Ai lên Vĩnh Thông bước qua cầu Sắt,
Nghe con trẻ hát lanh lảnh chiều chiều,
Bao phen quạ nói với diều,
Vĩnh Thông cầu Sắt có nhiều xác Tây.
Bể Đông có lúc vơi đầy,
Mối thù đế quốc có ngày nào quên.
Dẫu nghèo đi gặt lúa mua,
Đi đào củ chuối sống qua tháng ngày,
Còn hơn làm mọi cho Tây,
Để nó sai khiến gọi mày xưng tao
Đời người ngẫm được bao lâu,
Nghèo mà sạch sẽ hơn giàu tanh hôi.
Thằng Tây đừng có ti toe
Đừng cậy súng lớn đừng khoe súng dài
Chúng tao giáo mác sơ sài
Nhưng lòng tao lớn, nhưng tài tao cao
Tỉnh Thanh thác đổ, sóng trào
Mày dăm ba mống làm sao đánh tày
Tầng lò mìn mỏ của ta
Non sông đất nước ta là chủ nhân
Thế mà chúng đến cướp không
Lại còn áp bức đặt gông, đặtxiềng
Anh em hãy một lòng một dạ
Cùng tiến lên đuổi cổ nó đi.
Đó còn là tiếng kèn xung trận:
Công nhân ta quyết một lòng
Phá tan xiềng xích cùm gông ngai vàng.
Chớ tham đồng bạc con cò
Bỏ cha bỏ mẹ đi phò thằng tây
Chuyện đâu có chuyện lạ đời
Quan đi theo giặc bắt người lành ngay
Ngàn năm nhớ mãi nhục này
Theo Tây được thả, đánh Tây bị tù
Bốt Bần ngày tháng âm u
Chớ tham đồng bạc con cò
Bỏ cha bỏ mẹ đi phò thằng tây
Chuyện đâu có chuyện lạ đời
Quan đi theo giặc bắt người lành ngay
Ngàn năm nhớ mãi nhục này
Theo Tây được thả, đánh Tây bị tù
Bốt Bần ngày tháng âm u
Giữa năm Đinh Dậu mới rồi
Sư ông chùa Lãng là người đảm đang
Viết tờ quyên giáo các làng
Lãng Đông, Năng Nhượng chuyển sang Trực Tầm
Chiều hôm còn ở Đồng Xâm
Rạng mai Đắc Chúng, tối tầm Dục Dương
Cùng với nghĩa sĩ bốn phương
Phất cờ thần tướng mở đường thiên binh
Phá dinh công sứ Thái Bình
Sa cơ ông đã bỏ mình vì dân.
(Vè Phá dinh công sứ Thái Bình)
Tượng nghe:
Nước có nguồn, cây có gốc
Huống chi người có da, có tóc
Mà sao không biết chúa, biết cha?
Huống chi người có nóc có gia
Mà sao không biết trung biết hiếu
Hai vai nặng trĩu
Gánh chi bằng gánh cang thường
Một dạ trung lương
Gồng chi bằng gồng xã tắc
Bớ những người tai mắt
Thử xem loại thú cầm:
Trâu ngựa dòng điếc câm
Còn biết đền ơn cho nhà chủ
Muông gà loài gáy sủa
Còn biết đáp nghĩa lại người nuôi
Huống chi ta:
Chưn đạp đất, đầu đội trời
Ở chi thói sâu dân mọt nước!
Sao chẳng nghĩ sau nghĩ trước
Lại làm thằng nghịch thằng gian
Sao bằng trai trí chúa an bang
Sao bằng trai thừa gia khai quốc
Lẽ phải thời:
Trải gan trung, bồi nghĩa mật
Đền ơn thuở trong bụng mẹ mười tháng sanh ra
Lẽ phải thời:
Vợ thúc chồng, con giục cha
Đền thuở ở đất vua, nắm rau, mớ ốc
Thậm tiếc bấy:
Những tay tham lợi muốn yên mình
Đành để tiếng vong tiên bội tổ
Tai đâu chẳng nghe, mắt đâu chẳng rõ?
Tổ tiên đâu, mồ mả nước nào?
Lòng sao không xót, dạ sao không bào?
Bờ cõi loạn, nhơn dân đổ thán
Mình nước Hớn, mẹ cha nước Hớn
Hỏi chớ nào thảo nào ngay?
Thù Tây rồi lại ở với Tây
Hỏi chớ nào tôi nào chúa?
Bởi mình mảng tham lam tiền của
Để cho Tây bắt vợ giết chồng
Bởi mình tham, ham hố bạc đồng
Để cho Tây lột da khỏ óc
Thân sao không biết nhục?
Vinh vang chi cũng lấy tiếng Tây
Sung sướng khó trọn đời
Cảm thương kẻ nó hành nó hiếp
Xóc tóc cúp đầu
Cám thương người nó móc nó treo
Hành thân hoại thể
Nghĩ thương không xiết kể
Giận nói chẳng hay cùng
Giận những phường bất hiếu bất trung
Thương những kẻ oan con oan vợ
Thương gã chệch đêm nằm không ngủ
Nóng gan son ra lập nghĩa đường
Giận thằng Tây chẳng giữ phong cương
Sống u mê theo tuồng tả đạo
Trách những kẻ lòng muông dạ cáo
Sống hư hèn sửa trấp nưng khăn
Thương những tay bảng quế trung thần
Thủa gan dạ thẻ ngời bia tạc
Làm người sao khỏi thác
Thác trung thần, thác cũng thơm danh
Làm người ai chẳng tham sanh
Lòng địch khái xin cho rỡ tiết
Đêm năm canh thương người chánh liệt
Ngày sáu khắc nhớ kẻ trung trinh
Chốn biên thuỳ lãnh ấn tổng binh
Cờ đề chữ “Bình Tây đại tướng”
Trước trí quân ư Nghiêu Thuấn thượng
Sau vi xã tắc lương thần
Phải cạn lời rao khắp muôn dân
Sửa tấc dạ dìu về một mối
Ai chẳng ra thú trước
Ắt phải luỵ về sau
Bớ trẻ già bé lớn đâu đâu
Kíp bội ám đầu minh tua gắng
Chiếu phụng dầu ta lãnh đặng
Nương lòng trời cứu lũ sanh linh
Phải cạn lời tỏ hết chơn tình
Cho con trẻ dân đen đều biết
Kẻ nào còn vi ngược trợ Kiệt
Mũi thiên oai nhất quyết không dung.
(Vè đánh Tây )
Năm Quý Dậu, tàu vào vừa tới
Người Bắc Kỳ rằng mới biết Tây
Rủ nhau xem sóc thâu ngày
Đem quân về đóng ở rày Trường Thi
Tờ niêm yết Ngạc-nhe An-nghiệp
“Đường giao thông tiến tiếp lại qua
Xa nghe đồn tỉnh Bắc Hà
Giặc Tàu quấy rối vậy mà đến đây”
Các quan tỉnh nghi nghi hoặc hoặc
Những bàn riêng rằng “giặc bên chân”
Tháng mười, mồng một, giờ dần
Ầm ầm hạ tỉnh là lần ngày xưa
Khi ấy có Khâm thừa quan Nguyễn
Cha con đều ngộ biến thất cơ
Phò Lâm mắc cạn bây giờ
Cha già tuyệt thực còn chờ quyên sinh
Các quan sau quyết tình lên thứ
Ông thamTôn tức sự khởi hành
Đem quân về đóng Diễn, Canh
Nhơn nhơn thu phục tỉnh thành về ta.
Chốn Thăng Long thật là thượng đẳng
Xui tướng Tây quyết thắng tiến truy
Thất cơ phải chú Hắc Kỳ
Ngoài ô, một trận, Ngạc-nhe qua đời
Khách các hiệu rụng rời nhao nhác
Dọn vần tay đồ đạt xuống tàu
Giữa dòng chiếc trước, chiếc sau
Ra ngoài Ninh Hải để hầu về Nam
Quan thừa thắng, điên bàn tướng sĩ
Bất thình lình có chỉ Kinh ra
Chuộc thành mà lại giảng hòa
Định, An, Ninh Hải tới Hà Nội đây
Quan Hoàng thống nghe rày bứt rứt
Lưu Hắc Kỳ kéo phứt lên Ngâu.
Phá ngang việc ấy bởi đâu
Nhà công xế bóng, cửa chầu lỏng then.
Sai quan Nguyễn VănTường chánh sứ
Hoắc-đạo-sinh thủ thứ là đây
Quan Nam với lại quan Tây
Sửa sang khi ấy dân rày được yên
Việc thanh khoản chi truyền về bộ
Quan Nguyễn Tường thăng Hộ thượng thư
Qua năm Giáp Tuất, tháng tư
Thấy quan Nguyễn Chánh phụng từ kinh ra
Điều niêm yết mới hòa ước đó
Gẫm kỹ xem có khó nghe thay!
Non sông cao rộng thế này
Nào người trí dũng, nào tay anh hùng?
Quan Tăng Doãn rằng: - Vâng thánh chỉ
Tỉnh Hải Dương lĩnh ý phải ra”
Quan tư với lại quan ba
Tìm nơi Hà Nội lập tòa Tràng Tây
Thấy phố xá người đầy, đất hẹp
Nhà thứ dân rộn rịp chỉn khôn
Thênh thênh sẵn chốn Thủy Đồn
Làm tòa ở cạnh ô môn Trường Tiền
Khai Thương chánh, thu biên thuế thủy
Cùng quan ta quản lý thâu chung
Rồi sau mới lập ngoài sông
Nhà cao ngất ngưởng bên sông Nhị Hà…
Từ ngày có mặt thằng Tây
Phu phen tạp dịch hàng ngày khốn thân!
Tai vạ trửa dân
Hắn mần đã nghiệt:
Khắp nơi ráo riết
Giở sổ đếm người
Kể chi lão phụ con trai
Người đi phu cũng tội
Kẻ ở nhà cũng tội
Vua quan bối rối
Họ đập đánh lút đầu:
– Phu phải đi cho mau
Việc quan cần cho kịp!
Một ngày phải kíp
Để kiểm phu chợ Lường
Kẻ có vợ, vợ thương
Theo lên đưa đón
Tay xách cái nón
Vai mang cái bù,
Phải một lớp phu
Tai trời ách nước
Vợ về chồng ngược
Đã cực lắm thay
Kẻ bắt giữa ruộng cày
Người không cho sắm sửa
Chồng trốn, bắt vợ
Con yếu, cha đi
Tiếng khóc như ri
Nông nỗi nước ni
Ruộng cày bỏ trắng!
Mẹ già lòng nặng,
Nằm đêm nghĩ lại thương con
Phải trèo núi lặn non
Giữa chân sim bóng đá
Thấy những đá với gỗ
Chộ thấy săng lẻ với kiền kiền
Con chim hót, vượn rên
Con hùm kêu, mang toác
Phu đi lớp trước
Đến Khe Vẽ, Con Cuông
Chộ phụ lão mà thương
Đi đường xa chịu nắng
Đi đường dài say nắng
Phu đi lẳng lặng
Một tháng trời tròn
Có vàng ăn cũng nỏ biết ngon!
Vè đi phu Cửa Rào
Thơ Thầy Thông Chánh
Nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra
Thơ thầy Thông Chánh
Nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra
Chép làm một bổn để mà coi chơi
Trà Vinh nhiều kẻ kỳ tời
Có thầy Thông Chánh thiệt người khôn ngoan
Đêm nằm khô héo lá gan
Nghĩ giận Biện lý không an tấm lòng
Chừng nào tỏ nỗi đục trong
Giết tên Biện lý trong lòng mới thanh
Lang sa làm việc Châu thành
Mười bốn tháng bảy lễ rày Chánh Chung
Chỉ sai đua ngựa rần rần
Trát đòi làng tổng tư bề đến đây
Bốn giờ đua ngựa cát bay
Phủ Hơn, Biện lý đương rày ngồi coi
Có thầy Thông Chánh hẳn hòi
Xách súng nai nịt đi coi châu thành
Phủ Hơn lời mới hỏi rằng
– Do này thầy Chánh đi rình bắn ai
Thầy thông thưa lại cùng ngài
– Tôi bắn Biện lý chớ ai bao giờ
Thầy thông thiệt lẹ như cờ
Bắn quan Biện lý suối vàng mạng vong
Các quan, đua ngựa rần rần
Tưởng đâu trận giặc không hay sự gì
Thầy thông làm việc ngoan ngùy
Bắn rồi trở súng bắn mình, để chi
“Dù ta có sống một khi
Tây cũng hình phạt sống thì nhơ danh”
Phủ Hơn thấy vậy thất thanh
Bắt tay thầy Chánh giựt rày súng đi
Thuốc đạn nạp sẵn một khi
Tức mình súng nổ đạn ria giáp vòng
Trúng nhằm ông Chánh Vĩnh Long
Trúng ngay bắp vế điệu về nhà thương
Các quan thiên hạ chạy tuôn
Đua nhau mà chạy ra đường ngẩn ngơ
Trúng nhằm ông Đốc Cần Thơ
Bây giờ lại trúng Chánh tòa Bạc Liêu
Người Tây bị bệnh cũng nhiều
Cảm thương thầy Chánh chín chiều sầu bi
Khen cho cây súng dị kỳ
An Nam không trúng trúng nhằm người Tây
Các hàng phủ huyện đông vầy
“- Do nào nó oán người Tây chuyện gì?
Trong trại kèn thổi vang vầy
Nhà việc hồi trống vang vầy thôn hương
Vui thay như hội Tầm Dương
Cháo bồi, chè đậu đổ đường sạch trơn
Nước chanh, nước đá chi sờn
Nem bì gỏi rượu sạch trơn chẳng còn
Đi coi lạc vợ mất con
Cũng vì thông Chánh phá rày tiệc chơi
Ngoài thời hàng xén kêu trời
Mất vàng mất chuỗi đếm đàng no nê
Bài cào, bông vụ, số đề
Thùng xà giựt hết chẳng còn bạc xu
Đề lao cai đội canh tù
Việc này lộn xộn nó lưu chẳng còn
Mấy thầy trở lại lầu son
Cảm thương thầy Chánh hao mòn lá gan
Vợ con thầy Chánh đoạn trường
Bây giờ phụ tử hai đường xa nhau
Thầy Thông phát mắng một khi
– Phụ nhơn nan hóa biết gì mà lo
Tội tao dù có của kho
Chuộc làm sao đặng khá lo làm gì
Phủ Bình dời gót chân lui
Tây đem thầy Chánh một hồi khảo tra
– Sao mày dám bắn Lang sa
Mày bắn Biện lý thiệt mày to gan
Thầy thông nổi giận chửi ngang
– Chết tao tao chịu hỏi mà sao ra
Chúa sanh tao đứng người ta
Quân bây ăn cướp con nhà nước Nam
Tao là quân tử chẳng tham
Thông Chánh cắn lưỡi còn chi hỏi hoài
Quan thầy vốn thiệt cao tài
Đổ thuốc vào rượu giao cho Ký Hòa
Bảo thầy Thông Chánh kia là
Uống vào một chén vậy mà giải khuây
Thầy thông không biết không hay
Vị lòng thầy Ký uống vào rụng răng
Thuốc chi hay đã quá chừng
Thầy thông mắc kế rụng răng cả rồi
Ký Hòa xem thấy hỡi ôi
– Nào tôi có rõ khúc nôi sự tình
Tôi đâu nỡ hại trưởng huynh
Xin thầy xét lại sự tình cho tôi
Thầy thông nghe nói ngùi ngùi
– Việc này cũng bởi Tây thời hại ta
Rạng ngày đến bữa thứ ba
Điệu thầy Thông Chánh đi ra Sài Gòn
Cảm thương cùng vợ cùng con
Xin thầy sống thác chẳng còn kể chi
Vợ con lưỡng mục lâm ly
Đi đưa thầy Chánh xót xa đoạn trường
Thông Hồ, Ký Hớn, Ký Hòa
Mấy thầy ở lại lệ sa dầm dề
Ngày nay phân biệt phu thê
Bỗng đâu tàu tới súp lê thổi liền
– “Ngày nay áo lại rẽ bâu
Vợ con bây chớ đau sầu hư thân
Nhan Hồi sự cũng ba mươi
Phải chi Bành Tổ sống đời trăm năm
Thầy thông gan mật nát dầm
Mấy thầy than khóc ướt đầm gối loan
Tàu ra Giồng Tượng, Bãi Xang
Thầy thông nói gạt vậy mà bằng nay
– Chúng bây nghe thửa lời này
Mở còng một chút thầy ra bô tàu
Thầy thông gan dạ như bào
Giả đò đi tiểu té nhào xuống sông
Mình này mắc phải tay còng
Móc sắc nó móc kéo lên bô tàu
Thầy thông ruột thắt gan bào
Liều mình chẳng đặng làm sao bây giờ
Mã tà lớn nhỏ sợ thay
Phải thầy chìm mất bị đày Côn Nôn
Mã tà sợ đã hết hồn
Một lần thầy tiểu biết khôn tới già
Thứ này đến thứ cô Ba
Mới mười bảy tuổi lấy mà chồng Tây
Nghe cha mắc phải nạn này
Cúi đầu xin phép vậy thì quan ba
– Cho tôi đi tới giữa Tòa
Đặng mà tôi thấy mặt cha tôi rày
Quan ba lụy nhỏ chau mày
– Phụ thân tội trọng xin rày đặng đâu
Cô Ba từ giã ngọc lầu
Tay cầm súng sáu miệng hầu kêu xe
Mình mẩy võ nghệ ai dè
Đứng kề lại đó lắng nghe sự tình
Mau chân bước tới châu thành
Tai nghe quan soái xử mà làm sao
Nếu mà xử hiếp cha rày
Ta bắn Ngươn soái phát nay mới đành
Cha ta dù thác bỏ mình
Cũng trong đạo Chúa cầu xin thiên đường
Sống chi ở tại nhơn gian
Phân ly phụ tử hai đàng cách xa
Đem thầy Thông Chánh đến Tòa
Đặng mà Ngươn soái xử tra công đồng
– Làm sao mày quá anh hùng
Dám bắn Biện lý thiệt mày to gan
Thầy thông nổi giận chửi ngang
– Mày còn hỏi nữa còng va lên đầu
Ngươn soái nghe nói lắc đầu
– Thiệt dòng Thông Chánh hỗn hào lắm thay
Nó không kiêng nể đến ai
Giữa Tòa Ngươn soái nó còn dọc ngang
Cô Ba cầm súng nhảy vào
– Hỏi thằng Ngươn soái nhiếc rày dòng ai
Cha ta sanh tử chẳng nài
Chớ phải cha kiếp một loài như bây
Cao nguyên đất rộng trời đầy
Chết thì ta chịu mình này cũng ưng
Ngươn soái bèn mới tỏ phân
– Mã tà bắt nó để mà làm sao
Mã tà phú lích áp vào
Cô Ba bèn đá té nhào sảy tay
-Ta không thù oán chi bây
Để ta đánh với người Tây mới tài
Phủ Hơn nghe lọt vào tai
– Xin cháu bớt giận chớ đừng hung hăng
Khá khen lời bác nói rằng
Nhứt nhơn địch vạn thế thường đặng đâu
Phủ Hơn rình lại nắm đầu
Phủ Bình giựt súng nắm đầu cô Ba
Cả kêu phú lích mã tà
– Đem còng nó lại bỏ ngoài đề lao
Cô Ba lời mới nói vào
– Bác ơi hại cháu làm sao cho đành
Thiệt tôi sợ lỗi trời sanh
Cảm thương thân phụ về thành đế đô
Thầy thông gan héo ruột khô
Bây giờ phụ tử lộ đồ xa nhau
Đem thầy Thông Chánh xuống tàu
Chở ra ngoài Huế nạp rày vua ta
Thánh hoàng ngồi ngự chương tòa
Hỏi thầy Thông Chánh sao mà bắn Tây
Thầy thông đặt gối tâu quỳ
– Muôn ơn thiên tử dân di tỏ tường
Trước sau thần hạ tỏ phân
Cái thằng Biện lý ve rày vợ tôi
Thì thôi tôi cũng bỏ trôi
Vợ chồng tôi mới đổi về Chợ Trong
Sài Gòn làm việc mới xong
Biện lý trở lại nó hòng ve con
Làm cho tôi bỏ Sài Gòn
Quả đồ lục súc vợ con ve đùa
Thôi thôi tôi cũng nhịn thua
Vợ chồng tôi mới trở về Nam Vang
Làm cho tán bại gia cang
Biện lý xin phép Nam Vang đổi về
Làm cho rời rã phu thê
Vợ chồng tôi mới đổi về Trà Vinh
Đặng gần bằng hữu đệ huynh
Biện lý xin phép Trà Vinh đổi về
Từ tôi tạo lập gia tề
Mới đặt thợ mộc làm nhà cho tôi
Làm rồi thì đã khuôn viên
Còn một cái cửa thợ không chịu làm
Thiệt tôi giận nó căm gan
Mắng nhiếc thợ mộc đâm đơn kiện vào
Biện lý xử thất một khi
Bênh vực thợ mộc bỏ tôi ngày rày
Tôi ra làm việc cho Tây
Làm việc nhà nước, ai mà cũng thương
Ngày nay phân nỗi tỏ tường
Không nghe, chống án lên rày Tòa trên
Năm nay thời vận không hên
Ngươn soái y án một lời như ghi
Nên tôi những luống sầu bi
Xin vua đừng xử để mà mặc tôi
Đức vua nghe nói thêm thương
Thiệt thầy Thông Chánh là người trung cang
– Bây giờ để trẫm liệu toan
Xin dùm thầy Chánh vậy mà kẻo oan
– Cúi đầu tâu vọng thánh hoàng
Xin vua an nghỉ nghị ngơi chương tòa
Việc này là việc Lang sa
Giết tha mặc nó vua xin làm gì
Làm vua chánh trị trào nghi
Đi chiều lòng nó vậy mà thất danh
Thương thầy Thông Chánh hùng anh
Ngày sau hậu thế lưu danh muôn đời
Đem thầy Thông Chánh về Tây
Cho mẹ Biện lý xử mà làm sao
Mụ đầm nổi giận lôi đình
– Thông Chánh dám giết con tao bỏ mình
Thông Chánh nổi giận lôi đình
– Mẹ nào con nấy một dòng chẳng sai
Con mụ vốn thiệt quá tay
Ta đâu theo đó nói sai bao giờ
Tử sanh như máy thiên cơ
Không biết mụ giận vậy là làm sao
Đem thầy Thông Chánh xuống tàu
Trở về công sở mau mau xử hình
Tàu về mới tới Trà Vinh
Vợ con bằng hữu đệ huynh đều mừng
Thầy thông nước mắt rưng rưng
“Trở về chịu chết mà mừng làm chi”
Quan trên mới phán một khi
Mười bảy tháng sáu xử hình thầy thông
Truyền ra lục tỉnh giáp vòng
Đi coi Thông Chánh đứng nên anh hùng
Càng Long, Ất Ếch, Trà Vinh
Ba Xuyên, Rạch Giá, cũng đi đùng đùng
Bắc Trang, Trà Cú, Gò Công
Sài Gòn, Tân Lạc, cả ngàn muôn dân
Thiên hạ đông đảo quá đông
Bến Tre cũng đến, Mỏ Cày cũng sang
Người ta ăn uống muôn ngàn
Bây giờ thầy Chánh hội này trả ơn
Phủ Hơn lời mới tỏ bày
– Nghe đâu lính tới tịch biên gia tài
Bà Phủ lời mới chỉ bày
– Vàng vòng tom góp lại thì một ô
Chạy ra rồi lại chạy vô
Tới chùa mà gởi cho thày lục Nghiêm
Gởi rồi trở lại gia đường
Phút đâu lính tới nó biên gia tài…
Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Chính Trị, Quê Hương, Đất Nước
Giáp Thân đã mãn
Ất Dậu tấn lai
Chánh ngoạt sơ khai
Bình yên phước thọ
Nhựt nguyệt soi tỏ
Nam chiếu phúc bồn
Tục danh Hóc Môn
Xứ Bình Long huyện
Hà do khởi chuyện?
Hà sự hàm mai?
Tích ác bởi ai?
Giết quan rửa hận
Nhứt nhơn bất tận
Bá tánh thọ ương
Chẳng nhớ câu “bất cảm hủy thương”
Lại quên chữ “thời thìn vị đáo”
Người sang trọng vô nhơn vô đạo
Muốn đặng mình ích kỷ hại nhơn
Dân Hóc Môn ăn oán uống hờn
Bình Long huyện tha nha thiết xỉ
Tân trào dầu chẳng nghĩ
Có giết sự cũng đành
Giết một người đặng cứu dân lành
Sách có chữ “hại nhơn nhơn hại”
Gẫm đốc phủ giết đà thậm phải
Khai lục tuần địch thể với vua
Theo tân trào phá miễu đốt chùa
Thuở cựu chúa làm Cai Chánh Tổng
Ở một ngày một lộng
Lầu ba từng lại có vọng cung
Nhựt nhựt thường chuông đổ trống rung
Xe song mã sướng đà quá sướng
Dân bần tiện đem lòng chẳng tưởng
Ép lấy dầu nạp thiểu thâu đa
Tục danh chàng là Đốc Phủ Ca
Cập thân tử Phủ Luông mĩ hiệu
Bởi bội quốc hồn phi yểu yểu
Vì phi quân phách quá xa ngàn
Phi ân đã đáng tội chàng
Giết một gã mà răn muôn chúng
Vật phi nghĩa người ngay bất dụng
Nhơn phi ân kẻ chánh mạc giao
Người ở đời như giọt nước sóng xao
Gẫm sự thế như ngọn đèn trước gió
Xưa đạo Phật, lòng đà đành bỏ
Mộ Di Du tấc dạ yêu cầu
Bị tử hình đức Chúa đi đâu?
Cầm thánh giá sao không cứu khổ?
Chẳng qua thiên số
Rước mẫu tử ư thiên đàng
Theo Di Du mình thác chẳng oan
Phải đạo Phật đao tầm vạn đoạn
Nhựt trình đặt đọc chơi cho hãn
Sự bất khả lậu ngôn
Tuy là mình ăn ở tại đồn
Còn sợ nỗi di thần lăng nịnh
Tham biện quan bất định
Tống trát ra cho xã với làng
Gậy tầm vông mõ đánh vai mang
Qua giờ Dậu tự nơi yếu lộ
Chức cựu tân bất khả thệ tề
Năm canh chầy giấc ngủ đã mê
Trở lộn về nỗi sưu với thuế
Qua năm Dậu gẫm âu quá tệ
Dân bần hàn như khúc gỗ tròn
Tưởng có người quá hải vượt non
Ra giúp nước cứu dân thuỷ hoả
Người sang trọng vô ơn, án tả:
Đã quên câu thuỷ thổ quốc vương
Mười tám thôn ai dám trở đương
Hàn nhơn đáo thâu sanh thát tử
Người hữu học, quên câu “thiện ác đáo đầu”
Nhơn tham tài thác tại bao lâu
Điểu tham thực tắc vong mấy khắc
Dân Hóc Môn đau tầm ruột thắt
Huyện Bình Long tợ muối xát lòng
Chữ phu cừu chuyện ấy tưởng xong
Câu tử đạo tu đường ái nhựt
Chớ ỷ cao qườn lớn chức
Ra chăn dân trở lại hại dân
Giết một gã phi ân
Mà cứu dân đồ thán
Phật còn mang tám nạn
Huống chi người sao khỏi tai ba
Huyện Bình Long bất luận trẻ già
Nạp bắt hết giải qua tòa bố
Trời sanh dân vắn cổ
Dẫu có kêu, kêu chẳng thấu trời
Việc tân trào khảo đã hết hơi
Câu tích ác có câu phùng ác
Cư vương thổ sống thời gởi nạc
Tá vương thần thác lại gởi xương
Nhựt trình đặt đặng cho biết chữ phi thường
Ít người biết suy kim nghiệm cổ
(Vè giết đốc phủ Ca)
Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Chính Trị, Quê Hương, Đất Nước,Thương Nhớ
Vè phu làm đường lên Tam Đảo
Tôi có nhời thăm u cùng bá
Ở trên này khổ quá u ơi
Khi nào thong thả mát giời
Mời u quá bộ lên chơi vài ngày
Làm kíp chả được tiền ngay
Phải ăn gạo ngữ của thầy cai Sơn
Một đồng mười sáu bơ đơn
Đong đi đong lại chỉ còn mười lăm
Thầy cai cứ đứng chăm chăm
Hễ ai hút thuốc lại nhằm cắt công
Trời mưa có thấu hay không
Quanh năm chẳng có một đồng thừa ra
Lấy gì đồng bánh, đồng quà
Lấy gì mà gửi về nhà nuôi con
Mười năm làm ở đỉnh non
Ở nhà cha mẹ vợ con mất nhờ
Thân tôi khổ đến bao giờ?
Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Khuyến Học, Quê Hương, Đất Nước
Cơn mây gió trời Nam bảng lảng
Bước anh hùng nhiều chặng gian truân
Ngẫm xem con tạo xoay vần
Bày ra một cuộc duy tân cũng kì
Suốt thân sĩ ba kì Nam Bắc
Bỗng giật mình sực thức cơn mê
Học, thương, xoay đủ mọi nghề
Cái hồn ái quốc gọi về cũng mau
Hồn đã tỉnh, bảo nhau cùng dậy
Chưa học bò vội chạy đua theo
Khi lên như gió thổi diều
Trong hò xin thuế, ngoài reo hãm thành
Cách hoạt động người mình còn dại
Sức oai quyền ép lại càng mau
Tội nguyên đổ đám nho lưu
Bắc kì thân sĩ đứng đầu năm tên
Người tỉnh Bắc, Nguyễn Quyền là một
Cơn nhiệt thành lửa đốt buồng gan
Đùng đùng gió cuốn mây tan
Lạng thành giáo chức từ quan cáo về
Mở tân giới, xoay nghề tân học
Đón tân trào, dựng cuộc tân dân
Tân thư, tân báo, tân văn
Chân đi miệng nói xa gần thiếu đâu
Trường nghĩa thục đứng đầu dạy dỗ
Khắp ba mươi sáu phố Hà thành
Gái trai nô nức học hành
Giáo sư mấy lớp, học sanh mấy ngàn
Kỳ diễn thuyết người xem như hội
Buổi bình văn khách tới như mưa
Nôm quốc ngữ, chữ Hán thư
Bài ca yêu nước, câu thơ hiệp đoàn
Trong chín tháng, sóng tràn gió dập
Tiếng Đông kinh lừng khắp Đông Dương
Khắp đâu đâu cũng học trường
Cùng nhau đua bước lên đường văn minh
Họ càng thấy người mình càng ghét
Càng bảo nhau đè nẹt càng già
Thương ôi ấu trĩ sơn hà
Nước chưa lặng sóng, giò đà rung cây
Trong sóng gió nhưng tay vẫn vững
Bế học rồi lại đứng khai thương
Rủ nhau một hội Hồng Bàng
Hồng Tân Hưng mở ngôi hàng buôn chung
Đồ Nam hóa bá công kỹ xảo
Khách Bắc Hà thập hiệu vãng lai
Sửa sang trong cái khuôn trời
Mở mang trí não cho người nước ta
Trời đương buổi nắng mưa tầm tã
Dấn thân mình đứng giữa cơn giông
Cả gan cho biết anh hùng
Hỏi xem mấy mặt trong vòng trần ai
(Vè Đông Kinh)
Pháp với Nam không máu mủ ruột rà
Không tình huynh đệ cũng không bà con chi
Anh tòng quân qua Pháp làm gì
Bỏ quê hương xứ sở bỏ thê nhi răng đành
Hay anh ham bổng lộc công danh.
Công danh đâu chẳng thấy thấy tan tành thịt xương
Năm Đinh Tỵ mười ba tháng bảy
Nước Nam mình phút dậy can qua
Thái Nguyên nay có một tòa
Khố xanh, khố đỏ được ba trăm người
Cũng chí toan chọc trời khuấy nước
Ông Đội ra đi trước cầm binh
Rủ nhau lập tiểu triều đình
Những là cai đội khố xanh bằng lòng
Duy phó quản bất tòng quân lệnh
Hóa cho nên hủy mệnh xót xa
Sai người mở cửa nhà pha
Đem tù ra điểm được là bao nhiêu?
Truyền tù nhân cứ theo quân lệnh
Chớ thị thường uổng mệnh như chơi
Rồi ra làm lễ tế trời
Cờ đề “Phục Quốc” tài bồi Nam bang
Phong tám tướng quyền đương quân chính
Tù ba trăm với lính ba trăm
Đều cùng phát súng cho cầm
Vai thì vác súng, lưng khuân đủ đồ
Đường tỉnh Thái kì khu chật vật
Các đường dây thép chặt ngay
Bấy giờ chủ tướng ra tay
Chọn đường mai phục, định ngày giao công
Kí dây thép lòng không theo phụ
Nối dây vào đường cũ đánh đi
Đánh về Hà Nội một khi
Trình rằng có giặc ở thì Thái Nguyên
Tòa thống sứ, toàn quyền hội nghị
Lại có lời phủ dụ ra cho
Bây giờ nhà nước sẽ lo
Sang nhà ông sáu nhỏ to sự tình
Tỉnh Thái Nguyên loạn binh quấy rối
Một đám tù, cai đội khố xanh
Vậy nên ông Sáu biết tình
Giấy tư sang tỉnh Bắc Ninh tức thì
Truyền ngũ tỉnh nơi nào cũng vậy
Lính Đáp Cầu phải dậy tiên phong
Lính Tây, khố đỏ hội đồng
Mang quân lên đóng đồn ông Chủ điền
Ngày mười sáu tiến lên giáp trận
Lính Tây đà tử trận trăm ba
Bấy giờ khố đỏ tiếp qua
Súng trường, trái phá, bắn hòa liên thanh
Xông lên thành khố xanh bỏ chạy
Kéo quân vào đóng tại đình trung
Ngoài thời trái phá đùng đùng
Khi vào đến tỉnh sạch không còn gì
Quân ông Đội liền đi lên núi
Đào hầm sâu làm chỗ lánh thân
Nửa đêm quân kéo đi dần
Qua vùng Tam Đảo về gần Vĩnh An
Mang quân thẳng hướng chợ Vàng
Đến làng Hoàng Xá rẽ ngang quân vào
Xã đoàn không biết nghĩ sao
Sai tuần ra hỏi quân nào đóng đây?
Tân quân mới nói khi nay
Các quan đi khôi phục ngày rày nước Nam
Truyền cho dân cứ ăn làm
Các quan đi mở nước không can cớ gì
Xã đoàn lòng vẫn hồ nghi
Tay cầm cái quắm đứng thì giờ lâu
Ông Đội truyền ra chặt đầu
Nếu không biết phép pheng đầu một khi!
Ông Đội sai quân tức thì
Mổ bò giết lợn kịp kì cơm ăn
Truyền đòi các cụ trong dân
Cho báo có giặc tân quân đóng làng
Việt Trì Tây mới kéo sang
Súng ống xe ngựa chật đường kéo đi
Đến ga Hướng Lại gặp thì
Quân Tây đến đó định kỳ nghỉ ngơi
Xe cộ tiếp vận tới nơi
Quân Tây đi trẩy ngất trời ghê thay!
Bài binh lập trận bủa vây
Thổi kèn, súng bắn đạn bay vào làng
Đi đùng như thể ngô rang
Bắn như cuội rải cản đường quân đi
Trời cao còn có thánh tri
Gió mưa kéo đến Tây thì thôi ngay
Đến hai mươi, tin này đã báo
Ông Đội kéo về đóng đạo Giang Tiên
Đêm nghe súng nổ vang rền
Lính thua, lính phải băng miền Tuyên Quang
Xuyên qua đèo Khế, đèo Giàng
Lính thua, lính lại kéo sang Hoàng Đàm
Bên Tây có ông ba xồm
Cho mày đi trước, mày nom beng đầu
Ông ba bắn chẳng trúng đầu
Ông Đội bắn một phát vỡ đầu quan ba
Ngày nổi dậy can qua xối động
Muốn hoàn công trời chẳng cho làm
Sau quân ông Đội phải tan
Quân thua, quân phải kéo sang bên Tàu
Sau chờ nấn ná ít lâu
Nuôi quân dưỡng tướng mưu cầu chuyện sau…
((Vè Đội Cấn)
Lòng anh yêu nước yêu đời,
Lòng tôi trìu mến những người như anh,
Cần chi tiền bạc lợi danh,
Anh làm một việc sử xanh ghi hoài,
Nhờ anh mới có ruộng cày,
Người người no ấm nhớ hoài không quên,
Quý anh chí vững dạ bền,
Đặt tình yêu nước lên trên tình nhà,
Ngày về anh múa tôi ca,
Reo vang khúc nhạc quê ta anh hùng.
Má thăm hũ gạo nuôi quân,
Được hơn nửa hũ mẹ mừng quá ta,
Má khuyên con gái má hoài
Hai lần bỏ gạo hàng ngày đừng quên,
Sáng chiều xúc gạo nấu cơm,
Nhớ bỏ vô hũ độ chừng nửa lon,
Còn người, còn nước, còn non,
Còn anh du kích xóm làng mới yên.
Mặt trời hừng mọc mình ơi,
Dậy đi bỏ phiếu cho em đi cùng,
Lá thăm là cây súng đồng,
Đánh tan đế quốc Mỹ trong lòng em mới yên.
Đánh tan đế quốc trong lòng mới yên.
Tổ cha thằng bố cu gồ
Làm cho tao phải dọn đồ xuống ao
Giường thờ thì ngâm xuống ao
Lại bắt ông vải chui vào bụi năn
Vợ chồng nói chuyện thì thầm
Đêm ngày cắp bị ra nằm cồn Me
Nằm thì lắng tai mà nghe
Nó đang đốt ở ngoài nghè Phú Vinh
Súng thì nó bắn ình ình
Mẹ con giật mình lại phải chạy xa
Sớm mai nó đốt Mỹ Đà
Cửa nhà tan nát, vại cà sạch không
Bấy giờ vợ mới biểu chồng
“Thôi thôi ta phải dốc lòng xin đi”
Chồng thì nó bắt cu li
Vợ thì mặt bủng da chì mà lo
Chẳng qua đến lúc mạt đồ
Nước Nam có đám sao cờ mọc ra
Triều đình bảy vía còn ba
Quân Tây vừa dọa đái ra đầy quần
Cho nên mới khổ đến dân
Tổ tiên cũng bị muôn phần lao đao.
(Vè chửi Pháp và vua quan)