trầu ca,
Trầu loan trầu phượng, trầu ta lấy ḿnh
Trầu này trầu nghĩa trầu t́nh
Trầu loan trầu phượng, trầu ḿnh lấy ta.
Trầu này têm tối hôm qua,
Giấu cha giấu mẹ đem ra cho chàng.”
(
nếu lại là “Cất trong dải yếm mở ra mời chàng” th́ càng quí).
Trầu này không phải trầu hàng,
Không bùa không thuốc sao chàng không ăn?
Hăy đừng chê khó chê khăn,
Xin chàng dừng lại mà ăn miếng trầu.”

Theo nếp sống Việt-Nam, “Giấu cha giấu mẹ” thế thôi cũng đă là quá rồi. Qua xứ tự-do Tây-phương, có cô con gái bắt cả mẹ quỵ-lụy người t́nh si, để rồi trong đám tang mẹ, lúc di quan, đă phải thốt ra câu “Con ngu, con làm Má khổ, con có tội!”.Thế mà mới nhất tuần, chị em đă lại rước trai về đú đởn như thường. Họ cho rằng đấy là những cuộc t́nh đẹp! Người đàng hoàng th́ gọi đó là loại mèo mả gà đồng; thật chẳng khác chi mèo với chuột trong bài ca dao:

“Con mèo mày trèo cây cau,
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà.
Chú chuột đi chợ đường xa,
Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo.”

Để cảnh cáo những kẻ coi người mẹ như công cụ mồi chài của ḿnh, ca dao Việt Nam cũng có câu:                                 

 “Trâu heo khi chết tế ruồi,
Chẳng bằng khi sống ngọt bùi c̣n hơn.”

Nói rằng miếng trầu là nhịp cầu giao duyên giữa đôi trai gái; nhưng lại “Lân la điếu thuốc miếng trầu”, th́ hóa ra ngày xưa trai gái cũng đều có hút thuốc (5) và ăn trầu cả đấy. Về sau, các cụ bà quay ra “xỉa răng” bằng thuốc lào cho đỡ... nhớ (6).

Khi trai gái đă bén hơi nhau rồi th́ Trầu Cau cũng cầu kỳ hơn một chút:

“Trầu vàng nhá lẫn cau xanh,
Duyên em sánh với t́nh anh tuyệt vời.”

Thế là ta lại thấy người ăn trầu ưa trầu vàng (già chớ không phải úa), mà cau th́ lại thích xanh chớ không thích vàng (cau vàng là cau đă già, hột cứng, khó nhai?).

Đă mời trầu mà “người ấy” lại không ăn th́ thế nào cũng bị trách móc:

“Đi đâu cho đổ mồ hôi,
Chiếu trải không ngồi, trầu để không ăn?”

“Thưa rằng bác mẹ tôi răn,
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.”

Trả lời như vậy e hăy c̣n thiếu, không ăn trầu thế c̣n v́ sao mà không ngồi? Th́ ra chỗ ngồi c̣n bị cột buộc với câu “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”; vả lại các cụ nhà Nho c̣n cấm “Đồng tịch đồng sàng” nữa ḱa. Không những chỗ ngồi đă quan trọng, câu hỏi lại c̣n nói đến “chiếu”. Thường th́ chiếu trải trên giường hay trên sập. Sập hay phản thường kê ở pḥng khách c̣n giường th́ chắc ở pḥng ngủ. Nếu chiếu lại được lật trái, để úp mặt vào chiếc trải bên dưới th́ đó là chỉ dấu giường của cô dâu chú rể trong ngày cưới; biểu tượng h́nh ly rượu hợp-cẩn Hằng, động tác ân ái của trưởng-nam trưởng-nữ đó khi mới thành hôn (chỗ thừa bù chỗ thiếu) theo phong-tục Việt Nam (7).

Khi trai gái mới có t́nh Hàm dưỡng thôi, biết tránh chiếu là phải bởi v́ thời này ly c̣n.... úp (Hàm), chưa lật ngửa (việc của Ông-Tơ  Bà-Nguyệt) lên được, th́ làm sao mà rót rượu-cúng bái yết Tổ Tiên, để rồi được mẹ cho cái trâm, để mà... Hằng (xin xem lại h́nh vẽ Lôi trên, Tốn dưới “chồng” nhau).

Đấy là chưa nói đến nỗi oan khiên về chiếc chiếu của Thị Lộ mà Nguyễn-Trăi đă từng nhắc đến từ buổi đầu gặp gỡ:

“Ả ở nơi nào bán chiếu gon,
Chẳng hay chiếu ấy hết hay c̣n?”...

Nhưng rồi t́nh yêu trai gái (Hàm) cũng sẽ lớn dần theo thời gian:

“Từ ngày ăn phải miếng trầu,
Miệng ăn môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu.”

Đă ăn trầu là phải nhai, nhai thấm giọng làm say, suy ngẫm, nhớ nhung để rồi tương tư ốm như Mỵ-Nương say tiếng hát Trương-Chi, say mà bỏ không được; để rồi ông Trưởng-Giả phải mời bằng được “người trong mộng” th́ nàng lại chê xấu. Cổ tích là vậy, tân-thời lại có trường-hợp bà mẹ đang ốm vẫn phải vấn khăn, mặc áo dài để chèo kéo Chàng cho Nàng, bằng cách “nhờ cậu chở đi lấy thuốc Bắc” mà không xong.   Bà cụ chỉ muốn về lại Việt Nam, nhưng đâu có được! Ấy thế mà rồi vẫn c̣n có hoạt-cảnh bỏ nhà ra đi, cũng chẳng tới đâu:

“Một thương, hai nhớ, ba sầu,
Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm hơi.”

Nói th́ nói vậy chớ bụng trống mà ăn trầu th́ có ngày say trầu lăn quay ra như say thuốc lào vậy; say trầu cũng chẳng khác người say thuốc lào bao nhiêu:

“Nhớ ai như nhớ thuốc lào,
Đă chôn điếu xuống, lại đào điếu lên.”

Bởi v́ khi “Có trầu, có vỏ, không vôi” th́ làm sao môi đỏ má hồng được, có khác nào “Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu” (Kiều), cho nên:

“Nằm đêm trăn trở không yên,
Tai nghe tiếng dế gieo duyên ngoài thềm”

chẳng khác ǵ

"Có chăn có chiếu, không người nằm chung.”

Bồ chạy thẳng một mạch, quay ra đ̣i “nằm chung”, chớ đâu có chịu nhường pḥng lớn đó cho vợ chồng đứa em, như thằng cháu nhắc khéo lại thành mang tội.

Họa hoằn lắm mới có người can đảm, để không phá hoại gia-đinh người khác:

“Có ai bận rộn v́ ai,
Không ai giường rộng chiếu dài dễ xoay.”

Cho nên khi đă giao t́nh cấp 1 rồi cấp 2 th́ tiến đến kết-hợp cấp 3, trai gái tŕnh Lễ Trầu và Ruợu với hai họ và Tổ-Tiên để đi đến hôn-nhân, hầu có người nằm chung, là chuyện thường t́nh.

Nếu gặp ḿnh mà người đẹp cứ quay mặt đi, anh chàng phải năn nỉ..., cũng vẫn văn chương:              

“Cho anh một miếng trầu vàng,
Mai sau anh trả lại nàng đôi mâm.”

Nhớ nhé, chớ đừng để

“Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia.” ( Kiều).

Chắc yêu nhau thật đấy, nhưng lại phải xa cách như Tốn Phong và Hồ Xuân Hương th́ lợn và cau cũng bị khổ lây:

“Yêu nhau chẳng lấy được nhau,
Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già.”

mà rồi dê con c̣n bị mắng nữa (8).

Giữa hai người mời trầu nhau nếu có tương liên, tương đắc để mà thành tri âm tri kỷ th́ mới thú vị; bằng không th́ cũng chẳng hay, để rồi tiếc nuối, mà chẳng biết thực hư:

“Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày c̣n không?
Bây giờ em đă có chồng,
Như chim vào lồng như cá cắn câu.....”

Chữ “hỏi” ở đây là Lễ Hỏi, phải có rượu, có Lễ v́:

“Miếng trầu be rượu nên dâu nhà người”

Rượu ở đây là rượu cáo yết Tổ Tiên, kèm theo cả đầu gà má lợn để con gái báo hiếu cho cha mẹ. Phải chăng đây là lúc chàng“... trả lại nàng đôi mâm” (Mâm trầu cau và mâm rượu?!)

Trong các cuộc Tế, Lễ, người ta chỉ dùng rượu trắng (không màu). Rượu Việt-Nam được làm từ gạo nếp (làm Bánh-Dầy Bánh-Chưng cũng vậy), thứ gạo đặc sản của vùng lúa nước Đông Nam Á. Đem gạo nếp đồ xôi, ủ cho lên men rồi đem “cất rượu” (nấu cho hơi rượu bốc hơi rồi làm ngưng trong ống chảy qua bồn nước lạnh, hứng vào chai, đó là rượu). Khi Tế, Lễ th́ không thể thiếu rượu; c̣n như lúc b́nh thường th́ không nên uống để rồi say sưa. Ngày xưa, khi say th́ bỏ bê công việc; ngày nay say th́ lái xe tông người:

“Anh ơi uống rượu th́ say,
Bỏ ruộng ai cầy, bỏ giống ai gieo?”

Mời trầu là tục lệ trong giao thiệp, đối xử thường ngày, nên dù ăn được hay không cũng chẳng ai nỡ chối từ, cứ cầm lấy đấy, đem về cho người khác.

Thời xưa, đôi khi ăn trầu cũng c̣n sợ bị bỏ “bùa mê”, “bùa yêu”, thành ra người ta có thói quen:

“Ăn trầu th́ mở trầu ra,
Một là thuốc độc hai là mặn vôi.”

Nhà thơ yêu nước Tam Nguyên Yên-Đổ Nguyễn Khuyến cũng để ư đến các cụ càng già càng nghiện trầu mà v́ “lợi th́ có lợi nhưng răng không c̣n” nên “Đi đâu chỉ những cối cùng chầy”, chưa kể có cụ c̣n có cả sợi dây xà-tích với hộp đựng vôi nhỏ bằng bạc. Gọi là chầy chớ thật ra chỉ là chầy một đầu có chĩa để đâm nát cau ra mà thôi. Khi dùng chầy cối để đâm trầu, người ta phải mất thời gian đâm tới xoáy lui, day qua nghiền lại v́ vậy mà tục ngữ ta có câu “Căi chầy căi cối”.

Chắc hẳn xưa kia, Tổ Tiên ta chế cối chầy giă gạo, giă trầu, lớn nhỏ ǵ cũng đều bằng đá, có h́nh dạng theo biểu tượng Dịch Học Âm Dương (9). Sau này, cối chầy giă trầu được làm bằng đồng trạm trổ công phu, chỉ bỏ vừa miếng cau miếng trầu, miếng vỏ để người “có lợi nhưng không răng” đem theo cho tiện.

Cụ già nào không có cối giă mà muốn ăn trầu th́ phải nhờ con cháu nhai dập ra đă. Chính v́ nhận thấy sẽ có nhiều người mua cối chầy nên dù khi trước nhà thơ Tú-Xương tiếp khách không trầu, sau này lại định buôn bán cối:

“Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau,
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen này ông quyết đi buôn cối,
Thiên hạ bao nhiêu đứa giă trầu.”

Dù là đâm trầu hay nhai trầu, người ta đều cần chú ư th́ đâm hay nhai mới mau dập trầu, họ theo dơi việc làm và trở nên suy tư, trầm tĩnh, đắn đo trong câu nói; đúng là “Ăn nhai, nói nghĩ”. Trong một hành động hệt như đang giă trầu là việc các vị trưởng lăo bộ lạc Kogi, trên đỉnh núi Chira, nước Columbia thuộc Nam Mỹ, luôn xoay xoay cái chầy nhỏ để theo dơi mà nghiền cho nát cục đá vôi trong cái cối nhỏ trên tay; thỉnh thoảng họ lại đưa đầu chầy lên lưỡi mà nếm vôi.

Chầy và cối nghiền đá vôi đó chính là dụng cụ giúp người Kogi trầm tư mặc tưởng như một h́nh thức tham thiền (!), tiếp nối những thời gian, lúc c̣n trẻ, ngồi quay mặt vào tường suy tư đến vũ-trụ bao la trong hốc đá (10) để sống vô-tư giữa thiên-nhiên. Không biết sự nhai trầu (giă trầu bằng răng) và giă trầu bằng cối của Tổ Tiên ta có mang ư-nghĩa suy-tưởng thiền định như vậy không? Vào thập niên 70, ở Sàig̣n, các Ḥa-Thượng Độ-Lượng, H.T. Tâm-Giác, H.T. Thanh-Long, H.T. Huyền-Minh... đều có ăn trầu. Ngay tại Mỹ sau này, mấy bà như bà Trường, bà Diệu-Thái... cũng vẫn ăn trầu... khô như thường.

Cách bổ cau, têm trầu, bầy trầu để dâng cúng trong việc tế lễ rơ ràng là đă có thời kỳ diễn tả nghi thức của Việt Đạo. Trầu Cau là miếng ăn, là biểu tượng cho sự tôn kính dùng trong các lễ Tế Thần, Lễ Gia Tiên, Lễ Tang, Lễ Hỏi, Lễ Cưới, Lễ Khao Thọ, Lễ Vinh Qui Bái Tổ, Lễ Mừng....:

“Túi vóc cho lẫn quần hồng,
Têm trầu cánh quế cho chồng đi thi.
Mai sau chồng đỗ vinh qui,
Ngựa anh đi trước, em th́ vơng sau.”

V́ vậy têm trầu cũng phải có mỹ thuật, Lễ Cưới thường có “Trầu têm cánh phượng”, có “Cau róc vỏ trổ hoa”, nhất là phải dùng dao sắc v́ “Cau già dao sắc th́ ngon”. Vả lại lúc bổ cau, cũng cần bàn tay khéo léo:

“Cau già khéo bổ th́ ngon,
Nạ ḍng trang điểm lại gịn hơn xưa.”

Khi bầy trầu trên đĩa, hạt cau phải sóng hàng, chầu vào giữa; đĩa trầu bầy 5 miếng hoặc 10 miếng, khi đưa mời khách phải bưng cơi trầu bằng 2 tay.

Lễ Gia Tiên th́ trầu têm, nhưng Tế Lễ Thiên Thần, Quốc Tổ, th́ phải để 3 lá trầu nguyên vẹn, phết một tí vôi lên đuôi lá và 3 quả cau cũng để nguyên (Trong dịp Tết Nguyên Đán hay Giỗ-Tổ, Lễ Thánh, ngay như Bánh-Chưng Bánh-Dầy cũng không được bóc hay cắt ra), cũng như phải dùng rượu trắng mà cúng (chân thật, chất phác là ở đó).

Nói đến miếng trầu, ta không nên bỏ qua bài “Mời Trầu” của Hồ Xuân Hương:

“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau th́ thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi.”

Nàng trách móc người t́nh hờ hững, mời trầu không thèm ăn (Chớ nếu đă ăn th́ chẳng thể c̣n xanh hay trắng được nữa!), cứ mặc cho thời gian trôi như nước chẩy qua cầu, đến nỗi nàng phải “liều”. Dù rằng cơi trầu không kèm theo be rượu (có nghĩa là chưa Hỏi, Cưới ǵ) mà nàng vẫn cứ “vén phứa tượng lên”, tự ḿnh lật ly (11) úp chiếu để rồi sau lại “Chém cha cái kiếp...” cũng chỉ “Tại” với “bị” như “Nỗi chàng ở bạc, nỗi ḿnh bị đen”(Kiều).  Trong lúc nàng Kiều, v́ bất đắc dĩ, cũng từng than thở:

“Phận sao phận bạc như vôi!
Đă đành nước chảy hoa trôi lỡ làng “.

Thật ra, trong Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du đă dùng đến mười lăm mười sáu chữ “lễ”, duy chỉ có hai lần trước tượng thần-mày-trắng là tả hơi rơ, ngoài ra dường như không lễ nào đúng là lễ (tức là không thấy nói đến trầu và rượu). Có lẽ v́ vậy, Kiều cũng chỉ là “non nước” (dùng tới 12, 13 cặp) đoạn trường “Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời” mà thôi. Đó chính v́ Kia và Nọ không phối hợp điều ḥa được nên mới thành “Đoạn Trường”!

Ai lại chẳng biết lá trầu xanh hăng hôi, cau chát dai cứng, vôi trắng nồng đắng nóng lúc trước nhưng một khi đă phệ-hạp (12) trong miệng, sẽ làm cho người ta thắm thiết duyên dáng, má hồng môi đỏ và say đắm lúc sau; để mà nhập cuộc kết-hợp:

“Ḿnh với ta tuy hai mà một,
Ta với ḿnh tuy một mà hai”

như  trong tṛ-chơi Kianọ sau này, nói lên bản tính hài-ḥa cố hữu của người Việt (13); đó chính là bản-sắc Văn-Hóa Dân-Tộc vậy.

Đôi khi cũng nên biết, có người ăn trầu nhổ ra nước quưt trầu màu bầm nâu chớ không được đỏ tươi để người tin dị-đoan, bằng vào nước trầu đỏ thắm hay nâu úa làm ngoại ứng, ước đoán sự việc tương lai (14).

Thế mới biết xưa kia miếng-trầu và chén rượu-trắng quan-trọng vậy thay, nó góp phần trong phong tục tập quán Việt Nam, trong Đạo Sống Việt (15) trước đây, cả về mặt hữu h́nh (H́nh nhi hạ) và vô-h́nh (H́nh nhi thượng) vậy. Lưu lại tục lệ Ăn Trầu cho chắc răng thơm miệng, kèm theo câu chuyện Tân và Lang, Tổ Tiên ta có ư nhắn gởi con cháu hăy khéo điều ḥa t́nh cảm giữa anh em (gia-đ́nh lớn) và vợ chồng  (gia-đ́nh nhỏ, gia-đ́nh hạt nhân). Đừng để xẩy ra tương tự như cảnh một người D́ (em mẹ) chỉ vào mặt cháu dâu mà nói “Mày là con đ. nên tao không cho nó lấy”, ở bên lề ṭa-án nọ (may mà ở đó, người Mỹ không nghe được tiếng Việt). Trước kia, ngay tại SàiG̣n Việt Nam cũng có trường hợp chị dâu đang ngồi khom lưng gội đầu, cô em chồng bê cả chậu nước (nước bồ kết c̣n nóng) dội cho ướt trụi.

Tại Mỹ c̣n có chuyện ông Bố muốn đến thăm con, hai đứa này ở cùng nhà với chị  mẹ; mỗi tối, sau 12 giờ đêm, khi nào “ông “ và chị đă vào pḥng với nhau rồi, không cần hầu nữa, mẹ chúng mới sang với bố ở một apartment cách đó chừng 2 dặm (sau khi giàn xếp để “thuê riêng cái basement, nếu có lên là chỉ lên thăm má thôi” mà không được). Người mẹ th́ nói “Anh muốn sang lúc nào cũng được, vào pḥng nào cũng được, chỉ trừ pḥng của bà ... và pḥng của T. thôi”, nhưng bà bác này th́ lại cố ư ngăn cản “ Cần ǵ phải đến, cứ viết thư là ngày hôm sau tụi nó nhận được rồi”; thư viết đến th́ lục cặp của cháu kiểm duyệt rồi vứt đi, gây mâu thuẫn, chia rẽ gia đ́nh người ta để thủ lợi... Thậm chí có lần, cô em bị đi cấp cứu về mà chẳng “có ai nấu (miếng cháo) cho mà ăn!”; ngược lại, ngoài cửa tủ lạnh đă có một “toa” thực đơn phải làm để cô chị mời khách như thường. Có lẽ cô chị hăm lật tẩy cô em chăng, nên cô em cứ phải nghe mọi chuyện? Họ như vậy đó, nhưng hễ mở mồm là thậm xưng làm văn-hóa và c̣n cố-vấn cho hội Văn-Hóa của các em sinh-viên mới thật là tai hại. Họ c̣n dám viết truyện công bố lập trường “Anh chị em Trâm thương yêu, đùm bọc nhau trong mọi hoàn cảnh, dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất ”. Để tránh bọn thiếu văn-hóa khuynh loát, xâm phạm nhân quyền người khác như vậy (khi trai gái đă thành gia-thất rồi; lănh trách nhiệm với gia-đ́nh mới đó, họ đă nghiễm nhiên là cái đầu chớ không c̣n là tay chân nữa), tục-ngữ Việt-Nam đă có cả hai câu:

“Anh em như thể tay chân”

(Khi chưa lập gia đ́nh, bố mẹ là đầu), mà rồi lại:

“Anh em kiến giả nhất phận"

cũng chỉ cốt nhằm mục-đích gây-dựng sao cho gia-tộc bền vững, Dân-Tộc trường tồn; người người “Tóc bạc răng long”, “Sống lâu trăm tuổi”, như câu chúc-mừng tân gia của Cụ Tam Nguyên Yên-Đổ ngày nào:

“Nhà này chắc hẳn trăm người chết,
Cha trước con sau, vợ trước chồng “

Nhà như nói trên đây là nhà ba gian có nóc dốc, hướng Nam (hướng Nam là Lửa, là Văn Minh, Văn-Hóa), gian giữa có bàn thờ Tổ Tiên. Nhà có nóc dốc như h́nh nhà trên trống đồng Lạc Việt của Việt Nam, giúp con người tránh nắng trú mưa:

“Con có cha như nhà có nóc”

Theo thứ tự như trong câu đối trên, ít nhất gịng giống cũng được truyền thừa đến mươi ngàn năm vớiø biết bao cuộc Tế, Lễ, Cưới, Hỏi, Hội-Hè, Đ́nh-Đám được lập đi lập lại để phong-tục tập-quán Trầu Cau, Rượu cùng với Lễ Nghĩa Liêm Sỉ của Đạo Sống Việt (16) trường-tồn theo thời-gian.

Nguyên-Thái Nguyễn Văn-Thắng

Viện KIANO Văn-Hóa Việt

Washington, D.C. ngày 11 - 9 – 2001

 

Chú Thích:

  1. Trong tập-san National Geographic tháng 3, 1971, thiên khảo cứu công-phu “New Light On A Forgotten Past”, Tiến-Sĩ Wilhem G. Solheim II, Giáo-Sư Nhân Chủng Học tại Đại Học Đường Hawaii đă đồng ư với Học-Giả Sauer rằng: ”Cây cối do nền Văn-Hóa Ḥa-B́nh thuần hóa đầu tiên trên trái đất. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu việc làm cho cây cối phục thủy thổ này đă được thực hiện trước năm 15,000 TTL”. Mặt khác, các Học-Giả Ping Ti Ho trong quyển “Cradle of East”(The University of Chicago press 1975) và Joseph Needham trong bộ “Science and Civilization”(Vol.I, Cambridge University) cũng công nhận rằng Văn-Hóa Đông Nam Á phát xuất từ phương Nam rồi tỏa lên...
     

  2. Kinh Việt của Nam-Thiên, nhà xuất bản Hoa Tiên Rồng Úc Châu; Đạo Sống Việt, Tủ sách Việt Thường Texas / Đào Văn Dương, Vĩnh Như; Tinh Hoa Văn-Hóa Việt, Đinh Khang Hoạt; v.v.
     

  3. Sứ-thần nước Văn Lang (Giao-Chỉ) đă trả lời vua nhà Chu (Trung Quốc):”Chúng tôi có tục ăn Trầu để khử mùi ô-uế và nhuộm cho răng đen...” Sử liệu Trung-Hoa cũng c̣n ghi lại rằng Triệu Vũ Vương đă bị đồng hóa với dân miền Nam lúc làm vua ở đó, khi viết:”Vua Triệu cũng ăn trầu, ăn mặc giản dị, khi tiếp sứ-thần nhà Hán th́ ngồi xổm...”
     

  4. Vào đời nhà Minh, năm Sùng-chính thứ 14, nhà Thanh đánh bại quân nhà Minh ở Cẩm-Châu bắt được Hồng-Thừa-Đào làm tù binh. Hồng-Thừa-Đào là người tại đất Trung-Nguyên, văn vơ đều giỏi, lại rất sành sỏi về chính-trị Trung-Quốc. Vua Thanh là Thái-Tôn muốn nuốt trọn Trung-Hoa nên cần y, cuối cùng đành cho vợ làm mỹ-nhân-kế mới lôi kéo được Hồng về với ḿnh. (Mỹ-nhân-kế là kế thứ 30, lại cũng liên quan đến quẻ thứ 30 Thuần Ly trong Dịch/ Thoán-từ nói đến “con ḅ-cái”; kế đến là 2 quẻ Hàm 31 và Hằng 32 nói đến t́nh trai gái và đạo vợ chồng, ta không lấy ǵ làm lạ).
     

  5. H́nh chụp 2 người đàn bà ngồi hút thuốc lào bằng điếu bát có cần hút bằng trúc nhỏ cong dài/ Bản Sắc Văn-Hóa Việt-Nam, Trần Ngọc Thêm, trang 191. Hút thuốc lào là chuyển vị khói lửa ở trên và ngoài nước trở xuống dưới vào trong nước: Vị –Tế trở nên Kư-Tế.
     

  6. Ngày nay, người TâyPhương nhai kẹo cao-su để khỏi ăn trầu nhai cau, và nhai thuốc lá giả để cai thuốc lá thật.
     

  7. Sách Phong tục Việt-Nam của Tân Việt, nhà xuất bản Văn Hóa Dân Tộc, Hà Nội 2001, trang 27.
     

  8. Hồ Xuân Hương dùng h́nh ảnh con “Dê húc giậu” theo hào 5 quẻ Đại Tráng của Việt Dịch. Trong 64 quẻ, duy chỉ quẻ này nói đến Dê, và tượng th́ có 2 sừng: “Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa”.
     

  9. Nh́n tượng quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá trong Việt Dịch, Tổ Tiên Ṇi Việt đă chế ra cái chầy (Pestle) để giă; nh́n tượng Chấn th́ chế ra Cối để giă. Ngày xưa Việt Nam có tục giă cối chầy đón dâu/ sđd.
     

  10. Vidéo “Thông-điệp của nhũng người đàn-anh” của bộ-lạc Kogi do Kư-Giả Alan Ereira Đài BBC thực-hiện vào tháng 3 năm 1993, gửi đến Đại Hội Tôn-Giáo Thế-Giới họp tại Chicago vào tháng 9, 1993 (Từ năm 1983, người Kogi đă kêu gọi Kư-Giả Alan Ereira v́ biết có Đại-Hội này!). Cũng vào năm 1993, triết-thuyết KIANO (Ông đưa của KIA, Bà ch́a của NỌ) của Việt-Nam được Nhà Sáng Chế Nguyễn Văn-Thắng tŕnh bày đầu tiên tại Mỹ.
     

  11. Trong Việt Dịch, h́nh cái-ly-có-chân úp là tượng quẻ Hàm, lật ly này lên ta có tượng h́nh quẻ Hằng. “úp chiếu” là làm 2 mặt chiếu sáp vào nhau theo tượng Lôi/Trưởng Nam trên đè Tốn/ Trưởng Nữ dưới, phụ họa cho tục-lệ dùng Chầy “Giă Cối đón dâu”/ sđd.
     

  12. Hỏa/Lôi Phệ-hạp, là nhai đứt (Cây bốc lửa, không c̣n ǵ ngăn cách nữa). Miếng trầu sau khi nhai th́ mềm ra,cũng tương tự.
     

  13. Tṛ-chơi Khép Mở KIANO (Close-Open Game), biểu hiện triết-lư sống hài-ḥa cố hữu của người ViệtNam, được nhà Sáng Chế Nguyễn Văn-Thắng hoàn thiện tại Hoa-Kỳ vào năm 1993; năm 1996, ông Thắng đă tặng Viện Bảo-Tàng Smithsonian Institution 1 bộ Tṛ Chơi KIANO 36 quân bằng gỗ và 1 Cây Gậy Thần Việt Nam 9 đốt bằng trúc; năm 1999, hai hiện vật này đă trở thành National Collections tại Khu Văn-Hóa trong Viện Bảo Tàng Smithsonian Museum of American History, thủ-đô Hoa-Kỳ (Thư cảm tạ của Viện Bảo Tàng).
        

  14. Những tin-tưởng tương tự như vậy, phong-tục tập quán các nước đều có. Như ỏ miền Tây tiểu-bang Maryland nước Hoa-Kỳ, người ta cũng cữ quét nhà mà đổ rác vào ban đêm; người ta cũng tổ chức căng-dây hay thổi c̣i inh tai để ṿi tiền Dâu Rể như ở Việt Nam (về sau ở Việt Nam đổi thành lệ “nộp cheo” cho làng); chuyện “Tấm Cám” cũng tương tự/ Maryland Folklore and Folklife.
     

  15. Dâng cúng Tổ Tiên bằng Bánh-Dầy Bánh-Chưng lớn 4 lạt, Ăn Trầu, Hút thuốc lào, Uống rượu cần, Xâm h́nh Rồng trên ḿnh, Nhuộm răng đen, Đeo lông chim, Đánh Trống Đồng..., Xây Tháp Thờ Thần Lửa (Nhà Hán qua đô-hộ gọi đó là “Tháp bút”), Trải 2 chiếu-úp-mặt trong Lễ Cưới v.v..., chính là những sinh-hoạt đă góp phần xây dựng nên Nhân-sinh-quan Hàm Hằng, Vũ-trụ-quan Bĩ Thái và Kư Vị của Đạo Sống Việt-Nam 5 ngàn năm Văn-Hiến. Có kẻ thiếu hiểu biết cho rằng chỉ nên kể Việt Lịch từ khi xây được Thành Cổ-Loa thôi (v́ mắt họ chỉ nh́n thấy có thành Cổ-Loa c̣n lại). Họ nên biết rằng nếu không nhờ Rùa Thần th́ không xây được thành! Rùa Thần xuất-hiện từ lúc “cơng” Hà-Đồ Lạc-Thư  kia đấy.
     

  16. Năm 1999 (?), tại Maryland Hoa-Kỳ, một tổ chức của Sinh Viên Nam Nữ người Mỹ đưa ra chủ-trương “học đă, khoan yêu!”, phù hợp với Văn-Hóa Việt Nam: “Chỉ HÀM thôi, chưa có Lễ th́ chưa được HẰNG”; cũng như “... chưa thi đỗ th́ chưa động pḥng“ vậy.

Tài liệu tham khảo chính:

  1. Phan Kế Bính: Việt Nam phong tục (xuất bản lần đầu năm 1915)

  2. Toan Ánh: Nếp cũ  1966

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17