Hà Phương Hoài
|
- Chương
Hai (tiếp)
-
*
-
- Tuấn
vào Núi A Di Ðà ở với sư cụ được hơn một năm. Ngày ngày chỉ lo luyện công cũng
như học chữ và đạo lý của Võ thuật tối cao do thiền sư Ðạo Nguyên chỉ dạy. Nhờ
sự giác ngộ phần nào qua hai lần nhập quan thiền định, Tuấn có thể thấu suốt
những đạo lý ảo diệu của võ học mà thiền sư dạy một cách dễ dàng. Ngoài ra Tuấn
còn có nhiều khám phá mới. Thấy thế thiền sư Ðạo Nguyên đem hết sở học của mình
truyền cho Tuấn. Ở mãi một nơi tứ bề chỉ có tiếng ve kêu chim hót cũng sinh nhớ
nhà nhớ bạn. Một hôm Tuấn sau khi luyện võ xong, lấy áo quần ra suối giặt, thì
thấy cái hộp đồi mồi mà bà Hồng đã đưa cho Tuấn trước đây. Tuấn đem cái hộp đó
đến một chiếc bàn nhỏ đặt cạnh cửa sổ, ngồi xuống thận trọng mở nắp hộp ra,
trịnh trọng cầm hai thẻ bài âm dương lên xem. Nhìn mãi Tuấn chẳng thấy có gì đặc
biệt ngoài hai chữ "âm" và "dương" trên hai thẻ. Tuấn trả hai thẻ vào hộp và lấy
hai cuốn sách ra xem. Cuốn thứ nhất là cuốn "An dân Chánh đạo" và cuốn thứ hai
là "Binh thư Kỳ tuyệt". Tuấn mở cuốn an dân ra đọc trước. Càng đọc càng thích
thú, quên cả việc giặt quần áo. Có lẽ mãi đến trưa mà vẫn không thấy Tuấn ra sân
luyện võ cho nên thiền sư Ðạo Nguyên qua chỗ ở của Tuấn để kiếm. Khi thấy Tuấn
đang đọc cuốn kỳ thư 'An dân Chánh đạo' lão biến sắc hỏi:
- - Ngộ
Kiếp ở đâu mà con có cuốn sách nầy?
- - Dạ
thưa sư cụ đây là gia bảo của mẹ con để lại.
- - Thế
còn cuốn 'Binh Thư Kỳ Tuyệt' và hai thẻ bài bằng ngà con có không?
- - Thưa
sư cụ con có, Tuấn mở hộp lấy sách và thẻ bài đưa cho thiền sư Ðạo Nguyên xem.
- Lão
thiền sư Ðạo Nguyên tay run run cầm các báu vật
nói:
- - Rốt
cuộc tất cả châu về hiệp phố.
- Tuấn
chẳng hiểu tại sao thẻ bài âm dương và hai quyển sách văn võ lại làm cho sư cụ
hứng thú đến như thế. Trong khi đó lão thiền sư ôm sách và thẻ bài vào lòng mắt
nhìn xa vắng.
- - Chắc
con không hiểu giá trị của hai quyển sách và thẻ bài âm dương nầy đâu! Nó quý
giá đến độ cách đây 35 năm, mọi người trong giang hồ lẫn chính quyền Pháp cũng
như nhà đương cuộc Việt Nam đã tranh nhau đoạt cho được. Bao nhiêu người đã mạng
vong. Ta lúc ấy cũng vì muốn chận đứng cảnh đau thương nầy đã xuất hành can
thiệp và vì phải nhúng tay vào cảnh máu tanh mà ta phải về đây sám hối tự bấy
giờ cho tới nay.
- - Tại
sao những vật nầy quý giá đến độ bao nhiêu người xông vào chỗ chết như vậy? Tuấn
hỏi.
- Lão
thiền sư kéo ghế ngồi cạnh Tuấn, từ tốn kể:
- - Tương
truyền lúc thiếu thời vua Quang Trung có lần đi lạc vào rừng sâu gặp dị nhân
truyền cho binh thư và sách an dân và nói:
- - Con
có số làm hoàng đế, ta cho con hai cuốn sách nầy để tạo an bình cho xã tắc. Có
điều muốn cứu dân Nam ra khỏi vòng đại họa, sát nghiệp của con sẽ rất lớn, và vì
thế dòng họ có thể bị nạn diệt vong. Con có tránh được hay không còn nhờ hồng
phúc của tổ tiên và cái tâm của con khi hành sự. Ta cho con hai chìa khóa âm
dương nầy để mai hậu con cháu sẽ mở cửa thiên khố để khôi phục lại đế vị của
dòng họ con, đồng thời cứu dân ra khỏi họa bị tận diệt.
- Nói
xong dị nhân biến vào không trung. Nguyễn Huệ hỏi cách xử dụng thì có tiếng vọng
từ trên không rằng:
- - Thiên
cơ chưa có thể tiết lộ, khi cơ thời đến thì tự nó sẽ đắc dụng.
- Triệt
hạ nhà Nguyễn Tây Sơn xong, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế. Ngay sau khi đăng
cơ, vua Gia Long nghe một kẻ làm việc bên cạnh Ngọc Hân Công Chúa tiết lộ, đã
cho người đi truy tìm chìa khóa âm dương cùng thiên thư nhưng đã không thành
công.
- Khoảng
35 năm trước đây thì thiên thư xuất hiện ở Núi Thất Sơn trong Nam. Thế là giang
hồ cũng như chính quyền đã đổ dồn về đó. Những trận thư hùng và đấu trí thần sầu
đã xảy ra làm cho người chết vô số. Ta thấy kiếp nạn quá lớn đã không thể ngồi
nhìn, cho nên đã tức tốc vào Nam tìm cách hóa giải. Khi đến Phan Lý thì thấy
Thần Hành Dị Khách Nguyễn Bồng bị Tứ Tài Tử và quần hùng vây đánh bị trọng
thương. Ta tiếp trợ được một lúc thì Nguyễn Bồng bị đuối sức. Họ tất cả nhảy lên
đánh nhầu với ta, cố gắng giật túi vải trên tay của Nguyễn Bồng. Thấy tình hình
quá nguy hiểm cho mạng sống của Nguyễn Bồng ta đành phải cõng ông ta chạy thoát
khỏi vòng vây của bọn Tứ Tài Tử.
- Kể tới
đây ông để báu vật xuống bàn hỏi:
- - Con
nói rằng mấy vật nầy là của gia bảo vậy con là gì của Nguyễn Bồng?
- - Dạ
thưa sư cụ, con không biết ông Nguyễn Bồng là
ai!
- - Vậy
cha con tên gì?
- - Dạ
thưa sư cụ cha con tên là Nguyễn Tuyên, có người còn gọi người là Sáu
Tuyên.
- Nghe
tới đây lão thiền sư có chút xúc động, ông tiếp:
- - Cha
con hình dáng ra sao có thể nói cho ta biết được không?
- - Dạ,
con chưa bao giờ thấy được mặt người! Trả lời xong Tuấn mủi lòng cúi mặt, nước
mắt từ từ tuôn rơi, nghẹn ngào nói không nên lời. Tuấn khựng một lúc sau mới
tiếp:
- - Cha
con đã mất tích từ khi con còn trong bụng mẹ.
- - Thế
à! Thiền sư Ðạo Nguyên tiếp lời, Ngộ Kiếp, con có những vật nầy là do hữu
duyên.
Mai đây có hưởng được những sự tốt lành hay gánh những kiếp nạn gây nên bởi
những vật nầy cũng là do phần số của con. Có điều ta muốn khuyên con rằng những
vật nầy luôn luôn gieo họa cho những ai giữ nó, vậy cho nên con chớ bao giờ để
lộ cho ai thấy, dù đó là người thân nhất của đời con cũng không được ngoại lệ.
- - Có
điều con chưa hiểu xin sư cụ chỉ dạy thêm.
- - Con
thắc mắc điều gì?
- - Giới
giang hồ có biết được diệu dụng của nó
không?
- - Riêng
hai cuốn thiên thư thì ai cũng hiểu cách dùng, còn thẻ bài âm dương thì chưa ai
rõ. Người ta lầm tưởng đó là chìa khóa để mở một kho tàng nào đó cho nên gọi là
chìa khóa âm dương. Thật ra hai chữ thiên khố mà thần nhân nhắc tới chưa hẳn đã
là kho vàng bạc châu báu, còn thẻ bài âm dương cũng chưa hẳn là chìa khóa để mở
kho tàng đó vậy.
- Ngừng
một chút, mắt nhìn về dãy Trường Sơn hùng vĩ, thiền sư Ðạo Nguyên
tiếp:
- - Giới
thông thạo về địa lý thì cho rằng Nước Nam là trọng tâm của những long mạch lớn
có thể làm bá chủ thiên hạ và chìa khóa âm dương sẽ giúp mở được long huyệt. Nói
tới đây thiền sư Ðạo Nguyên trìu mến nhìn Tuấn tiếp:
- - Ta
mừng cho con đã có những báu vật nầy, con hãy để tâm học thiên thư để mai mốt có
thể giúp đời, cứu dân ra khỏi vòng nô lệ của ngoại bang và ngoại thuyết. Còn đôi
thẻ bài âm dương ta đề nghị con nên hủy đi để tránh những tai kiếp do nó gây
nên. Ngoại trừ con muốn giữ nó vì gia huấn ta không
ép. Ta tin với võ nghệ của
con, hiện nay trong giang hồ không có mấy ai là địch thủ.
- Ngày
tháng trôi nhanh, một năm nữa lại qua đi, thấm thoát mà Tuấn đã đến Chùa được
bảy năm. Thời gian thay đổi dĩ nhiên con người cũng thay đổi. Tuấn bây giờ không
còn là một đứa bé con ốm yếu mà là một thanh niên cường tráng. Người cao ráo.
Ðôi mắt sáng ngời. Bề ngoài trông là một người vui tính vì trên môi lúc nào cũng
sẵn sàng điểm một nụ cười.
- Một hôm
sau khi ăn cơm tối xong, Tuấn không đốt đèn, đến ngồi bên cửa sổ nhìn về hướng
chùa. Tuấn nhớ thầy nhớ bạn nhất là nhớ đến Ngộ Pháp. Trong lúc hồn chàng đang
thong dong trong thế giới của tình cảm tốt đẹp thì có tiếng động bên
hè. Tuấn
ngẩng đầu lên nhìn ra chỗ phát ra tiếng động, Tuấn thấy 3 bóng đen thấp thoáng
gần tịnh thất của sư cụ. Tuấn tung người qua cửa sổ phía sau đi vòng về hướng
của kẻ lạ mặt. Tuấn núp ở gốc chuối quan sát ba bóng đen
kia, bỗng có một làn
gió lạnh đặp vào gáy chàng, Tuấn liền dùng
"truy ảnh bộ pháp" trong "thần hành
di ảnh" né tránh đồng thời xuất chiêu
"thần phong quá hải" đánh quật ngược ra
đằng sau. Vì chưa biết đối thủ là bạn hay thù cho nên Tuấn chỉ dùng hai phần khí
lực dù vậy chưởng phong cũng ra vù vù. Vừa nghe có tiếng giao
tranh, ba bóng đen
nhảy lại tiếp cứu. Từ ngày theo thầy học đạo cho đến nay, Tuấn chưa bao giờ xáp
trận thật sự cho nên chàng rất có hứng thú thi triển những điều sở học để trắc
nghiệm khả năng của Tuấn. Tuấn ra chiêu rất độc nhưng lại không muốn hại đối
phương cho nên khi quyền hay cước sắp điểm trúng đối phương thì chàng đã thu về
ngay. Hơn thế nữa nhờ đã đạt đến chỗ hài hòa trong vô thức cho nên lối đánh khó
có thể ai lường được sự ảo diệu của chiêu thức hay đòn thế. Ngược lại bốn người
kia quần thảo với Tuấn một cách chí tử nhưng cũng chẳng làm gì được Tuấn. Sau
khoảng một khắc thời gian, Tuấn thấy đối phương quyết ăn thua đủ với chàng, điều
đó chứng tỏ họ chẳng có chút thiện tâm
nào, Tuấn nhất quyết phải thu phục họ.
Tuấn xử dụng chiêu thứ hai mươi của
"phục hổ hàng ma tam thập lục thức" cùng
"truy ảnh bộ pháp", nhoáng một cái chàng đã điểm trúng huyệt đạo của cả bốn tên.
Bốn tên ngã xoài trên mặt đất. Bỗng có tiếng vọng từ trong tịnh thất.
- - Thật
tuyệt diệu ! Chiêu thức phối hợp đẹp và chính
xác.
- Lão
thiền sư Ðạo Nguyên bước ra khỏi tịnh thất, khen ngợi Tuấn.
- - Ðây
là Hắc Bạch Tứ Tài Tử của xứ Chùa Tháp. Trong khoảnh khắc mà con có thể hạ được
bốn cao thủ đương thời, chứng tỏ con đã đạt được mức tối cao của võ học rồi đó.
- Nói
xong lão giải huyệt đạo cho Tứ Tài Tử.
- - Ðã
hơn ba mươi năm rồi, lão qui ẩn lo tịnh
tu, vậy mà bốn thí chủ vẫn chưa cho là
đủ để hóa giải những ân oán giữa chúng ta hay
sao?
- - Anh
em chúng tôi đã bị bại dưới tay ngươi, vậy ngươi muốn làm gì thì
làm. Nếu chúng
tôi thoát được kỳ nầy hẹn ngươi ba năm sau sẽ trở lại tìm ngươi để tính cả vốn
lẫn lời.
- - Hơn
ba mươi năm luyện tập mà các thí chủ vẫn không hạ nổi một đồ tôn của ta thì làm
sao có thể tính chuyện trả thù. Trước đây vì lão tăng muốn hóa giải một kiếp nạn
cho chúng sinh mà đã phải dấn thân vào việc tầm bảo của giới giang hồ hắc bạch
hai đạo. Việc làm đó tuy cứu được bao nhiêu sinh linh song chính lão tăng lại
khai đao sát sinh cũng không ít cho nên lão tăng đã qui ẩn, tu trì hơn ba mươi
năm nay. Nếu các thí chủ vẫn cho việc nầy chưa đủ để hóa giải được ân oán giữa
chúng ta, lão tăng nguyện đứng yên cho bốn thí chủ đánh bốn quyền. Các thí chủ
có thể cùng ra tay một lần cho đủ sức mạnh. Lão tăng quyết không trả đòn cũng
như không vận nội lực để chống đỡ.
- - Nếu
lão nói như vậy thì chúng tôi đâu dám khách sáo. Anh em chúng tôi bảo đảm sẽ
thành toàn cho lão mau chóng về cõi Tây Thiên.
- Hắc
Bạch Tứ Tài Tử dàn ra đứng ở bốn phương vị khác
nhau, vận nội công chuẩn bị ra
đòn, bỗng có tiếng la:
- - Khoan
đã, Tuấn xen vào, bạch sư cụ để con chịu đòn nầy thay sư cụ. Tuấn vái vị sư già
nói.
- - Không
được đây là vấn đề của ta, con không thể xen
vào.
- Lão
thiền sư Ðạo Nguyên nhìn Tuấn một cách biết ơn rồi chậm rãi tiếp
:
- - Không
ai có thể thay ta để hóa giải một ân oán đã tích lũy hơn ba mươi năm nay.
- Quay
qua Hắc Bạch Tứ Tài Tử lão tiếp:
- - Các
vị có thể ra tay được rồi đó.
- Nói
xong lão nhắm mắt, bình thản chấp tay niệm Phật, hơi thở điều hòa. Hắc Bạch Tứ
Tài Tử lấy tấn, vận nội lực rồi một người hô, bốn người đánh thẳng vào lưng,
ngực và hai bên hông của lão thiền sư Ðạo
Nguyên. Lạ thay bốn người bị một lực
vô hình đánh bật trở lại ngã lăn trên mặt đất. Trong khi đó lão thiền sư vẫn
bình thường. Họ đứng dậy nhìn nhau rồi tung người vào bóng đêm mất
dạng.
- Tuấn lo
lắng, vội vã chạy lại hỏi han vị sư già, nhưng người đã khoát tay
nói:
- - Ta
không hề gì, con đừng lo cho ta. Lão ôn tồn nhìn Tuấn
tiếp:
- - Ðây
là môn Vô Lực Thần Công, một môn võ bí truyền giòng họ
ta. Nay
mai ta sẽ truyền lại cho con. Môn thần công nầy khó tập nhất. Thành công chưa
hẳn đã thành công vì thành công như ta thì chỉ có hại nhiều hơn lợi.
- -
Sư cụ nói gì mà con thấy khó hiểu quá. Tuấn nũng nịu với vị sư già.
- Qua
mấy năm sống bên cạnh sư cụ tình cảm giữa hai người cũng trở nên rất đậm đà. Có
thể nói cái tình cảm gắn bó như tình cảm huyết tộc.
- -
Ðúng vậy con khó mà có thể hiểu thấu được vì chưng chính ta cũng không biết được
rằng cho tới nay ta cũng chưa thấu đáo được cái huyền diệu của Vô Lực Thần
Công.
Ta đã hành sự lỗ mãng khi để cho Tứ Tài Tử đánh bốn quyền.
- Tuấn
chen vào:
- -
Con rõ ràng thấy Tứ Tài Tử tự chấp nhận bị bại bỏ chạy cơ mà!
- -
Chính chúng bại ta mới biết rằng sự thành công của ta trở thành nguy hại!
- Tuấn
bây giờ lại càng hồ đồ thêm. Tuấn đứng yên lặng, vì muốn hỏi nhưng chẳng biết sẽ
phải hỏi ra làm sao! Thiền sư Ðạo Nguyên nhìn thấu tâm cang của đồ tôn của
lão.
Lão tiếp:
- -
Lúc ta chịu đưa thân ra đỡ bốn đòn của Tứ Tài Tử là kế "Kim Thiền Thoát
Xác" mà thôi. Vì ta nghĩ rằng Vô Lực Thần Công của ta đã đạt đến cảnh giới
cao, có nghĩa
là ta có thể kiểm soát được lực phản hồi của thần công. Như vậy khi bốn quyền
chết người của Tứ Tài Tử chạm phải thân người của ta sẽ bị thần công hóa giải và
ta sẽ làm bộ ngã xuống chết. Ta mà chết thì Tứ tài Tử sẽ yên trí bỏ đi. Nhưng
khổ nỗi thay, thần công đã đánh bật chúng làm chúng mất mặt. Ân oán giữa ta và
chúng lại càng sâu đậm hơn.
- -
Như vậy càng tốt hơn, chúng sẽ bỏ ý định trả thù. Tuấn
nói.
- -
Chuyện đời con chưa thông, cho nên mới nghĩ thế. Con phải biết rằng lấy lực chõi
với lực sẽ sinh lực. Người tu hành lúc nào cũng lấy nhẫn nhục làm phương thức xử
thế. Người đời trái lại coi trọng danh dự. Danh dự còn thì người còn, danh dự
mất thì người mất. Trả thù chỉ là một hành động để bảo vệ cái danh dự đó. Con
nên nhớ oan oan tương báo. Hận thù, hơn kém chỉ đưa con người đến cái chỗ vô
thủy vô chung.
- Ông
nhìn Tuấn tiếp:
- -
Cái khó của Vô Lực Thần Công không phải chỉ tạo được cái lực quán thế để bá chủ
thiên hạ mà là để cảm hóa thiên hạ. Ta qua hơn ba mươi năm tịnh tu cũng chưa gột
bỏ được sức mạnh quán thế của đời. Có nghĩa là cái lực phản xạ của vô lực thần
công vẫn còn là vũ khí giết người một cách vô
tâm. Ta đoán chắc Tứ Tài Tử sẽ trở
lại một ngày rất gần. Ngày trở lại của họ sẽ là ngày của chết
chóc, ngày của đau
thương. Vậy có phải ta đã làm hại mọi người qua sự thành công không tới nơi tới
chốn của ta hay không?
- Tuấn
chỉ hiểu lơ mơ về những lời của thiền sư Ðạo
Nguyên. Nó muốn hỏi thêm nhưng
thiền sư đã tiếp:
- -
Bây giờ thì con chưa có thể hiểu được cái triết lý tối cao của Vô Lực Thần Công
nhưng nếu con ráng suy nghiệm sẽ thấy sự diệu dụng của
nó. Thôi con đi ngủ đi
sáng mai còn dậy sớm tập chiêu cuối cùng của Phục Hổ Hàng Ma Tam Thập Lục Thức.
-
- Ít
hôm sau, sau khi ăn cơm chiều xong, Lão thiền sư kêu Tuấn vào tịnh
thất.
- -
Ðây là bí cấp Vô Lực Thần Công con hãy theo đấy mà tập. Duyên sư đồ giữa ta và
conđến đây cũng vừa tròn. Bí quyết để giúp con chóng đạt Vô Lực Thần Công chỉ có
một chữ "Không". Bây giờ con thu xếp áo quần để xuống núi. Con hãy ráng hành
hiệp giúp đời. Con nhớ là phải đi khỏi vùng ảnh hưởng của Linh Sơn Tự
ngay. Con
không được trở về Chùa. Việc giã từ thầy và mọi người trong chùa không còn cần
thiết nữa. Con phải đi ngay. Sau nầy nếu duyên sư đồ chưa tận, thì ta vẫn còn có
thể gặp nhau. Ði ngay đi. À con nên nhớ, tập vô lực thần công để bổ khuyết cho
chỗ yếu của võ học, chớ bao giờ xử dụng nó một
mình. Không giữ ý sẽ mang đại
họa.
- Tuấn
tần ngần một lúc, rồi ngoan ngoãn quỳ xuống lạy lão thiền sư ba lạy. Lão thiền
sư đi vội vào tịnh thất nói vọng ra:
- -
Tuyệt đối con không được quay trở lại chùa. Nếu không hậu họa khó có thể lường
được. Nghe
chưa?
- - Dạ.
- Tuấn
đáp lời vị sư cụ bằng một tiếng nhỏ vừa đủ cho ông ta nghe nhưng trong lòng thì
rối rắm với nhiều nỗi thắc mắc. Tuấn lặng lẽ cúi đầu đi vào nhà thu xếp hành
trang, gói kỹ các di vật bỏ vào một cái bao vải, đeo lên vai đi về hướng tịnh
thất của thiền sư Ðạo Nguyên để giã từ người.
- Thiền
sư quát lớn:
- - Thôi
không cần phải thủ tục rườm rà. Ði ngay kẻo trời tối rồi.
- Biết
không thể cãi lời sư cụ được, Tuấn đành lặng lẽ chạy ra khỏi Núi A Di Ðà
Sơn.
- Tuấn
nhắm hướng Hắc Bạch Tứ Tài Tử chạy thoát sau khi bị thọ thương vì Vô Lực Thần
Công của lão thiền sư Ðạo Nguyên. Ði chừng một khắc đồng hồ thì phát hiện có ánh
lửa bập bùng phía sau lưng. Tuấn quay đầu lại thì phát hiện có hỏa hoạn ở Linh
Sơn Tự .
- Chẳng
cần suy nghĩ, Tuấn tức tốc tung mình chạy một mạch trở lại
chùa. Tới nơi thì
Tuấn thấy một cảnh hãi hùng đã xảy ra. Các đệ tử trong chùa đều bị thảm sát. Hầu
như mọi người đều chết dưới một dạng thương tích như
nhau: Tâm mạch nát bấy, máu
đẫm ngực. Tất cả mọi công trình vật chất của tiền nhân trên trăm năm nay bây giờ
chỉ còn lại đống tro tàn. Tuấn đi đến từng phòng của các vị sư chú, sư bác cùng
thầy nhưng chẳng thấy xác của các người đâu cả! Nhà bếp tuy không bị suy suyển
gì nhưng bác Tư thì nằm chết trên giường còn bác Sáu Tuyên thì không thấy dấu
vết gì. Tuấn lục soát khắp nơi không còn một ai sống
sót. Tuấn sực nhớ đến sư cụ
bèn chạy như bay ra núi A Di Ðà. Tuấn thấy tịnh thất vắng
tanh. Bàn ghế trong
tịnh thất đều bể nát điều đó chứng tỏ một trận ác chiến hay đập phá đã xẩy ra
tại đây. Kệ sách của sư cụ bị lục
tung, vách tường bị phá vỡ nhiều chỗ. Tuấn tự
hỏi:
- - Ai đã
gây nên đại nạn nầy? Còn các vị sư cụ, sư
ông, sư bác và các thầy, cả bác Sáu
nữa hiện giờ đang ở đâu?
- Tuấn ra
trước hiên tịnh thất ngồi yên lặng. Rồi Tuấn bật khóc. Bao nhiêu kỷ niệm êm đềm
trong bảy năm qua trở lại với Tuấn.
- Hừng
đông bắt đầu chói rạng, tiếng chim líu lo của những ban mai thường nhật đã bắt
đầu. Có lẽ chúng không biết một biến cố lớn đã xảy ra tại đây vào đêm qua. Chùa
Linh Sơn đã không còn nữa. Tuấn quay trở lại chùa thì thấy vài đệ tử tại gia từ
các nơi, sau khi phát hiện Linh Sơn Tự bị nạn đã kéo về. Một người thấy Tuấn
xuất hiện reo lên:
- - May
quá Ngộ Kiếp còn sống!
- Tuấn ở
lại với anh em đồng môn để lo tang sự cho các sư huynh đệ. Khi chôn cất mọi
người xong Tuấn quyết định rời khỏi nơi này để đi tìm kẻ thù diệt sư môn, đồng
thời dò la dấu vết của sư cụ cùng mọi người. Trước khi rời khỏi nơi mà Tuấn đã
lớn lên cùng nhận được tình thương và giáo huấn, Tuấn muốn nhìn lại những hình
ảnh thân yêu đó một lần chót. Trước hết Tuấn đi qua nhà ngủ của mọi người, dù
bây giờ chỉ là một đống tro tàn. Tuấn đau đớn nhìn đống than như ẩn chứa cả một
vòm trời kỷ niệm của đời Tuấn. Tuấn đứng lặng nhìn, bỗng cảm thấy mắt cay sè...
Chịu không được cảnh đớn đau chua xót nầy, Tuấn quay gót đi qua sân mà Tuấn hằng
đêm ra tập võ, Tuấn phát hiện một vòng tròn âm dương bằng máu nơi ghế đá mà Tuấn
vẫn ngồi khi nghỉ mệt. Tuấn cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của nó nhưng vì không có
kinh nghiệm giang hồ thì làm sao mà hiểu thấu được. Sau khi mọi người ai về nhà
nấy, Tuấn thui thủi đi rời chùa. Tuấn nhắm mắt đi nhưng chưa biết sẽ phải đi
đâu. Tuấn phải chấp nhận một cuộc khởi hành không có tính toán gì trước
cả.
- Vì qua
mấy đêm không ngủ và những ngày dài lo hậu sự cho mọi người Tuấn cảm thấy thân
thể rã rời. Tuấn mới đi được khoảng một giờ đường thì gặp một miếu Thổ Ðịa, Tuấn
vào miếu kiếm một góc thoải mái nằm xuống nghỉ mệt đợi sáng mai sẽ vào thành.
Tuấn thấy dưới chân bàn thờ là chỗ kín đáo nhất có thể ngủ được liền đi ra ngoài
bẻ cây làm chổi quét dọn một chỗ nằm. Tuấn lấy tay nải làm gối nằm xuống ngủ.
Khi đầu vừa chạm phải hộp chìa khóa âm dương, Tuấn lấy ra ngắm nghía một lúc rồi
lẩm bẩm :
- - Xin
sư cụ, nếu ngài đã tịch, xin ngài tha thứ cho tội đối nghịch của đồ tôn, không
phải con không vâng lệnh của sư cụ, nhưng vì con không muốn hủy hoại di vật của
mẫu thân, Hơn nữa thân thế của con vẫn chưa có chút manh mối nào, biết đâu vật
nầy chẳng giúp cho con tìm ra thân thế của mình.
- Khấn
xong Tuấn quay về hướng Linh Sơn Tự quỳ xuống lạy bốn lạy rồi bỏ di vật vào tay
nải rồi nằm xuống ngủ. Nằm xuống một chút không biết nghĩ gì, Tuấn đứng dậy bưng
tượng Thổ Thần trên bàn thờ xuống ngắm nghía. Một lúc sau Tuấn chạy ra trước
miếu đào đất lấy một tý đất sét đem vào miếu. Tuấn ngó dáo dác xung quanh một
lúc đoạn lấy hai thẻ bài nhét vào ruột tượng Thổ Thần xong lấy đất sét bịt lỗ
rỗng lại. Xong công việc, Tuấn nằm xuống đánh một giấc cho tới sáng.
- Thành
phố Qui Nhơn vào một ngày cuối đông, cái lạnh ướt át của miền duyên hải làm cho
mọi người bộ hành phải khép nép vào trong những chiếc áo tơi bằng lá. Những
người giàu thì đi xe, ngồi trong xe có mui che có rèm phủ, kẻ nghèo thì cong
lưng chống chõi với cái lạnh cóng xương, làm thân trâu ngựa cho người sướng
thân! Lần đầu tiên thấy cảnh tương phản của cuộc đời Tuấn không khỏi cảm thấy
bất nhẫn trong lòng. Tuấn đi sâu vào phố thị và dù trời mưa rét mướt nhưng quán
xá vẫn đông người. Các cửa hàng bầy biện rất đẹp mắt. Ðảo mắt một vòng để tìm
một quán nước, kiếm gì lót dạ, vì đã hơn một ngày trời Tuấn chỉ ăn hai củ khoai
lang.
- Bước
chân vào một tiệm ăn bình dân nhưng rất sạch sẽ, Tuấn đang ngơ ngác chưa biết
phải làm gì thì người hầu bàn chạy ra mời Tuấn ngồi vào một chiếc bàn con gần
cửa, xong đưa thực đơn cho chàng. Tuấn không biết gọi món ăn nào, đúng lúc đó
người ngồi bàn bên cạnh gọi:
- - Cho
một tô mì thập cẩm hai vắt, một cái xây chừng.
- Tuấn
bắt chước gọi ngay:
- - Cho
tôi một tô mì chay.
- Người
hầu bàn nhìn Tuấn một cách ngạc nhiên xong rồi trả lời:
- - Ở đây
không bán cơm chay, Muốn ăn chay thì vào chùa mới có.
- Tuấn
thầm nghĩ mình đâu phải là người xuất gia thì đâu cần chay trường, nghĩ vậy mới
nói:
- - Vậy
thì cho một tô mì không chay vậy.
- - À cái
anh này kêu món ăn gì mà kỳ quá vậy. Anh phải cho biết anh muốn ăn loại mì gì.
Mì tôm, mì vịt, mì thập cẩm... anh ta đọc cho một hơi cả chục loại mì. Tuấn
không biết nên chọn món nào, cho nên thành thật nói:
- - Anh à
tôi ở quê mới lên, chưa bao giờ ăn mấy thứ nầy, vậy anh cho món nào ăn no bụng
thì được rồi.
- Người
hầu bàn có lẽ thông cảm cho hoàn cảnh của Tuấn, rót nước cho chàng xong đi thẳng
vào nhà bếp. Có lẽ đây là một quán ăn ngon cho nên đã mười giờ sáng thế mà thực
khách còn đầy tiệm. Họ cười nói hút thuốc phì phà khói um cả tiệm.
- Tuấn
cảm thấy lạc lõng quá, lơ đễnh nhìn ra đường. Trong khoảnh khắc người hầu bàn đã
đem cho chàng một tô mì lớn khói lên nghi ngút. Tuấn cầm đũa lên gắp mì ăn. Vì
đã bảy năm hơn chàng ăn chay trường cho nên cảm thấy tô mì tanh tưởi lạ thường,
nhưng cũng ráng nuốt, vì kể từ nay chàng phải sống như mọi người. Ăn xong tô mì,
Tuấn vừa cầm tay nải định lấy tiền ra trả rồi tiếp tục con đường vô định của
chàng thì có tiếng huyên náo ở góc tiệm. Tuấn ngẩng đầu lên nhìn về hướng đó
thấy một cô gái ngồi với một người con trai ăn mặc bảnh bao, bị một số người gây
sự:
- - Nếu
cô nương biết điều thì ưng thuận theo lời của cậu của tôi đi. Ở đây thiếu gì
người đẹp hơn cô nhưng cậu của ta chỉ chiếu cố đến cô thôi.
- Người
con trai đi chung với người con gái giận dữ đẩy bàn sang bên
quát:
- - Này
cái lũ chó săn xách giầy cho em ta còn chưa xứng huống hồ... Mau cút đi cho
khuất mắt ta bằng không ta sẽ không tha cho các người đâu.
- - Người
dám nhục mạ ta hả, một thanh niên bảnh bao ngồi gần bàn kế bên đứng dậy la lớn.
La xong hắn nhìn qua bàn của đám thủ hạ ra lệnh:
- - Tụi
bay bẻ răng thằng nhóc nầy cho ta.
- Bọn
người đàn ông mặt mày hung ác đứng dậy nhào vô đánh nhầu người thanh niên đi
chung với cô gái. Người thanh niên lúc đầu còn đánh tây đỡ đông, nhưng nhất hổ
bất địch quần hùng, anh ta đã trở thành bị thịt cho bọn người kia đánh tới tấp.
Tuấn thấy cảnh bất bằng không nhịn được, đành đeo tay nải lên vai đứng dậy can
họ. Tuấn thay vì trực diện với bọn côn đồ, đã dùng trí để chúng tự đánh lẫn
nhau. Chỉ một lúc sau bốn tên đó mặt mày sưng húp. Biết rằng bọn họ đã gặp phải
địch thủ đáng nể, kéo nhau rút lui êm thắm.
- Người
thanh niên, anh của cô gái bị đánh nhừ tử, nằm gục lên bàn. Tuấn đỡ chàng ta
dậy, nắn bóp vài cái chàng thanh niên đã thấy dễ chịu. Cô gái tiến đến trước mặt
Tuấn nói:
- - Anh
em chúng tôi xin thành thật đa tạ ân nhân đã ra tay tương trợ. Xin ân nhân vui
lòng cho biết quý danh. Tôi tên là... và
người con gái cảm thấy thật khó khăn mới nói ra được tên của mình, tôi
tên là... là... Tú Anh, anh tôi là Quân.
- - Xin
cô và cậu Hai đừng khách sáo, phận làm trai khi thấy việc trái tai gai mắt ai ai
cũng hành động như tôi thôi. Vả lại tôi có làm gì đâu mà cô gọi là ân nhân.
Chẳng qua chúng bất cẩn đánh nhằm nhau trọng thương đấy
thôi!
- - Nếu
tôi không lầm thì ân... à... anh từ xa đến đây phải không? Xin cho biết quý danh
để tiện xưng hô!
- - Dạ
đúng thế, tôi mới từ quê đến đây kiếm việc sinh sống. Tên tôi chẳng có gì đáng
để cho cô và cậu Hai phải bận tâm.
- Qua một
lúc vấn đáp giữa Tuấn và Tú Anh, Quân bây giờ mới hoàn hồn lên
tiếng:
- - Nếu
anh đến đây kiếm việc làm hay là về dinh tuần vũ của cha tôi. Người sẽ có nhiều
việc cho anh làm lắm. Luôn tiện...
- Quân
định nói gì đó nhưng tự nhiên khựng lại, Tú Anh đánh trống lảng:
- - Chắc
anh cũng không ngại gì phải không?
- - Nếu
nhờ cậu Hai giúp mà tôi kiếm được một
công việc vừa sức là một điều may mắn
cho bản thân tôi vậy.
- - Vậy
thì hay quá! Nói xong nàng quay về hướng quầy tiền
nói to:
- - Phổ
ky tính tiền.
- Ở
một tỉnh lỵ nho nhỏ nầy thì con cái của
những người có máu mặt vênh váo, kênh kiệu
nhau ở trong quán xá cũng chỉ là chuyện thường.
Người phổ ky, nhìn bàn ghế đổ gẫy,
gãi đầu khó xử.
- Tú Anh
biết điều đó cho nên trấn an
- - Tính
luôn cả hư hao, chúng tôi trả luôn cho
- - Dạ,
người phổ ky cũng sợ mất lòng quan tuần
vũ cho nên nói đẫy đưa, chúng tôi đâu
dám đòi khoảng đó.
- -
Không sao, cứ tính đi đừng ngại.
- - Nếu
cậu Hai và cô rộng lượng hải hà thì xin cho
chút ít để sửa lại. Mấy cái ghế nầy
cũng chẳng đáng là bao.
- Trong
lúc Tú Anh loay hoay trả tiền, Tuấn về bàn móc
quý kim ra trả.
- - Tôi
không có tiền, xin anh vui lòng nhận thứ nầy vậy.
- Nói xong Tuấn đưa một
sợ giây chuyền bằng vàng độ mấy chỉ
cho người hầu bàn.
- - Trời
ơi một tô mì có mấy đồng mà anh
đưa thứ này thì làm sao mà tính.
- Khi
đã trả tiền xong, Tú Anh và Quân đến bàn Tuấn,
để cùng đi với chàng thấy sự thể
Quân liền móc tiền ra trả cho người hầu
bàn nói.
- - Thôi
anh lấy tiền nầy vậy!
- Tuấn
bối rối nói:
- -
Ấy ai mà làm như vậy?
- - Anh yên
tâm đi, Tú Anh nhanh nhẩu xen vào, chút xíu có gì đáng
kể đâu!
- Người
thanh niên tên Quân thân mật nắm tay Tuấn kéo đi
ra cửa. Dù người bị đau nhức và có vết
bầm dập trên mặt, Quân thấy hứng thú vì
đã có được một người bạn mới,
võ công cao cường. Muốn kéo dài những phút hứng
thú nầy, nên Quân kêu anh phu xe của phủ tuần vũ
đang đợi họ, khoát tay nói:
- - Chú
về trước đi, Anh em chúng tôi đi bộ về.
Chú thưa với quan lớn, chúng tôi về ngay.
- Họ
vừa đi vừa cười nói thật là vui vẻ.
Tuy vừa biết nhau thế mà Tú Anh và Quân cung xử
rất tự nhiên với Tuấn làm như họ đã
quen nhau từ lâu rồi.
- Tuấn
ít nói, hơn nữa mới chỉ là sơ giao, cho nên
chỉ trả lời những câu hỏi của Tú Anh
và Quân. Dĩ nhiên những câu mà họ hỏi Tuấn
chỉ là những câu hỏi về Tuấn. Chuyện
chưa hết mà họ đã về tới cổng phủ
tuần vũ. Tú Anh và Quân dắt Tuấn ra mắt quan
tuần vũ và phu nhân:
- - Ba
má à hôm nay chúng con bị một đám côn đồ hành
hung may nhờ anh nầy cứu. Con đưa anh về
xin ba má tạ ơn. Quan tuần vũ nhìn Tuấn, tuy
không tỏ vẻ khinh khi nhưng trong bụng nghĩ thầm:
"Không hiểu hắn đã làm gì mà cứu
được con của mình khỏi tay bọn vô loại",
đã ôn tồn hỏi:
- - Anh
chắc không phải là người địa
phương?
- -
Thưa quan lớn con từ nhà quê lên đây kiếm việc
làm. Con cũng chỉ vì thấy việc bất bằng
quờ quạng vài chiêu nhưng nhờ hồng phúc của
quan lớn cho nên cô Ba và cậu Hai thoát nạn. Thật
ra con chẳng có tài cán gì cả!
- -
Không phải đâu ba ơi, anh ấy khiêm nhường
đó. Tú Anh nhanh nhẩu trả lời, Con không biết
anh ấy đã dùng phép gì mà bốn tên hộ vệ của
thằng Phương đang đánh anh Quân xoay ra đánh
nhau đến lỗ đầu chảy máu mũi đến
thảm hại đó ba má à!
- - Anh
có đi học không?
- - Dạ
thưa quan lớn, con cũng được học
đôi chút.
- - Anh học
đến lớp mấy?
- - Dạ
trình quan lớn, con chỉ học với một thầy
đồ cho nên không phân biết lớp lang gì cả!
Tuấn không dám nói sự thật.
- - Như
vậy anh chỉ học chữ nho không thôi sao?
- - Dạ
thưa con học cả tân lẫn cựu.
- - Nếu
anh có học chữ Hán, ta có một câu đối mà
ta vẫn chưa tìm ra được vế đối,
anh giúp hộ ta nhé.
- - Dạ
thưa quan lớn, con đâu dám, con chỉ học chút
ít chữ nho cho nên không thạo về thơ phú, xin
quan lớn tha tội cho.
- Thấy
Tuấn nói năng lễ phép, đúng là người có
chút sách đèn, ông nói:
- -
Chúng tôi thành thật biết ơn lòng nghĩa hiệp
của anh. À chẳng hay lệnh tôn lệnh mẫu
ở đâu mà anh lại ra tỉnh kiếm việc làm?
- - Dạ
con mồ côi sớm, sống nương nhờ người
khác nhưng nay họ cũng không còn nữa, do đó
con đến đây tìm kế sinh nhai.
- - Thôi
được, luôn tiện ta cũng đang cần thêm
một thầy ký ở phủ đường. Anh
ở đây điền vào chức vụ ấy giúp ta.
- Tuấn
tuy không thích lắm vì không quen đời sống quan
quyền nhưng dù sao mới ra đời cũng cần
có nơi nương tựa, từ từ rồi kiếm
chỗ khác thích hợp hơn, vả lại chỗ nầy
cũng tiện cho việc truy tầm hung thủ diệt
sư môn của chàng. Nghĩ vậy Tuấn chấp tay
vái:
- - Ða tạ
quan lớn đã thương con, hảo ý của quan lớn
con đâu dám khước từ. Quay
qua Quân Tuấn tiếp:
- -
Nếu có điều gì sơ sót xin cậu Hai bồi
đắp thêm cho.
- Quan
tuần cho chàng một căn phòng nhỏ ở nhà sau
phủ đường thường dùng cho các quan sai cấp
nhỏ từ các huyện khi có việc lên phủ ngủ
qua đêm.
- -
Bay đâu, mau lo dọn một căn phòng ở sau dịch
xá cho thầy ký ở.
- Quân
hầu ngơ ngác nhìn Tuấn dạ một tiếng rồi
lễ phép mời Tuấn đi theo họ đến dịch
xá. Thế là bỗng nhiên Tuấn trở thành thầy
ký của phủ tuần vũ. Tuấn không biết việc
nhưng nhờ một thư lại đang tại chức
chỉ điểm. Với trí thông minh chỉ trong một
thời gian ngắn Tuấn đã thông thuộc phần
nhiệm vụ của chàng. Quân, từ ngày có Tuấn
trong tỉnh đường, đỡ thấy cô
đơn. Quân thường xin phép cha đưa Tuấn
đi chơi đây đó, nhờ vậy việc học
hỏi của Tuấn càng nhanh hơn. Thấy công tử
nhà quan hay đưa đón thầy ký đi chơi, các
bạn đồng nghiệp của Tuấn đâm ra nể
vì. Nhiều khi họ còn làm hết mọi công việc
cho Tuấn. Tú Anh rất thích Tuấn nhưng lúc đầu
nàng giữ thể, chỉ gặp Tuấn khi nào có anh
nàng mà thôi.
- Một
hôm Quân ngỏ ý xin Tuấn nhận Quân làm đệ tử.
Nhận thấy Quân tuy là một công tử con quan nhưng
tính tình điềm đạm, tốt với mọi
người cho nên Tuấn nhận lời dạy chàng
và Tú Anh.
- -
Tôi có thể truyền thụ võ nghệ cho cậu và
cô nhưng không được cho ai biết, và không thể
gọi tôi bằng thầy vì tôi dù sao tuổi cũng
chỉ ngang hàng với quý vị.
- Từ
đó tối nào Tuấn cũng để dành chút ít
thời giờ dạy võ nghệ cho Quân và Tú Anh.
- Thời
gian thấm thoát trôi qua nhanh, Tuấn đã ở nhà
quan hơn nửa năm. Tuấn chẳng những
được sự quý chuộng của mọi người
nhất là hai anh em Quân mà quan Tuần cũng rất tin
dùng chàng. Mỗi khi có việc đi kinh lý các huyện
Tuấn thường được ông cho đi theo. Có
một lần Tuấn theo ông đi về huyện Tây Sơn.
Quan huyện họ Phan tiếp đón phái đoàn tại
huyện lỵ. Trong phần thuyết trình ông huyện
nói:
- -
Tình hình chung của huyện về mọi mặt đều
khả quan, thuế má năm nay, thu có phần trội hơn
năm trước nhờ dân chúng được mùa.
Riêng tình hình chính trị thì có nhiều điều
đáng ghi nhận. Tàn dư của Việt Minh vẫn
còn, thế lực của chúng không giảm bớt như
dự tính mà còn mỗi ngày một lớn mạnh. Ðiều
đáng nói hơn hết là trong những tháng gần
đây, có một việc làm ty chức lo ngại vô
cùng, đó là việc giới hắc bạch kéo nhau về
làng Tây Sơn. Sự chuyển động nầy đã
làm xáo trộn dân sinh không ít.
- -
Chuyến kinh lý kỳ nầy của bổn chức
đến quý huyện cũng không ngoài lý do nầy.
Quan lớn có tìm hiểu được căn nguyên mà
giới giang hồ hắc bạch đã đổ dồn
về Tây Sơn chưa?
- -
Bẩm quan lớn, sau khi thấy có vài biến chuyển
đáng ghi nhận thì ty chức đã tức tốc
cho người đi điều tra. Cuộc điều
tra sơ khởi cho thấy đây là một cuộc
chuyển động trọng đại có tính cách lịch
sử.
- -
Quan lớn có thể nói rõ hơn được không?
- -
Trình quan lớn, họ đổ dồn về Tây Sơn
để tầm bảo. Họ tin rằng Hoàng Ðế
Quang Trung còn để lại một kho tàng rất lớn
cho dòng dõi của mình tại làng Tây Sơn.
- -
Hoàng Ðế Quang Trung đóng đô ở Phú Xuân thì
làm sao lại chôn kho tàng ở đây?
- -
Trình quan lớn, tương truyền rằng khi còn
ấu thời, Nguyễn Huệ đã gặp được
thần nhân khi đi vào rừng luyện võ và thần
nhân nầy tặng cho một bộ thiên thư bình và
trị quốc gồm hai quyển sách. Quyển một
là văn - dạy phép an dân, quyển hai là võ - dạy
phép dùng binh. Hoàng Ðế Quang Trung đại thắng
được quân Thanh là nhờ vào quyển thiên thư
nầy. Ngoài ra thần nhân còn cho một đôi chìa
khóa âm dương dùng để mở một kho tàng.
Kho tàng nầy chỉ được xử dụng vào
việc phục quốc sau nầy. Thật ra kho tàng
ở đâu không ai biết. Nhưng người ta
đoán rằng kho tàng đó phải ở làng Tây Sơn.
Lý do dễ hiểu thôi, vì Tây Sơn là tụ điểm
của nhiều long mạch sẽ sinh ra vị thiên tử
bá chủ thiên hạ. Chính người Tầu lo sợ
điểm nầy nên đã cho người sang phá ngôi
đất kết của nhà Nguyễn Tây Sơn trước
đây. Vậy kho tàng của trời cho cũng phải
ở trong phạm vi ngôi đất trời cho nầy vậy.
- -
Chuyện nầy đã xảy ra trước đây cả
hơn hai trăm năm tại sao tới nay họ mới
bắt đầu đi tìm?
- -
Thật ra vụ tìm kho tàng tại đất Tây Sơn
nầy cũng đã xảy ra rất thường xuyên.
Cách đây 35 năm giang hồ cũng đã dậy
sóng và biến cố đó đã kéo dài cho đến
ngày nay. Theo ty chức được biết thì cách
đây gần một năm, khi Hắc Bạch Tứ Tài
Tử của xứ Chùa Tháp đến Linh Sơn Tự
đòi món nợ hơn ba mươi mấy năm
trước nhưng đã bị bại dưới tay
của một đồ tôn của Ðạo Nguyên lão Thiền
Sư. Sau khi được thả, xuống núi tung tin rằng
người giữ chìa khóa bảo tàng của dòng họ
Tây Sơn còn sống và hiện đang sống ở
Linh Sơn Tự. Ít lâu sau toàn thể tăng chúng trong
Linh Sơn Tự đều bị thảm sát. Nhưng lão
thiền sư Ðạo Nguyên cũng như đồ tôn
của ông ta không có mặt lúc chùa bị thảm nạn.
Giang hồ nghĩ rằng đồ tôn của lão chính
là con trai của Nguyễn Tuyên hay chính là lão đầu
bếp trong chùa.
- Tuấn
đang ngồi chăm chú nghe giật bắn người.
- Sau
khi chiêu xong ngụm nước trà quan huyện nói tiếp:
- -
Nguyễn Tuyên chính là con trai của Thần Hành Di
Ảnh Nguyễn Bồng, cháu kêu lão thiền sư Ðạo
Nguyên tức Nguyễn Bổng bằng chú. Hai Mươi
mấy năm trước đây Nguyễn Tuyên sống
với vợ ở làng Tây Sơn. Nguyễn Tuyên rất
thần bí cho nên chẳng mấy ai biết rõ lão là ai.
Qua giới giang hồ, theo lời của Hắc Bạch
Tứ Tài Tử, thì đồ tôn của lão thiền sư
Ðạo Nguyên được chân truyền về Thần
Hành Di Ảnh và Phục Hổ Hàng Ma Tam Thập Lục
Thức hai môn bí truyền của nhà Nguyễn Tây Sơn.
Môn võ tối cao nầy không truyền cho người
ngoài, thế mà đồ tôn của lão ta tập
được. Do đó họ để tâm điều
tra, mới biết được rằng, cậu bé
đó chính là Nguyễn Tuấn từ làng Tây Sơn nhập
môn Linh Sơn Tự bảy năm về trước.
- Quan
tuần vũ nghe như thế, không biết vô tình hay
hữu ý, quay qua nhìn Tuấn, Tuấn lấy hết
bình sinh để giữ không cho những phản ứng
về tâm lý lộ ra trước mặt hai người.
- Tuấn
không ngờ chuyến đi nầy của chàng lại
có nhiều bổ ích đến thế. Tuấn
tự an ủi:
- - À ra
môn Thần Hành Di Ảnh và Phục Hổ Hàng Ma Tam Thập
Lục Thức là môn võ bí truyền của nhà Nguyễn
Tây Sơn? May mình đã dối họ chứ không thì lộ
hết cả rồi.
- Nhưng
câu chuyện do Phan Tri Huyện kể lại, làm cho Tuấn
thấy rối như tơ vò. Nội dung quan huyện
thuyết trình cho quan tuần thiệt là đầy
đủ chi tiết, làm như ông ta là người
trong cuộc vậy. Theo như lão cho biết thì Nguyễn
Bồng là anh song sinh của sư cụ của chàng vậy
mà khi kể chuyện xảy ra ở Phan Lý, sư cụ
không hề nhắc hay nhận Nguyễn Bồng là anh? Tại
sao Nguyễn Tuyên là con của Nguyễn Bồng tức
là cháu ruột của sư cụ mà sư cụ chẳng
chút xúc động khi Tuấn cho người biết Tuấn
là con của Nguyễn Tuyên tức Sáu Tuyên. Còn chuyện
của chàng nhập môn ở Linh Sơn Tự lão cũng
biết rất rõ. Trong chùa ngoại trừ Thầy và
Ngộ Pháp biết rõ tên cúng cơm của Tuấn còn
mọi người chỉ biết có Pháp danh của
chàng là Ngộ Kiếp mà thôi. Thật ra cái tên Tuấn
không có họ chỉ sống ở chùa trong một thời
gian chưa đầy bốn tháng, thì làm sao có người
nhớ được, thế mà lão tri huyện lại
nêu đích danh Nguyễn Tuấn. Nghĩ tới đây
Tuấn rùng mình và hối hận đã không thay tên
đổi họ khi vào làm việc với quan Tuần.
- Trong
khi đó viên Phan Tri Huyện chiêu một hớp nước
trà rồi tiếp:
- - Sau vụ
thảm sát ở Linh Sơn Tự, người ta tin chắc
rằng, Nguyễn Tuấn cũng như chú của hắn,
hậu duệ của Vua Quang Trung, vẫn còn sống,
ắt phải dìu dắt nhau về ẩn náu xung quanh
vùng có kho tàng cho nên giang hồ hắc bạch lại
kéo nhau về đó mong tìm được chút lợi.
- - Quan
lớn còn điều gì quan trọng cần trình bầy
nữa không? Lão tuần vũ hỏi.
- - Dạ
trình quan lớn, chỉ có bấy nhiêu. Bây giờ chắc
quan lớn cũng đã mệt lắm rồi, xin mời
quan lớn về phòng nghỉ ngơi một tý, tối
nay ty chức xin qua rước quan lớn dùng cơm tối.
- Quan tuần
vũ đứng dậy theo quan huyện họ Phan, Tuấn
cũng đi theo người tùy phái của huyện lỵ
về phòng dành riêng cho các viên chức tháp tùng phái
đoàn. Vừa đi vừa nghĩ về lời của
quan huyện, Tuấn toát mồ hôi hột. Nếu vô ý
một chút có thể gặp nhiều rắc rối. Những
dữ kiện thu thập được ngày hôm nay rất
bổ ích cho việc đi tìm thân thế của Tuấn.
Tuy còn nhiều khúc mắc nhưng Tuấn có thể nghĩ
rằng bác Sáu Tuyên là thân phụ của chàng. Sở dĩ
ông ta không muốn nhận chàng vì sợ kẻ thù biết
được sẽ gây nhiều khó khăn cho cả
đôi bên. Nghĩ đến đây chàng mừng thầm
là đã dấu chìa khóa âm dương một nơi an
toàn. Nếu chàng nghe lời sư cụ hủy hoại
đi thì bây giờ chàng sẽ hối tiếc vô cùng.
Thật ra Tuấn cũng tò mò muốn biết bí mật
của đôi chìa khóa âm dương. Nghĩ đến
lão quan huyện họ Phan, Tuấn có ít nhiều nghi vấn...
- Chiều
hôm đó trong lúc quan huyện thù tiếp quan Tuần,
thì Tuấn đi ra phố ăn cơm. Cơm xong Tuấn
tìm xe lên Tây Sơn. Khi tới nơi thì trời cũng
đã tối. Tuấn đi vội thăm mồ mẹ
và Bà Hồng. Tuấn quỳ khấn vái một lúc rồi
đi thẳng về nhà Trương bá hộ. Vì không
muốn cho ai biết cho nên Tuấn tìm một chỗ
nhìn vào trong phòng khách. Dưới ánh đèn dầu
lung linh, Tuấn thấy cả nhà đang ăn cơm.
Trương ông và Trương bà trông già đi nhiều.
Bên cạnh Trương bà là một người con gái
Tuấn đoán là Dung. Từ xa trông vào, Tuấn không
thể nhìn rõ nét mặt của mọi người. Chàng
văng vẳng nghe:
- - Kỳ
nghỉ này con về chơi được bao lâu? Trương
bà hỏi.
- - Dạ cũng như năm ngoái, con sẽ
nghỉ được một tuần.
- - Nầy
Dung à, Trương ông hỏi, vậy chứ mấy lâu
nay con có gặp thằng Tuấn không?
- - Ba à
Qui Nhơn lớn lắm, làm sao mà con có thể gặp
được anh ấy.
- - Tuấn
cảm động, không ngờ cho tới giờ nầy
mà Trương ông còn nghĩ tới chàng.
- - Cái
ông nầy thật là lẩm cẩm, Trương bà càu
nhàu, lúc nào cũng nghĩ tới thằng Tuấn. Ông
thương nó chứ nó có thương ông đâu! Nếu nó nghĩ tới ông bấy lâu nay đã chẳng
có đôi lần về thăm ông.
- Tuấn thầm
nói:
- - Dạ thưa ông
bà, con là
thằng Tuấn bằng xương bằng thịt về thăm ông bà đây nầy.
- Vì còn bao trọng trách bên
mình vả lại sự xuất hiện của Tuấn tại Tây Sơn nầy chỉ đưa chàng vào chỗ chết, do
đó Tuấn cúi mặt lặng lẽ, chống lại sự dằn vặt của nội
tâm.
- Nghe lời qua tiếng lại của
cha mẹ về Tuấn, Dung đượm một chút buồn. Thấy nàng có vẻ uể oải, Trương bà
nói:
- - Từ ngày lên Qui Nhơn học,
con ốm đi nhiều. Con phai ráng lo tẩm bổ để có sức mà học
chứ."
- - Má cứ lo cho con ốm. Con
mà ăn mạnh một tý thì lại mập như con heo nái bây giờ. Dì Ba lo cho con rất tận
tình, Nhưng con ăn chỉ vừa đủ thôi má à. Ốm như thế nầy con thấy khỏe hơn. Ba má
à con không đi Sài Gòn học như ba má dự tính đâu! Ba má đã già rồi lại chỉ có
một mình con. Con đâu nỡ xa ba má. Hơn thế nữa xa ba má buồn chết đi
được!
- - Con ráng đi học đi chứ,
Trương ông nói, bộ con sẽ ở với ba má tới già không lấy chồng
sao?
- - Ai mà thèm lấy
chồng.
- - Thôi đi cô
Hai! Trương bà
tiếp lời:
- - Má nầy kỳ quá
hà. Con đi
về phòng.
- Hai ông bà nhìn nhau lắc
đầu...
|
| |
|