|
Trích từ: Ca Dao Ngụ Ngôn Người Việt - Triều Nguyên - Nhà Xuất Bản Thuận Hóa 31 . CHÙA RÁCH CÓ BỤT VÀNG Chùa rách mà có bụt vàng, (II) Bị rách nhưng lại có vàng, Bài (l) ghi theo CDNT: 267. Bài (II) ghi theo TNCD: 98. Mỗi ḍng (ở đây, đồng thời là câu) của hai bài ca dao (I) và (II) đều theo mô h́nh: (tuy là) Ax nhưng có By, By e 'Ax; x,y chỉ định giá trị của A, B so với những sự vật cùng chủng loại, dạng thức (ví dụ: A: chùa; x: rách; B: Bụt, y: vàng; chùa rách không có giá trị bằng ngôi chùa b́nh thường, tượng bụt bằng vàng có giá trị hơn tượng bụt bằng đồng,...). Mô h́nh này nhằm khẳng định giá trị của Ax nhờ vào sự có mặt của By. Theo đó, th́ đây là hai bài ca dao đồng nghĩa: đừng thấy dáng vẻ, h́nh thức bên ngoài hư hỏng của một sự vật hiện tượng (có khả năng chứa đựng) mà phủ định nó, cái quan trọng là thứ mà nó có bên trong, nhiều lúc bên ngoài hỏng nát nhưng vẫn c̣n lưu giữ được thứ có giá trị. Suy rộng ra, chớ xem mặt mà bắt h́nh dong, chỉ thấy hiện tượng mà không thấy được bản chất của vấn đề, của sự vật; nếu chỉ qua dáng vẻ, phục sức mà đánh giá phẩm chất người khác, th́ thường bị sai lệch. <a href="http://e-cadao.com/giaithich/cadaongungon4.htm#31">CHÙA RÁCH CÓ BỤT VÀNG</a> 32. CHUỒN CHUỒN, VE VÀ C̉NG Con Chuồn Chuồn nhởn nhơ trên mặt nước, Ghi theo VNP7: 460. Các sách DCBTT; 72 và VNP7: 462-463 cũng chép bài ca dao với vài khác biệt nhỏ Riêng các sách TCBD l: 603, TNPD l: 68 và VNPS: 44a, ghi hai ḍng sau (với đôi chỗ khác biệt) thành bài riêng. Chuồn chuồn nhởn nhơ", Ve ca hát vang động cả phương trời"; chúng thật sung sướng, thỏa măn. đối sánh với cái dại của C̣ng ở ḍng thứ ba, th́ chúng thuộc hạng khôn", biết hưởng thụ thú vui của cuộc sống. . Đă làm thân C̣ng th́ phải c̣ng lưng" (một h́nh thức chơi chữ đồng âm) xe cát. Cái tất yếu về việc xe cát của C̣ng, cho dù để rồi bị sóng phá đi, nằm ngoài lẽ dại-khôn. V cả việc xây và phá đều thuộc quy luật tự nhiên; và với C̣ng, không thể vin vào "sóng dồi lại tan" để cự tuyệt việc xe cát, mỗi khi vẫn coi ḿnh ]à C̣ng. Sự biện minh cho việc làm của C̣ng như vậy, nhằm tạo mối liên tướng đến công việc của con người. Chỉ xét chung quanh ta thôi, có biết bao nhiêu người dược sinh ra và mất đi, mà hậu thế chỉ biết được tên tuổi qua các bản gia phả, tộc phả, c̣n những ǵ mà họ đă dày công tạo đựng, th́ gầnlnhư bị xóa sạch, không c̣n dấu vết. Với bản thân ta, những ǵ ta làm nên, nếu sau đó không được chính ta chấp nhận (hay không được cộng đồng tán thành), ta cũng hủy bỏ chúng đi, chưa nói đến việc chúng bị hủy hoại do rủi ro, thiên tai, địch họa,... Và cũng không hiếm kẻ tự cho việc làm của họ là hết sức quan trọng với một mất xích nào đó của tổ chức xă hội, trong lúc dưới cái nhận của người khác (hoặc với chính họ, sau khi đă thôi làm việc ấy), th́ chẳng có ư nghĩa ǵ. Nhưng đă làm người th́ không thể không làm những điều mà bản
thân thấy cần phải làm (với động lực chính là yêu cầu của cuộc sống và của xă
hội đương thời), không thể bảo thành quả lao động của ḿnh cuối cùng sẽ là con
số không, mà từ chối công việc. Bởi lao động để thành Người, cũng như xe cát để
thành C̣ng vậy. Và bên cạnh những cái đă biến mất, những sản phẩm công tŕnh c̣n
lại, có thể xem là những đại diện cho quá tŕnh lao động của tiền nhân (nổi bật
là các công tŕnh kiến trúc, các sản phẩm công Như vậy, bài ca dao đă chỉ ra, cần phải ư thức đầy đủ vai tṛ, vị trí và công việc của ḿnh, để có được những đóng góp có ư nghĩa, một lối sống phù hợp với yêu cầu của bản thân và xă hội, tránh thái độ tiêu cực, cho cuộc đời là vô nghĩa lí, dẫn đến việc tự nhấn ch́m ḿnh vào sự vô nghĩa lí ấy. <a href="http://e-cadao.com/giaithich/cadaongungon4.htm#32">CHUỒN CHUỒN, VE VÀ C̉NG</a>
Chuông Khánh c̣n chẳng ăn ai, Ghi theo TNPD II: 62, TCBD l: 558, TCBD lll~ ~84. Các sách VNPI II: 87, VNP7: 89 cũng có chép bài ca dao này, với vài khác biệt nhỏ. Các sách LHCD: 24b, ĐNQT: 96b chỉ chép hai ḍng đầu thành bài riêng. Sách NASL IV: 2h, có bài mang nội dung tương tự- Chuông trống c̣n chả ăn ai, Ở trang 17a sách này, c̣n có bài gần nghĩa khác: Thần thánh c̣n chả ăn ai, Khánh là một loại nhạc khí làm bằng ngọc hoặc đá phiến, có kích thước đa dạng và được trang trí đẹp. tiếng ngân có phần giống chuông nên cũng được gọi là Chuông khánh(1) Một vật quư như Chuông Khánh mà chẳng ăn ai", th́ Mảnh Chĩnh (Chĩnh làm bằng đất nung, thường dùng đựng mắm, muốn bị ném bỏ ngoài bụi tre, càng không thể "ăn rất, được. Sở dĩ có chuyện đối sánh này, v́ Mảnh Chĩnh có thể có h́nh dạng giông giống Chuông Khánh, và cũng phát ra âm thanh khá trong khi gơ (hai bài Ở NASL nằm ngoài chi tiết này). Việc so b́ tài cán như vậy đă rơ. Nhưng việc hướng thụ, th́ trong lúc Chuông Khánh c̣n ngần ngại chưa đám đ̣i hỏi mảnh Chĩnh đă tỏ ra muốn được phần (phần ngang bằng với Chuông Khánh). Ư nghĩa được rút ra: Kẻ tài hèn sức mọn phải tự biết bản thân để kính nhường bậc trên tài ḿnh; đặc biệt, trong việc hưởng thụ, càng phải chú ư, nếu vẫn không biết tự lượng sức m~mh mà đ̣i hỏi quá mức đóng góp, th́ chẳng những không được mà c̣n phải chuốc lấy tiếng cười chê. <a href="http://e-cadao.com/giaithich/cadaongungon4.htm#33">CHUÔNG KHÁNH VÀ MẢNH CHĨNH</a> (l) Chuông Khánh cũng có thể là một từ ghép, chỉ các nhạc cụ gơ nói chung ở đền, chùa. 34. CHUỘT CHÊ XÓ BẾP, KHÔNG ĂN Chuột chê xó bếp, chẳng ăn, Ghi theo TCBD l: 406. Các sách TNPD l: 90 và HHĐN: 46 cũng có chép bài ca dao, với vài khác biệt nhỏ. Xó bếp không phải là chỗ đàng hoàng để ăn. nhà dột không thể bảo đảm an lành khi nằm Nhưng đó là với Người. C̣n với Chuột, Chó th́ lại khác. Chuột mà được ăn ở xó bếp là đă tử tế lắm, Chó mà được nằm trong nhà dột là đă sang trọng lắm. Chê xó bếp không ăn, th́ Chuột phải ăn ở hang hóc bẩn thỉu hơn; cũng như chê nhà dột không nằm, th́ Chó phải năm ở bụi tre, tệ hại hơn nhiều lần. Tung tự với bài ca dao đang bàn, c̣n có bài: Vịt chê lúa lép không ăn, [VNPI li: 1 15] <a href="http://e-cadao.com/giaithich/cadaongungon4.htm#34">CHUỘT CHÊ XÓ BẾP, KHÔNG ĂN</a> 35. CHUỘT CHÙ Đ̉I SOI GƯƠNG TÀU Chim Chích Cḥe đ̣i đậu cành ṣi Ghi theo TCBD l: 405 <a href="http://e-cadao.com/giaithich/cadaongungon4.htm#35">CHUỘT CHÙ Đ̉I SOI GƯƠNG TÀU</a> 36. C̉ BỊ NGHI NGỜ LÀ KẺ PHÁ RUỘNG LÚA - Cái C̣, cái Vạc, cái Nông, Ghi theo HHĐN: 79, TCBD l: 552, TNPD II: 30, VNPI II: 27 và VNP7: 340. Các sách KSK: 13b, NASL IV: 45a, LHCD: 36a, TRCH: 21, ĐNOT: 1 02a và HT: 292 cũng có chép bài ca dao với vài khác biệt nhỏ (ví dụ: ḍng đầu, NASL IV ghi "C̣ c̣, diệc diệc, nông nông"; ḍng bốn, các sách HT, KSK, NASL IV, TRCH đều ghi "Mẹ con cái diệc đổ ngờ cho tôi"). C̣, Vạc và Nông (Bồ Nông) đều là những loài chim lớn, thường kiếm ăn ở bờ sông, ruộng nước'.' Riêng Vạc (đặc biệt là Diệc thích t́m mồi ở ruộng lúa hơn cả, và hay giẫm nát lúa khi rượt bắt cá. Hai ḍng đầu là lời của ông chủ ruộng. ông điểm mặt C̣, Vạc, Nông (hay co C̣. Diệc Diệc Nông Nông đoạn chỉ đích danh C̣ là kẻ đă giẫm lúa của ḿnh. Lời lẽ của ông ta trịch thượng, kết tội C̣ một cách tùy tiện. Bốn ḍng sau là lời thanh minh của C̣. C̣ bảo, C̣ chỉ đứng trên bờ, việc ngờ vực C̣ do me con Vạc gây nên; mọi chuyện sẽ trở nên rơ ràng nếu đến gặp chúng đang ở cạnh đây' để nghe phân giải ("đôi"; đôi chối, đôi hồi) Trong số các loài chim dược nêu tên, Bồ Nông lớn vóc hơn cả, và do vậy, nó cũng mạnh thế hơn; tiếp theo là "mẹ con cái Vạc" (hoặc mẹ con cái Diệc "), cũng là đối tượng có thanh thế (số đông), chỉ riêng C̣ là nhỏ xác, đơn độc. C̣ bị quy kết là giẫm lúa" khi chưa có chứng có xác đáng không thể không tính đến sự cô thế và bé vóc của nó. Lời ngụ có thể rút ra theo đó, là: Kẻ yếu thường bi bắt nạt, kết tội một cách oan uổng; sự thật, chân lí lẩm lúc rất hiển nhiên, không khó t́m kiếm, trong trường hợp này, thường hỉ là đi hoặc bị chà đạp, chí ít, cũng bị nghi ngờ ở giai đoạn đầu khi sự việc xảy ra. <a href="http://e-cadao.com/giaithich/cadaongungon4.htm#36">C̉ BỊ NGHI NGỜ LÀ KẺ PHÁ RUỘNG LÚA</a> 37. C̉ ĐI M̉ CÁI ĂN Con C̣ lặn lội bờ ao, Ghi theo CDNT: 122. Tại sao C̣ lại bị đối xử tàn nhẫn, bất công như vậy? V́ ruộng vườn, ao mương đều không phải của trời, ai cũng đến kiếm ăn được, mà chúng đều có chủ. Mỗi ngọn rau, con tép ở đó, tất nhiên cũng thuộc về ông chủ. Và ông ta có quyền vác cào nện C̣, bởi theo lí ấy mà suy, th́ C̣ là kẻ xâm phạm tài sản người khác, là mắc trọng tội, chứ không phải ehẳng làm điều ǵ xấu như đă nói. Mỗi khi ruộng đất, tư liệu sản xuất không có, người nông dân chỉ c̣n một con đường là đi làm thuê, làm đầy tớ cho che chú ruộng, bởi tất cả những sản vật xuất phát từ đất đai đều đă bị chiếm hữu. Con C̣ trong bài ca dao là h́nh ảnh một người nông dân nghèo khổ, yếu đuối, v́ đói đầu gối phải ḅ mà mom men đi vào phần ruộng ao của người khác để kiếm mớ rau, con cá, và chịu nhục nhă ê chề. Ngoài điều đă nói, bài ca dao c̣n là lời lên án sự nhẫn tâm của người chủ đất trước t́nh cảnh khốn khó của kẻ khác. <a href="http://e-cadao.com/giaithich/cadaongungon4.htm#37">C̉ ĐI M̉ CÁI ĂN</a> 38. C̉ GẶP NẠN Cái C̣ mày đi ăn đêm, C̣ đi ăn đêm là việc bất đắc dĩ (C̣ là động vật di kiếm ăn ban ngày). Gặp nạn ở ao không bay lên được, nó kêu cứu. Lời khẩn cầu "vớt tôi nao" đi liền với việc trăn trối mong đd+ợc chết bằng nước trong khi xáo măng, để đỡ đau ḷng C̣ con, nghe thật thảm năo. "Ông" là nhân vật mà C̣ nh́n thấy lúc nó lâm nan và hết lời cầu cứu ấy "ông" xáo măng với thịt C̣, th́ hắn là Ông Người. C̣ biết ḿnh là thức ăn ngon của ông Người, và trong lúc không thoát thân được lại gặp, th́ rơ những tiếng kêu cứu kia thực chất là những lời tuyệt mệnh. Thử tưởng tượng, ta bị kẻ cướp bắt trói rồi thả vào rừng; đang phải nằm bất động th́ một con hổ từ từ tiến lại... Biết đâu, lúc bay giờ, ta cũng kêu lên những lời tương tự (cầu được hổ cứu giúp). Ban đêm, hầu hết các loài chim kiếm ăn ở đồng như C̣ đều t́m
các lùm cây cỏ rậm quanh kênh mương, ruộng hoang để ân náu và phản xạ chậm dưới
ánh sáng mạnh. Nhược điểm này được con người vận dụng để đánh bắt chúng bằng gậy,
lưới rập và ngọn đèn ló (hay đèn x́, măng sông,...). Có thể, một người đi kiếm
ăn đêm này đă trông thấy con C̣ đang run rẩy sau phát gậy của ḿnh, bắt về, và
cảm thương cho nó mà sáng tạo nên bài ca dao chăng? Dù phải ăn thịt C̣ (hay bán
cho người khác ăn cũng thế). Con người vẫn không khỏi cảm thấy ray rứt trước một
h́nh ảnh quen thuộc, Trong tiếng kêu bi thảm của C̣, ta thấy hiện lên phẩm chất trong sáng, cao đẹp của nó, hiện lên t́nh cảm cha con/mẹ con; nghĩa là, một tư cách như con người. Thể hiện sự đồng cảm, tương cảm này, Bài ca dao nhằm nói lên: hăy thương yêu, coi trọng
sinh mạng cửa loài vật, tuy vật dưỡng nhân (vật là để nuôi người), nhưng nếu
không có lí do chính đáng th́ không nên vô cớ sát hại, bởi chúng cũng muốn được
sống, cũng có t́nh cảm với con cái và đồng (l) Đây chí là một cách hiểu. Trong ca dao, c̣
thường được sử đụng với tư <a href="http://e-cadao.com/giaithich/cadaongungon4.htm#38">C̉
GẶP NẠN</a> Cái C̣ là cái C̣ Quăm, Ghi theo HT: 235 và TNPD II: 28. Các sách CDNĐ: 60, VNPI l: 131 và VNP7: 274 cũng có chép bài ca dao, với vài khác biệt nhỏ. C̣ Quăm là anh C̣ cục tính, mặt mũi hẳn là luôn quằm quặm,
cáu gắt, và có thể cả ghen, nên sinh ra chuyện "hay đánh vợ". Có
kẻ ḍ hỏi: đánh vợ, nó giận không chịu nằm chung th́ mày nằm với ai?". C̣ Quăm
đáp: chỉ đánh vào buổi sáng, đến tối th́ cái Đánh rợ th́ đánh sáng mai, Chuyện đánh vợ không phải là chuyện xa lạ trong quan hệ vợ chồng với những người nông dân; sau khi thượng cẳng chân hạ càng tay, xắn vỡ vài thứ, th́ đâu cũng vào đấy, chẳng mấy khi hờn giận nhau lâu. Dẫu vậy, việc đánh người đầu áp tay gối cũng cần phải lên án. Bài ca dao có vẻ như nhắc khéo về một thời điểm có thể đánh
vợ trong ngày. Nhưng lúc sớm mai" là lúc tinh thần tỉnh táo, việc làm đang đối,
hiếm ai lại đánh vợ. Do đó, nó nhằm mục đích đả kích, răn đe thói xấu phổ biến
này. 40. CÓ VÀ KHÔNG CÓ 42a, NASL II: 54a, HHĐN: 256 và TNPD: 98 ghi hai ḍng đầu thành bài riêng, với đôi chỗ khác biệt nhỏ (ở Huế, có bài ca dao tương tự: Có mợ th́ chợ cũng đông; MỢ đi trong Quảng ai trông mợ về). Các sách NASL l: 41a và LHCD: 53b chép hai ḍng sau thành bài riêng (ở ḍng cuối, ghi "không" thay v́ "vắng'l, (đời" thay "th́"). Hai ḍng đầu, việc có và không có cô được đặt trong quan hệ
với chợ, tượng trưng cho nhịp sống của cộng đồng, và hệ quả được rút ra: có hay
không có có chẳng ảnh hưởng ǵ đến cuộc đời. Hai bài ca dao sau cùng nói rơ thêm
điều ấy: * Có cô thời chợ cũng đông, Ở hai ḍng cuối, việc có và không có cô được đặt trong phạm vi hẹp nhất, là quan hệ với chồng; có cô th́ chồng cô cũng ngày càng già đi, không có (hoặc vắng) cô th́ ông ta cũng qua một đời (với người vợ khác chẳng hạn). Việc có và không có cô th́ ông ta vẫn sống một đời người. Như vậy, xét trong phạm vi rộng cũng như ở phạm vi hẹp,
chuyện tác động của cô lên cuộc sống, chẳng có ǵ là to tát, là quan trọng cả.
Thường th́ đây không phải là lời tự kiểm điểm ḿnh của nhân vật "cô ", mà là sự
góp ư của nhân vật thớ hai, có khả năng Có không ít người thường quá đề cao vai tṛ của ḿnh, họ tự
cho, nếu thiếu ḿnh Ở một tổ chức, một cơ sở và ngay cả trong gia đ́nh, th́ công
việc, thậm chí cả tổ chức, cơ sở, gia đ́nh kia sẽ hư hỏng, tan nát. Bài ca dao
nhằm phê phán tâm lí này. <a href="http://e-cadao.com/giaithich/cadaongungon4.htm#40">CÓ VÀ KHÔNG CÓ</a> |
Xin vui ḷng liên lạc với
haphuonghoai@gmail.com về tất cả
những ǵ liên quan đến trang web nầy
|