Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 

 

Thuở ban đầu của chữ quốc ngữ

HUỲNH VĂN MỸ
 

Gần 400 năm kể từ ngày chữ quốc ngữ ra đời, thử nh́n lại bước khởi đầu với bao khó khăn của những người tiên phong trong việc chế tác ra chữ Việt mới bằng mẫu tự Latin du nhập.

Kỳ 1: Thuở ban đầu của chữ quốc ngữ
Kỳ 2: Hai bức thư và tập lịch sử nước An Nam
Kỳ 3: Ai có công đầu với chữ quốc ngữ?
Kỳ cuối: Đâu là “chiếc nôi” chữ quốc ngữ?
Xem Thêm: Quảng Nam: Miền đất khai sinh và truyền bá chữ Quốc ngữ Xem Thêm:

 

Thuở ban đầu của chữ quốc ngữ

18/04/2014

 

TT - Làm nên chữ quốc ngữ từ mẫu tự Latin là một kỳ công khi tiếng Việt từ lâu được kư âm bằng chữ Hán và tiếp theo là chữ Hán Nôm.

 

• Vấn đề chờ trông các nhà nghiên cứu xác định: ai là người có công đầu, đâu là nơi ở nước ta mở ra sự h́nh thành chữ quốc ngữ, một ngày kỷ niệm chữ quốc ngữ mỗi năm vốn đang được nhiều người đặt ra...

 

 

Nơi đặt bia di tích cư sở Nước Mặn (xă Phước Quang, huyện Tuy Phước, B́nh Định). Cư sở này được giáo sĩ Francesco Buzomi xây dựng năm 1618 - Ảnh: H.V.M.

Từ nhu cầu cần thiết cho công việc, các giáo sĩ ḍng Tên của Công giáo từ phương Tây sang nước ta truyền đạo hồi đầu thế kỷ 17 đă nghĩ đến việc dùng mẫu tự Latin kư âm tiếng Việt để tiện cho đôi bên học hỏi ngôn ngữ của nhau. Phác lại bước đầu của việc sáng chế chữ quốc ngữ - mà lâu nay được gọi là chữ Việt - quả là lư thú và cảm động...

 

Kiên tŕ ṃ mẫm

 

Theo linh mục Đỗ Quang Chính, S.J. - tác giả sách Lịch sử chữ quốc ngữ (1620-1659), từ đầu thế kỷ thứ 17 các giáo sĩ ḍng Tên đến Nhật Bản truyền đạo đă thành công trong việc dùng mẫu tự Latin để kư âm và làm nên chữ Nhật mới romaji - chữ Nhật Latin hóa - hồi cuối thế kỷ 16. Bởi vậy, khi đến Việt Nam, các giáo sĩ ḍng Tên đă vận dụng cách làm này để kư âm tiếng Việt và làm nên chữ Việt mới để thuận lợi cho sứ vụ truyền giáo của ḿnh.

 

Nhưng các giáo sĩ đến đây dù tất cả đều am hiểu một số ngôn ngữ châu Âu, với họ lúc đầu tiếng Việt quả là rất khó học v́ đă đơn âm lại có thanh điệu, rất khó trong việc phát âm, một âm chỉ cần đọc nặng - nhẹ một tí là sẽ có nghĩa hoàn toàn khác nhau. “Khi vừa đến Đàng Trong, nghe người Việt nói chuyện với nhau, nhất là giữa nữ giới, tôi có cảm tưởng như ḿnh nghe chim hót và tôi đâm thất vọng v́ nghĩ rằng không bao giờ học được tiếng Việt” - giáo sĩ Alexandre de Rhodes (gọi tắt là Đắc Lộ), người đến Hội An, Quảng Nam và ở lại cư sở Thanh Chiêm (cách cảng thị Hội An chừng 7km về hướng tây) vào cuối năm 1624 để truyền đạo, kể lại.

 

Nghe cũng như nói trọn một câu tiếng Việt có nhiều từ hẳn là khó, nhưng với câu chỉ vài từ vẫn không dễ v́ cách phát âm theo đúng thanh điệu rất tế nhị. Vẫn giáo sĩ Đắc Lộ kể: một giáo sĩ ở cùng với ông đă nhờ người giúp việc đi chợ mua cá về dùng bữa, nhưng v́ cách phát âm của vị giáo sĩ không chuẩn, bà giúp việc thay v́ mua cá lại mua về một thúng cà. Biết ḿnh đă nói sai từ “cá” thành “cà”, vị giáo sĩ liền xin lỗi người giúp việc. C̣n một vị giáo sĩ khác th́ lại làm đám trẻ trong nhà ḿnh hoảng sợ và bỏ chạy tán loạn khi ông nhờ người trong nhà ḿnh đi chém (chặt, đốn) tre nhưng ông lại đọc là đi “chém trẻ”!

 

Nhưng, vượt qua khó khăn bước đầu, rồi khám phá ra sự “du dương ḥa điệu”, “giống như bản nhạc liên hồi” của tiếng Việt - như các giáo sĩ Cristophoro Borri và Đắc Lộ nhận xét, ai có khiếu âm nhạc th́ việc học tiếng Việt không khó. Nhờ vậy, qua miệt mài học hỏi, luyện tập, nhiều giáo sĩ - trong đó có Francisco de Pina (người Bồ Đào Nha), C. Borri (người Ư) và Đắc Lộ (người Pháp) - đă nhanh học được tiếng Việt.

 

Những giai đoạn mở đầu

 

Vạn sự khởi đầu nan. Và sự khởi đầu của một công tŕnh, một cuộc cách mạng ngôn ngữ càng rất khó khăn. Linh mục Đỗ Quang Chính đă trân trọng chia lịch sử buổi đầu của việc h́nh thành chữ quốc ngữ từ năm 1620-1648 thành hai giai đoạn: 1620-1626 và 1631-1648.

 

Quả là khá nhanh và sớm khi từ năm 1620-1626, nền móng “ngôi nhà” quốc ngữ đă đặt được những viên đá tảng cơ bản, bởi các giáo sĩ ḍng Tên chỉ mới đặt chân đến đất Quảng Nam (thuộc xứ Đàng Trong) vào đầu năm 1615, trải qua nhiều lao đao trong việc lập cư sở truyền đạo. Từ cư sở Hội An - 1615, rồi đến các cư sở Nước Mặn (tỉnh B́nh Định) -1618 và cư sở Thanh Chiêm (Quảng Nam) - 1623, với nỗ lực học tiếng Việt bền bỉ, các giáo sĩ ở đây đă từng bước Latin hóa được một số từ tiếng Việt về tên đất, tên người cùng những danh từ bản xứ với chiều hướng ngày càng tiến bộ.

 

Bằng chứng của tiến tŕnh này được rút ra từ những báo cáo thường niên của các giáo sĩ ở các cư sở Hội An, Nước Mặn, Thanh Chiêm gửi về vị giám mục bề trên cả ḍng Tên ở La Mă, hiện c̣n lưu giữ ở các thư viện, văn khố các nước châu Âu. Đọc qua các từ quốc ngữ được linh mục Đỗ Quang Chính rút ra từ bảy bản báo cáo thường niên (1620-1626), thật xúc động trước công lao khó nhọc của những người tiên phong làm ra loại chữ cực kỳ thông dụng và khoa học này.

 

Annam (An Nam), Sinoa, Sinuua (Xứ Hóa/tức Thuận Hóa), Cacham, Cacciam (Ca Chàm/tức Kẻ Chàm hay Thanh Chiêm), Unsai (ông săi), Ungue, Ungué (ông nghè), Ontrũ (ông trùm), Oundelin (ông đề lĩnh), Banco, Bancô, Banc̣ (Bàn Cổ), Nuocman (Nước Mặn), Ainam (Hải Nam), Quanghia, Quamnguya (Quảng Nghĩa), Quignhin (Qui Nhơn), Bafu (Bà Phủ/tức vợ quan phủ)... - những địa danh, những danh từ Việt được Latin hóa tiên khởi ở những năm 1620-1621. Dễ nhận thấy là các từ luôn được viết liền, hầu hết không có dấu thanh, thi thoảng các dấu thanh huyền, sắc, ngă, ô được sử dụng.

 

 

Gia Định Báo - tờ báo đầu tiên được in bằng chữ quốc ngữ - Ảnh tư liệu

 

B́a cuốn Tường tŕnh về khu truyền giáo Đàng Trong được viết năm 1621-1622 bằng tiếng Ư, trong đó có một số từ quốc ngữ được viết rời - Ảnh tư liệu

Bắt đầu viết rời các từ

 

Cũng ở những năm tháng xây nền đặt móng này, việc viết rời các từ đă lác đác xuất hiện. Sayc Kim (sách kinh), Sayc Chiu (sách chữ); Da, an, nua (đă ăn nửa), Da, an, het (đă ăn hết) - nói về hiện tượng nguyện thực; scin mocaij (xin một cái); Dàdèn, Lùt, Dàdèn Lùt (đă đến lụt), Tuijciam, Biet (tui/tôi chẳng biết), Onsaij di Lay (ông săi đi lại/tức đi đi lại lại); Muon bau dau christiam chiam (muốn vào đạo Christiang chăng?) được giáo sĩ C. Borri viết trong bản tường tŕnh về khu truyền giáo Đàng Trong (1621-1622) đệ lên đức giáo hoàng Urbanô VII là những bước tiến quan trọng trong tạo lập chữ quốc ngữ, bởi đây là bước khởi đầu việc viết rời các từ.

 

Từ tiến bộ này, ở giai đoạn hai (1631-1648) trong các bản văn và sách của ḿnh, giáo sĩ Đắc Lộ đă viết rời các từ và nhóm từ Việt, phần lớn vẫn chưa có dấu, nhưng thi thoảng ông lại cũng viết liền các từ về địa danh, nhân danh cũng như đánh dấu thanh cho một vài từ. Đáng nói là việc đưa các dấu thanh Hi Lạp (huyền, sắc, ngă) vào để tạo dần sự hoàn chỉnh âm vận cũng như thêm chữ “đ” vào bộ mẫu tự Latin cho quốc ngữ của giáo sĩ Gaspar d’Amaral (người Bồ Đào Nha).

 

Đàng tlaơ (Đàng Trong), Đàng ngoày (Đàng Ngoài), Đàng tlên (Đàng Trên), nhà thượng đày (nhà thượng đài), nhà huỵen (nhà huyện), oũ Khỏũ (ông Khổng/Khổng Tử), đức vương (đức vương), tế kỳ đạo (tế kỳ đạo), chuá tũ, chuá dũ, chuá quành (chúa Tung, chúa Dũng, chúa Quỳnh/tên các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài), Thíc ca (Thích Ca), chợ thũi (chợ Thủy), Săy (săi/sư săi), thầy (thầy/thầy giảng), đôủ thành (Đông Thành/tên một tu sinh)... Một ít trong số những từ được linh mục Đỗ Quang Chính trích từ các tường tŕnh về hoạt động truyền giáo ở Đàng Ngoài của giáo sĩ G. d’Amaral viết vào những năm 1632, 1637 cho thấy vị giáo sĩ này đă đưa việc chế tác chữ quốc ngữ tiến một bước rất dài chỉ trong thời gian rất ngắn.

HUỲNH VĂN MỸ

Hai Bức Thư và Tập Lịch Sử Annam

 

TT - Người Việt Nam sử dụng được chữ quốc ngữ sớm nhất ở thời điểm nào? Thật không dễ có đáp án chính xác cho câu hỏi có vẻ đơn giản này nếu không có những bản văn viết tay của hai người Việt được lưu lại đến ngày nay.

>> Thuở ban đầu của chữ quốc ngữ

 

Trang cuối lá thư của Igesico Văn Tín viết ngày 12-9-1659 bằng chữ quốc ngữ - Ảnh tư liệu

 

 

Đây được coi là những sản phẩm đầu tiên mà người Việt gieo trồng và thu hoạch được trên cánh đồng quốc ngữ vừa được khai mở...

Hai bức thư

Trong bài viết “Một vài văn kiện bằng quốc âm tàng trữ ở Âu châu” đăng ở tập san Đại Học số 10, tháng 7-1959 tại Sài G̣n, giáo sư Hoàng Xuân Hăn đă viết về việc Viện bảo tàng ḍng Tên ở La Mă (Ư) c̣n giữ được những tư liệu quan trọng. Đó là bức thư và tập lịch sử của Bentô Thiện gửi cho giáo sĩ G. Philippo de Marini đề ngày 25-10-1659 và bức thư của Igesico Văn Tín cũng gửi cho vị giáo sĩ này, đề ngày “mươy hay thánh chính D.C.J. ra đờy một ngh́n sáu tram nam muoy chinh” (mười hai tháng chín Đức Chúa Jesus ra đời một ngh́n sáu trăm năm mươi chín).

Trong sách Lịch sử chữ quốc ngữ (1620-1659), linh mục Đỗ Quang Chính, S.J. - người tiếp cận nhiều tư liệu gốc cho việc nghiên cứu sự h́nh thành chữ quốc ngữ ngay tại các bảo tàng và văn khố ở châu Âu - đă chép lại toàn văn các văn bản của Igesico Văn Tín và Bentô Thiện để người đọc có thể thấy chữ quốc ngữ ở thời khởi nguyên được viết thế nào.

Có thể nói những người học và sử dụng chữ quốc ngữ sớm nhất ở nước ta là những tân ṭng - người mới theo đạo (Công giáo) - trẻ tuổi và ham học hỏi bởi họ gần gũi, tiếp xúc thường xuyên với các vị giáo sĩ truyền đạo vốn là những người đang sử dụng chữ quốc ngữ buổi đầu. Igesico Văn Tín và Bentô Thiện đều là tân ṭng rồi dần trở thành thầy giảng (đạo). Bức thư của Igesico Văn Tín được viết ở vùng Kẻ Vó (Đàng Ngoài/tức miền Bắc). C̣n bức thư của Bentô Thiện được viết tại Kẻ Chợ (tức Thăng Long, cũng thuộc Đàng Ngoài).

Bức thư của Igesico Văn Tín gồm hai trang, trang đầu viết trong khổ 17x25cm, có 27 ḍng chữ cỡ trung b́nh, trang hai trong khổ 16x9cm có 11 ḍng. Thư của Bentô Thiện cũng gồm hai trang, cỡ chữ nhỏ, viết trong khổ 21x31cm. Cả hai bức thư đều là những lời thăm hỏi, kể về t́nh h́nh của những tân ṭng, công việc truyền đạo trong vùng cũng như bày tỏ ḷng tôn kính, nhớ mong của họ với giáo sĩ Marini.

“Ơn đức Chúa Blờy blả’ caơ cho thầi đờy đờy. Bấi nhieu mlờy tôy chép tháng mươy ĩ Igreja mà thư nầi thi ngài Lễ Bà Thánh Daria cũ ơn Thánh Chrisanto tử v́ đạo, tôy lại ơn thầi là cha v́ thương đến con cũ tôy xin cha chớ quên làm chi. Từ Đức Chúa Jesu ra đờy cho đến rài một ngh́n sáu trăm năm mươy chín năm. Bentô Thiên tôy tá nhà Thầi (Ơn đức Chúa Trời trả công cho thầy đời đời. Bấy nhiêu lời tôi chép tháng mười Igreja, mà thư này th́ ngày lễ bà thánh Daria cùng ông thánh Chrisanto tử v́ đạo. Tôi lạy ơn thầy là cha th́ thương đến con cùng. Tôi xin cha chớ quên làm chi. Từ Đức Chúa Jêsu ra đời cho đến rày một ngh́n sáu trăm năm mươi chín năm. Bentô Thiện tôi tá nhà thầy) - những câu cuối thư của Bentô Thiện. Và câu cuối thư của Igesico Văn Tín “D. C. Blờy blả’ cơn cho Thài đờy nài và đờy sau (Đức Chúa Trời trả công cho thầy đời này và đời sau). Cả hai cho thấy phần nào cách dùng từ, văn phong và cách viết quốc ngữ ở giai đoạn tiên khởi.

 

B́a quyển Tự điển An Nam-Bồ Đào Nha-Latin của giáo sĩ Đắc Lộ được in ở La Mă năm 1651 - Ảnh tư liệu

 

Và tập lịch sử nước An Nam

Ngoài bức thư gửi giáo sĩ G. P. de Marini, thầy giảng Bentô Thiện c̣n viết một tập Lịch sử nước An Nam (LSNAN) gửi cho vị giáo sĩ này. (Tác giả Bentô Thiện không đặt tên cho tập tư liệu lịch sử của ḿnh, nhưng căn cứ vào nội dung tập tư liệu của ông, linh mục Đỗ Quang Chính đă đặt tên là Lịch sử nước An Nam).

Qua lời trong thư của Bentô Thiện gửi giáo sĩ Marini, rơ là tập LSNAN được Bentô Thiện viết gửi cho giáo sĩ Marini theo đề xuất của vị giáo sĩ này. Căn cứ từ những dữ liệu xác tín, linh mục Đỗ Quang Chính khẳng định tập tư liệu này được Bentô Thiện viết ở khoảng đầu năm hoặc giữa năm 1659. Nhờ đích thân Bentô Thiện viết cho một tư liệu lịch sử, giáo sĩ Marini không chỉ nhắm đến năng lực chữ quốc ngữ mà c̣n ở vốn kiến thức của người thầy giảng mà giáo sĩ từng biết qua thời gian truyền đạo ở vùng Kẻ Vó.

Với sáu tờ giấy viết chữ cỡ nhỏ ở hai mặt, tức 12 trang, phần nhiều được viết trong khổ 20x29cm, có thể nói tập LSNAN là văn bản quốc ngữ “dài hơi” đầu tiên của người Việt được lưu lại. Nhận thức rằng đây là “công tŕnh” có giá trị với người nước ngoài, mà cụ thể là với vị giáo sĩ ḿnh yêu kính, Bentô Thiện đă viết thành hai bản để gửi đến giáo sĩ Marini qua hai chuyến tàu, mỗi chuyến tàu một bản, để pḥng rủi bị thất lạc ở chuyến tàu này th́ c̣n có bản gửi ở chuyến tàu kia. Bản gửi theo chuyến tàu thứ nhất được tác giả ghi ở đầu thư là 1a via, c̣n bản gửi theo chuyến tàu thứ hai được ghi là 2a via. Và may mắn cho bảo tàng chữ quốc ngữ, cả hai bản sử lược này đều đến tay giáo sĩ Marini, tất cả đều c̣n được lưu giữ trọn vẹn ở văn khố ḍng Tên tại La Mă.

Chỉ với 12 trang viết, LSNAN được viết hết sức đại lược. Tuy vậy những sự kiện chính yếu diễn ra ở các triều đại đều được tác giả kể ra, cả các chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh, Trọng Thủy - Mỵ Châu, Thánh Gióng cũng được ghi lại với những t́nh tiết hấp dẫn. Ngoài phần lược sử các triều đại, cây bút “viết quốc sử bằng chữ quốc ngữ đầu tiên” này c̣n dành phần nói về văn hóa: phong tục tập quán, việc hành chính, địa lư, điểm qua một số chùa chiền, nhà thờ...

“Họ nhà Mạc th́ trốn lên Cao Bằng hết, c̣n có ai ở đâu th́ Chúa (tức Chúa Trịnh) lại bắt. Nước Annam đă an hết về làm một nhà Lê mà thôi. C̣n ông Đoan là cha ông Thụy ở trong Hóa xưa, th́ Chúa Tiên đ̣i ra ở làm tôi, mà ông ấy thấy chúa chẳng yêu đăi cho đủ bao nhiêu, th́ ông ấy lại trốn vào ở Quảng, th́ Đức Chúa ngờ là về Thanh Hóa; chẳng ngờ ông ấy đă vào Hóa, th́ Đức Chúa theo. Song le chẳng theo kịp, th́ lại trở ra Kẻ Chợ mà trị cho đến con cháu bây giờ. Rày lại đánh nhau cùng Kẻ Quảng. Song le chửa biết đời trị loạn, th́ chửa có tra vào sách” (trích).

Trong thời hoàng kim của chữ Việt - quốc ngữ hôm nay, đọc hai bức thư của hai thầy giảng Igesico Văn Tín và Bentô Thiện, nhất là bản LSNAN, sẽ giúp chúng ta thấy được phần nào tiến tŕnh cùng tài năng, công sức lao nhọc của những người dựng xây ngôi nhà quốc ngữ buổi đầu.

HUỲNH VĂN MỸ - BẢO TRUNG

Hai sách quốc ngữ đầu tiên

Hai sách chữ quốc ngữ đầu tiên được xuất bản là Tự điển An Nam - Bồ Đào Nha - Latin và Phép giảng tám ngày. Được in và xuất bản tại La Mă năm 1651, Tự điển Việt-Bồ-La và Phép giảng tám ngày, theo linh mục Đỗ Quang Chính, được giáo sĩ Đắc Lộ viết ở Áo Môn khoảng từ năm 1637-1645.

Nhận thấy ư nghĩa và giá trị của hai quyển này, Ṭa thánh La Mă đă cho phép Bộ Truyền giáo - vốn mới được thành lập từ giữa năm 1622 - in ấn và xuất bản ngay. In ấn sách chữ Việt lần đầu là một việc làm tốn nhiều công sức. Với các thanh điệu mới, cách ghép vần khác hẳn với chữ viết của các nước dùng mẫu tự Latin trong vùng vốn đă quen thuộc, để có thể in được chữ quốc ngữ, xưởng in của Bộ Truyền giáo đă phải đúc khuôn chữ in mới.

Với gần 500 trang, Tự điển Việt-Bồ-La, lúc đầu giáo sĩ Đắc Lộ chỉ soạn bằng hai loại chữ quốc ngữ và Bồ Đào Nha. Về sau, theo ư các vị bề trên ở La Mă, ông soạn thêm phần chữ Latin vào để tiện cho người Việt học tiếng Latin.

Phép giảng tám ngày - công tŕnh về giảng dạy giáo lư - được Đắc Lộ viết bằng hai thứ chữ quốc ngữ - Latin. Theo nhà nghiên cứu Vơ Long Tê dẫn theo linh mục Nguyễn Khắc Xuyên, quyển sách nổi danh về truyền dạy giáo lư này được Đắc Lộ biên soạn hay khởi thảo từ những năm 1627-1629

-->

Ai có công đầu với chữ quốc ngữ? (3)

Đây là vấn đề được đặt ra từ vài chục năm nay bởi một số nhà nghiên cứu cùng những người quan tâm đến lịch sử buổi đầu chữ quốc ngữ. Những ai đă tiên khởi mở ra việc tạo lập chữ quốc ngữ?

>> Thuở ban đầu của chữ quốc ngữ

>> Hai bức thư và tập lịch sử nước An Nam

 

Giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) Ảnh tư liệu

 

Alexandre de Rhodes hay Francisco De Pina?

Với hai quyển sách Tự điển An Nam – Bồ Đào Nha – Latin (gọi tắt Tự điển Việt – Bồ – La) và Phép giảng tám ngày bằng quốc ngữ được ṭa thánh La Mă cho xuất bản năm 1651, giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) từ lâu được coi là người có công lớn trong việc chế tác ra chữ quốc ngữ.

Để tưởng nhớ công lao của Đắc Lộ, năm 1941 một bia kỷ niệm khắc tên ông đă được dựng bên hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội; và ở Sài G̣n vào năm 1955 người ta đă lấy tên Alexandre de Rhodes đặt cho một con đường ngay trung tâm thành phố này, c̣n măi đến nay.

Nhà nghiên cứu Vơ Long Tê nhận xét: “Đành rằng giáo sĩ Alexandre de Rhodes không phải là người duy nhất đă sáng chế và làm cho chữ quốc ngữ trở nên hoàn hảo, nhưng lịch sử vẫn xem vị giáo sĩ này là thủy tổ chữ quốc ngữ v́ đă có công thử thách chữ quốc ngữ trong các lĩnh vực soạn sách tự điển, văn phạm, giáo lư, và nhất là phổ biến rộng răi chữ quốc ngữ bằng những tác phẩm ấn loát tại nhà in của Thánh bộ Truyền giáo tại La Mă”.

Đó là những quyển sách được coi là công cụ bước đầu trong việc phổ truyền việc dạy và học chữ Việt, mở ra sự xuất hiện chữ Việt trên bản đồ chữ viết của thế giới. Thủy tổ chữ quốc ngữ là cụm từ do nhà nghiên cứu Phạm Đ́nh Khiêm dành cho giáo sĩ Đắc Lộ, trong đó có một số luận chứng giống như tác giả Vơ Long Tê đă trích dẫn.

Quan điểm cho rằng giáo sĩ Đắc Lộ là người có công đầu, có công nhiều nhất trong việc làm ra chữ quốc ngữ cũng đă được nhà nghiên cứu Hoàng Tiến nhắc lại trong đề tài nghiên cứu Chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỷ 20 của ḿnh được xuất bản năm 1994:

“…Và nhất là cha cố người Pháp Alexandre de Rhodes là một nhà bác học rất giỏi về khoa ngôn ngữ đă tới Việt Nam và giảng đạo bằng tiếng Việt. Tất nhiên việc này có công sức đóng góp của nhiều người, nhưng ông là đại diện và giữ công đầu”.

Tuy nhiên, măi đến gần đây nhà nghiên cứu Nguyễn Phước Tương đă phản bác quan điểm tồn tại lâu nay, ông cho rằng Đắc Lộ không phải là người có công đầu trong việc tạo tác chữ quốc ngữ.

Trong tham luận “Hội An – Thanh Chiêm và sự ra đời chữ quốc ngữ” tại tọa đàm khoa học “Danh xưng Quảng Nam” ở Tam Kỳ hồi tháng 9-2001, tác giả Nguyễn Phước Tương nhấn mạnh rằng Francisco de Pina mới là nhà tiên phong sáng tạo chữ quốc ngữ.

Luận cứ mang tính khẳng định của nhà nghiên cứu Nguyễn Phước Tương trước hết dựa vào tự bạch của giáo sĩ Đắc Lộ trong “Lời nói đầu” ở Tự điển Việt – Bồ – La rằng ông học tiếng Việt lúc đầu với giáo sĩ F. de Pina, rằng ông đă sử dụng các công tŕnh tự điển viết tay An Nam – Bồ, Bồ – An Nam của các giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa – những điều mà bất cứ ai tiếp cận Tự điển Việt – Bồ – La đều biết rơ.

Bên cạnh một số luận cứ khác nữa, đặc biệt, nhà nghiên cứu này c̣n dựa vào phát hiện mới về công tŕnh chữ quốc ngữ của F. de Pina của nhà ngôn ngữ học Pháp Roland Jacques.

Đó là bức thư viết dở dài bảy trang cùng cuốn Nhập môn tiếng Đàng Ngoài dài 22 trang dạy cho người mới học tiếng Việt của giáo sĩ F. de Pina được R. Jacques t́m thấy ở Thư viện Quốc gia tại Lisbon (Bồ Đào Nha).

Từ những tư liệu mới t́m thấy này, R. Jacques đă viết chuyên luận Công tŕnh của một số nhà tiên phong Bồ Đào Nha trong lĩnh vực ngôn ngữ học Việt Nam được ấn hành tại Paris năm 1995.

Tác giả này viết: “Qua sự so sánh có hệ thống việc mô tả bộ chữ cái Việt Nam thực hiện bởi văn bản này và văn bản kia, như vậy sẽ trở nên có thể nhận định được rơ ràng hơn rằng Alexandre de Rhodes đă chịu ơn các vị tiền bối của ḿnh và ngược lại, có sự đóng góp tài năng của bản thân ông”.

 

Nhà in Làng Sông được thành lập năm 1872 tại huyện Tuy Phước, B́nh Định – một trong những nhà in chữ quốc ngữ đầu tiên – Ảnh: H.V.M

 

Công lao tập thể và vai tṛ của người Việt

Trong khi đó, một quan điểm phổ quát hơn, từng được nhiều nhà nghiên cứu cùng chấp nhận hơn là: chữ quốc ngữ được h́nh thành bước đầu từ công lao của một số giáo sĩ ḍng Tên.

Năm 1955, trong cuốn sách về Công trạng của nước Pháp ở Đông Dương của ḿnh, tác giả Pháp Georges Taboulet cũng đă đưa luận điểm như trên khi ông viết: “Việc phiên âm tiếng Việt bằng chữ Latin điểm thêm các dấu quy ước, là một công lao tập thể mà sự đóng góp chủ yếu của các linh mục Francisco de Pina, Cristophoro Borri, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, c̣n linh mục Alexandre de Rhodes th́ có công hệ thống hóa, chỉnh lư và phổ biến văn tự này…”.

Tác giả Vơ Long Tê cũng cho rằng: “…Căn cứ vào những sử liệu chắc chắn và những suy luận hợp lư, chúng ta có thể quyết đoán rằng công cuộc sáng chế chữ quốc ngữ là một công tŕnh tập thể, nằm trong một khuôn khổ những nỗ lực phiên âm các thứ tiếng có chữ tượng h́nh ở Viễn Đông do các thừa sai châu Âu khởi xướng từ thế kỷ thứ 16”.

Cũng nhắm vào công lao tập thể trong việc tạo lập chữ quốc ngữ, linh mục Đỗ Quang Chính đă dùng từ “những ông tổ” để chỉ những giáo sĩ có công trong việc Latin hóa tiếng Việt buổi đầu.

Dẫu vậy, vị linh mục sớm đi vào nghiên cứu lịch sử chữ quốc ngữ này cho rằng “ai là người có công nhất trong việc sáng tác chữ quốc ngữ?” vẫn c̣n là điều thắc mắc cần được làm sáng tỏ.

Về đóng góp của người Việt, theo nhà nghiên cứu Vơ Ngọc Liễn, có lẽ v́ đặt nặng vai tṛ chủ động của các giáo sĩ ḍng Tên trong việc tạo tác nên chữ Việt mới từ mẫu tự Latin do họ “mang tới” vốn hoàn toàn xa lạ với người Việt, các nhà nghiên cứu có phần chậm trễ khi nói đến vai tṛ của người Việt.

Trong một số tác phẩm được xuất bản từ những năm 1960-1970 của ḿnh, các tác giả Đỗ Quang Chính, Vơ Long Tê đều đă đề cập sự đóng góp của người Việt cho sự ra đời của chữ quốc ngữ.

Đó là những nho sĩ, những sư săi, những tân ṭng – người mới theo đạo (Công giáo) mà đặc biệt là những tân ṭng trở thành thầy giảng (đạo).

Nhưng tiếc rằng đó đều là những đóng góp lặng thầm, ch́m khuất, ít được các giáo sĩ thời đó nêu danh tính hay ghi lại cụ thể, ngoại trừ những ghi chép của các giáo sĩ F. de Pina, Đắc Lộ, C. Borri về công lao của người Việt trong việc bày vẽ cho họ học tiếng bản xứ.

“Các thầy giảng Igesico Văn Tín, Bentô Thiện với những tác phẩm quốc ngữ xuất sắc được lưu lại từ năm 1659, đương nhiên họ đă cùng với các vị giáo sĩ ở cư sở của ḿnh cùng nhau miệt mài luyện tập chữ quốc ngữ cũng như học hỏi ngôn ngữ của nhau” – nhiều nhà nghiên cứu đă nói.

Và, ngoài tên tuổi của một ít các thầy giảng người Việt được nói đến, chắc chắn c̣n nhiều người Việt khác đă cộng tác đắc lực với các linh mục ḍng Tên trong công cuộc kiến tạo chữ quốc ngữ buổi đầu.

Đâu là “chiếc nôi” chữ quốc ngữ?

21/04/2014 07:30 (GMT + 7)
 
 
TT - Hiện một số nhà nghiên cứu cũng như các bậc nhân sĩ, thức giả đă đặt vấn đề về nơi khai sinh ra loại chữ viết này.

 

Thầy Trần Đ́nh Trắc (phải) và nhà nghiên cứu Vơ Ngọc Liễn ở B́nh Định - Ảnh: H.V.M.
 

Những luận cứ khác nhau bước đầu đă được đưa ra, nhưng câu trả lời xác đáng vẫn c̣n ở phía trước...

Hội An - Thanh Chiêm?

"Từ những năm 1960-1970, khi nghĩ về di tích Nước Mặn với việc h́nh thành chữ quốc ngữ, một số nhân sĩ, trí thức ở B́nh Định chúng tôi đă nghĩ việc làm sao để đánh động nhà chức trách tổ chức ngày cả nước kỷ niệm chữ quốc ngữ hằng năm, nhưng vẫn chưa làm được v́ chiến tranh. Ḿnh sở hữu được loại chữ viết vô cùng tiện dụng, khoa học như vậy mà không có ngày quốc ngữ th́ thấy thiếu sót quá, đáng tiếc quá..."

Ông TRẦN Đ̀NH TRẮC

Người mạnh dạn cho rằng Hội An và Thanh Chiêm là nơi ra đời của chữ quốc ngữ là nhà nghiên cứu Nguyễn Phước Tương. Bản tham luận mang tên “Hội An - Thanh Chiêm và sự ra đời của chữ quốc ngữ” của ông ở tọa đàm khoa học về danh xưng Quảng Nam hồi năm 2001 mặc nhiên nói lên điều đó.

Với luận cứ rằng giáo sĩ Francisco de Pina là người mở đầu việc Latin hóa tiếng Việt tại hai cư sở Hội An (thành lập năm 1615) và Thanh Chiêm (1623), nhà nghiên cứu này đă cho rằng đây chính là nơi chữ quốc ngữ được làm ra. Giáo sĩ F. de Pina đến Đàng Trong - mà cụ thể là Hội An - vào năm 1617, rồi đến Thanh Chiêm năm 1623, nhưng vẫn thường đi lại giữa hai nơi bởi hai cư sở này cách nhau chỉ mươi cây số, theo tác giả Nguyễn Phước Tương, đây là những nơi có nhiều thuận lợi để học hỏi, nghiên cứu tiếng Việt cho các nhà truyền giáo lúc ấy. Ông dẫn lời của giáo sĩ F. de Pina trong bức thư viết dở của ḿnh: “Đối với tôi, việc nghiên cứu tiếng nói Kẻ Chiêm (tức Thanh Chiêm) vẫn là nơi tốt nhất với tư cách là trung tâm của triều đ́nh: ở đây người ta nói rất hay, có sự đổ dồn những người trẻ tuổi đến mà họ là những cống sinh và bên cạnh họ, những ai bắt đầu học tiếng có thể t́m thấy sự giúp đỡ”.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Thiếu Dũng lại đặt nặng vai tṛ của Thanh Chiêm trong sự ra đời của chữ quốc ngữ bởi đây là đô lỵ của dinh trấn Quảng Nam thời đó. “Đây là nơi hội đủ điều kiện để các giáo sĩ học hỏi ngôn ngữ bản xứ, văn hóa bản xứ, tâm lư người bản xứ để từ đó sáng chế ra chữ quốc ngữ theo mẫu tự Latin... Chính F. de Pina, bậc tiên khởi có công khai sinh chữ quốc ngữ, đă cho biết v́ sao ông chọn Thanh Chiêm là nơi nghiên cứu chữ quốc ngữ chỉ v́ một lư do đơn giản ở đây quy tụ nhiều văn nhân thức giả có thể giúp ông nhiều hơn ở nơi khác, đô thành th́ bao giờ cũng có người học thức hơn là nơi thị tứ chỉ có thương nhân...” - nhà nghiên cứu Nguyễn Thiếu Dũng viết.

Và tác giả Nguyễn Phước Tương đúc kết: “Rơ ràng ở nước ta trước hết là cảng thị Hội An rồi tiếp đến dinh trấn Thanh Chiêm là cái nôi ra đời sớm nhất và quan trọng nhất của chữ quốc ngữ so với Nước Mặn - Quy Nhơn và một địa điểm nào đó ở Nghệ An mà đến nay chưa được xác định cụ thể... Đă đến lúc cần tổ chức một cuộc hội thảo khoa học về lịch sử ra đời chữ quốc ngữ để trả lại sự công bằng cho Francisco de Pina như là nhà tiên phong sáng tạo chữ quốc ngữ chứ không phải giáo sĩ Pháp Alexandre de Rhodes như lâu nay chúng ta vẫn lầm tưởng...”.

Hay Nước Mặn?

Với người B́nh Định, có lẽ ư niệm về “chiếc nôi” của chữ quốc ngữ đến với họ sớm hơn. Cũng căn cứ vào những dữ liệu được họ coi là xác tín từ các thư tịch, những báo cáo mang tính biên niên của các giáo sĩ ḍng Tên ở Đàng Trong vào giai đoạn sơ khai đầy ấn tượng của chữ quốc ngữ, từ những năm 1969-1970 một số nhân sĩ, trí thức ở B́nh Định đă nghĩ đến việc “làm cái ǵ đó” để ghi dấu việc chữ quốc ngữ được khai sinh ở di chỉ Nước Mặn (nay thuộc thôn An Ḥa, xă Phước Quang, huyện Tuy Phước) của tỉnh nhà.

“Làm cái ǵ đó” - thầy Trần Đ́nh Trắc, cựu giáo viên Trường Sư phạm Quy Nhơn (trước năm 1975), hiện ở tại TP Quy Nhơn - kể năm 1972, qua bàn bạc, nhóm nhân sĩ, trí thức ở B́nh Định, trong đó có thầy Trắc, đă chọn phương án dựng tượng Alexandre de Rhodes ở ngă ba Phú Tài bên quốc lộ 1. “Hồ sơ về vai tṛ của Nước Mặn trong việc mở đầu chữ quốc ngữ, về công lao giáo sĩ Đắc Lộ chúng tôi nhờ các nhà nghiên cứu ở Sài G̣n làm để tŕnh hội đồng cố vấn giáo dục của chính phủ (Sài G̣n) duyệt. Về kinh phí để giải tỏa 29 gia đ́nh ở ngă ba Phú Tài đă được tỉnh B́nh Định chuẩn duyệt, nhưng rồi v́ t́nh h́nh xă hội bất ổn kéo dài nên chúng tôi chưa thể làm kịp...”, thầy Trắc nhớ lại.

Nhà nghiên cứu Vơ Ngọc Liễn cho rằng bởi vào năm 1617 chúa Nguyễn trục xuất các giáo sĩ ở cư sở Hội An, họ buộc phải quay về Áo Môn. V́ tàu gặp gió ngược, giáo sĩ Francesco Buzomi không đi được phải quay vào nương náu ở băi biển, lại lâm bệnh. Cũng vào năm 1617, F. de Pina vừa từ Bồ Đào Nha đến Hội An lần đầu, phải liều lẩn trốn ở nhà các Nhật kiều tại đây. May nhờ gặp được quan khám lư Trần Đức Ḥa - tri phủ Hoài Nhơn, nhân chuyến ra kinh đô Đàng Trong, gặp giáo sĩ Buzomi bị nạn, trên đường trở về Quy Nhơn đă rước các giáo sĩ F. Buzomi, F. de Pina, Cristophoro Borri và thầy giảng António Dias đưa vào bên cảng thị Nước Mặn, giúp đỡ mọi điều để lập ngay cư sở ở đây vào năm 1618. “Cũng nhờ được quan khám lư Trần Đức Ḥa ưu đăi, các giáo sĩ được có cơ hội tiếp xúc với các nho sĩ địa phương, với những người mới vào đạo nhanh nhạy, giỏi giang nên Pina đă sớm học được tiếng Việt tại đây...”, nhà nghiên cứu Vơ Ngọc Liễn giải thích.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Nhân cũng nhấn mạnh về vai tṛ “chiếc nôi” quốc ngữ của cư sở Nước Mặn: “Nước Mặn, với tư cách là cảng thị, lại có cư sở của các giáo sĩ ḍng Tên, thuở phồn vinh không chỉ là một trung tâm thương mại, trung tâm tôn giáo, trung tâm thiên văn mà c̣n là một trung tâm dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Và cũng là nơi Latin hóa tiếng Việt”.

Trích dẫn từ các tư liệu có được, linh mục Gioan Vơ Đ́nh Đệ - hiện ở tại ṭa giám mục Quy Nhơn - cho rằng cư sở Nước Mặn của các thừa sai ḍng Tên chẳng những là một trung tâm truyền giáo mà c̣n là nơi các thừa sai ḍng Tên nghiên cứu và sáng chế chữ quốc ngữ trong giai đoạn thô sơ nhất. “Theo linh mục Joaơ Roiz, năm 1620 đă có hai thừa sai nói thạo tiếng Việt đó là cha Francisco de Pina và cha Cristophoro Borri. Trong đó cha Borri chỉ làm việc tại Nước Mặn từ năm 1618 đến khi ra khỏi Đàng Trong vào năm 1622. Cha Pina đến Hội An năm 1617 trong thời kỳ bị trục xuất, phải lén lút, cha chỉ tiếp xúc được với người Việt khi làm việc tự do tại Nước Mặn từ năm 1618-1620. Trong khoảng thời gian từ 1620-1623 cha Pina đi về giữa Nước Mặn và Hội An, rồi năm 1623 cha lập cư sở tại Thanh Chiêm. Ngoài ra, cư sở Nước Mặn cũng là “trường quốc ngữ” đầu tiên cho các thừa sai đến sau như linh mục Emmanuel Borges -1622, linh mục Gaspar Luis, linh mục Girolamo Majorica -1624...

HUỲNH VĂN MỸ - BẢO TRUNG

Kỳ 1: Thuở ban đầu của chữ quốc ngữ
Kỳ 2: Hai bức thư và tập lịch sử nước An Nam
Kỳ 3: Ai có công đầu với chữ quốc ngữ?
Kỳ cuối: Đâu là “chiếc nôi” chữ quốc ngữ?
Xem Thêm: Quảng Nam: Miền đất khai sinh và truyền bá chữ Quốc ngữ Xem Thêm:

Post ngày: 10/19/17 

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17