Hỡi cô mà thắt bao xanh
Có về Kim Lũ với anh thì về
Kim Lũ có hai cây đề
Cây cao bóng mát gần kề đôi ta
Tình sâu không quản đường xa
Nhà anh cao rộng cũng là nhà em
Nhà anh có con sông êm
Cho em tắm mát những đêm mùa hè.
Đồn rằng Văn Điển vui thay
Ngoài phố chợ họp năm ngày một phiên
Tàu qua phố dưới, phố trên
Đình thì ở giữa hai bên rặng bàng.
Làng Mơ cất rượu khê nồng
Làng Vọng dệt gối, chăn tằm làng Mui
Kẻ Giả thì bán bùi nhùi
Làng Lê bán phấn cho người tốt da
Kẻ Vọng khéo ngọc, khéo ngà
Đưa đem đi bán cho nhà kẻ sang
Kẻ Lủ thì bán bỏng rang
Trên Ô hàng Đậu lắm hàng nhiều thay
Ngâu, Tựu thì bán dao phay
Dù đem chặt nứa gẫy cây lại liền
Trong kho lắm bạc nhiều tiền
Để cho giấy lại chạy liền với dây.
Tôi đây là người đi chơi
Chơi chốn lịch sự, chơi nơi hữu tình
Mới đi chơi ở Bắc Ninh
Chạy tàu Hà Nội sự tình xem sao
Đồn vui tôi bước chân vào
Chơi hội kỳ thú chơi đôi ba ngày.
Gần xa nô nức tưng bừng
Vào Chùa Quan Thượng xem bằng động tiên
Lầu chuông gác trống đôi bên
Trông ra Chợ Mới Trường Tiền, kinh đô
Khen ai khéo vẽ họa đồ
Trước sông Nhị Thủy, ngoài hồ Hoàn Gươm
Phong quan cảnh trí trăm đường
Trong xây chín giếng, ngoài tường lục lăng
Rõ mười cử động tưng bừng
Đền vàng nhà ngọc chật đầy như nêm
Đức Từ phơi tỏ mùa sen
Thập phương chư Phật ngồi trên đủ mười
Xem qua Tam Bảo xong rồi
Hành lang nhà hậu các nơi rõ ràng
Kẻ thanh lịch, khách quyền sang
Vào chùa lễ bái mọi đàng vui xem
Ai mô vui cảnh ưa thiền
Lòng trần rũ sạch nhơn nhơn ra về
bước lên hòn đá xanh rì
Nhìn xem phong cảnh, chẳng muốn về nữa đâu
Gần xa nô nức tưng bừng,
Vào chùa Quan Thượng xem bằng động tiên.
Lầu chuông, gác trống đôi bên
Trông ra chợ Mới, Tràng tiền kinh đô.
Khen ai khéo vẽ họa đồ,
Trước sông Nhị Thủy, ngoài hồ Hoàn Gươm.
Tháng tám nắng rám trái bòng
Bồ không hạt thóc, trông mong từng ngày…
Vui sao tháng tám ngày nay:
Thóc chiêm vừa vợi đã đầy Nam Ninh.
Bén mầu luống cải lên xanh
Ngô thơm mùi nắng để dành giêng hai.
Mới ra mẻ gạch lò ngoài
Nhà ai cuối xóm đã tươi mái hồng.
Đầm trong sen hái vừa xong.
Đầy sân hợp tác sen hong nắng vàng.
Thằng Tây ngồi nghĩ cũng tài
Sinh ra đèn máy thắp hoài năm canh
Thằng Tây ngồi nghĩ cũng sành
Sinh ra tàu điện chạy quanh phố phường
“La ga” thì ở Thụy Chương
Dây đồng cột sắt tìm đường kéo lên
Bồi bếp cho chí bồi bàn
Chạy tiền ký cược đi làm sơ-vơ
Xưa nay có thế bao giờ
Có cái tàu điện đứng chờ ngã ba.
Đàn ông cho chí đàn bà
Hễ tàu vừa đến lấy đà nhảy lên
Ba xu ghế gỗ rẻ tiền
Toa sau thì để xếp riêng gánh gồng
Năm xu ngồi ghế đệm bông
Hỏi mình có sướng hay không hở mình?
Thành Nam cảnh trí an bài
Phố phường trên bộ, vạn chài dưới sông.
Nhất thành là phố Cửa Đông
Nhất lịch Hàng Ghế, Hàng Đồng, Hàng Thao
Hàng Giầy đẹp khách yêu đào
Muốn tìm quốc sĩ thì vào Văn Nhân
Ba năm một hội phong văn
Lại lều lại chõng về thăm Cửa Trường.
Ngọt ngào lên đến Hàng Đường
Say sưa Hàng Rượu, phô trương Hàng Cầm
Hàng Tiện, Hàng Sũ, Hàng Mâm
Gặp nhau Bến Gỗ, vui sân một nhà.
Hàng Cót, Hàng Sắt bao xa
Ai về Bến Ngự rẽ ra Khoái Đồng.
Vải Màn nhỏ chỉ, nõn bông
Hàng Cấp dệt lĩnh, Hàng Song buôn thừng.
Hàng Dầu, Hàng Lạc, Hàng Vừng,
Hàng Nâu tươi vỏ đỏ lòng vốn quen
Hàng Vàng lắm bạc nhiều tiền
Hàng Sơn gắn bó gần bên Hàng Quỳ.
Trăm năm nghĩa bạc tình nghi
Hàng Đàn, Hàng Ghế chung nghề thủ công.
Cột Cờ lên đó mà trông,
Đò Chè lơ lửng bến sông cắm sào.
Phố khác buôn bán vui sao,
Lợi quyền chểnh mảng nỡ trao tay người.
Hàng Dầu, Hàng Mã, Hàng Nồi,
Hàng Trống, Hàng Thiếc, lên chơi Hàng Thùng
Hàng Cau, Hàng Nón, tưng bừng,
Thành Nam văn vật lẫy lừng là đây
Thấy anh áo lượt xênh xang
Đồng hồ quả quít, nhẫn vàng đeo tay
Cái ô lục soạn cầm tay
Cái khăn xếp nếp, cái dây lưng điều
Các cô trông thấy mỹ miều
Chạy theo thỏ thẻ những điều nhỏ to
Thôi đừng chuyện nhỏ chuyện to
Đến tháng lĩnh bạc anh cho vài đồng
Mồ cha những đứa nói không
Đến tháng lĩnh bạc một đồng chẳng cho.
Ai về đừng bảo cầm khăn
Có một đồng bạc để dành cưới em
Ba hào thời để mua tem
Mời hết thiên hạ anh em xa gần
Cưới em ăn uống linh đình
Sơn Tây, Hà Nội đồn mình lấy ta
Một hào anh mua con gà
Hào hai đi chợ, hào ba đi tàu
Năm xu mua gói thuốc lào
Hào tư mua gói chè tầu uống chơi
Một hào đong gạo thổi xôi
Năm xu mua thịt, còn thời rau sưa
Anh ngồi anh tính cũng vừa
Cưới em đồng bạc còn thừa một xu.
Quê ta đẹp quất Tây Hồ,
Tơ vàng kén mượt đầy bồ Tứ Liên.
Hữu Hưng dệt lụa hoa hiên
Cò bay bướm lượn in trên lụa đào.
Cam Canh, bưởi Mỗ ngọt ngào,
Mát lòng cải bắp, su hào Trung Kiên.
Mình về Nguyên Xá mà xem
Vườn hồng trĩu quả, chuối nêm kín làng.
Mễ Trì thơm gạo tám xoan.
Dự hương, gié cánh thóc vàng như tơ.
Gửi người dệt bộ bài thơ
Phùng Khoang gấm đẹp còn chờ tay ta.
Cốm Vòng nức tiếng gần xa,
Cau non Dịch Vọng, tiếng gà thôn Viên.
Đường vào Cổ Nhuế vẫn quen
Máy khâu rộn rã, mía chen vai người.
Hai Xuân như đẻ sinh đôi
Cánh diều chung sáo, mương khơi chung đào
Trên mình xanh thắm bí đao
Dưới ta lúa tốt khác nào rừng xanh
Vải thiều đỏ rực đầu cành
Thơm mùi cam Cáo, ngọt canh đậu Giàn.
Xuân La lợn béo bao đàn,
Trắng phau cá lội, dịu vàng khoai tây
Mình về ta nắm lấy tay
Ta dặn câu này mình chớ có quên:
Khỏa chèo mình ngược bến Chèm
Viếng Lý Ông Trọng, hoa chen mái đình
Giò Chèm ai gói xinh xinh
Nắm nem làng Vẽ đậm tình quê hương.
Chuối Sù mập quả trăm vườn
Sang thu hương chuối quện hương cốm Vòng.
Hoa đào dệt lối Nhật Tân
Yêu quê hoa nở đầy sân lụa đào.
Ở đâu hợp tác công cao
Rẽ vào Quảng Bá xem nào đâu hơn.
Rau xanh kín bãi kín vườn
Hương sen thoang thoảng cho thơm tóc mình
Tung tăng đàn cá lượn quanh
Ta giăng lưới bạc rung rinh mặt hồ.
Quên sao giấy điệp Nghĩa Đô
Tiếng chày nện sợi, câu hò nhặt khoan
Ai xeo cho giấy mịn màng
Đẹp màu tranh mới xuân sang quê nhà.
An Phú dẻo kẹo mạch nha
Lợn hồng da mượt như là trong tranh.
Ở đâu thơm húng thơm hành
Có về làng Láng cho anh theo cùng
Theo ai vai gánh vai gồng
Rau xanh níu gót bóng lồng sông Tô.
Trời cao lồng lộng sao cờ
Phi lao vi vút đôi bờ Nhuệ Giang
Chập chùng nhà máy công trường
Đỏ tươi mái ngói, mây vờn khói bay.
Lòng ta như tỉnh như say
Mình nghe! Kìa tiếng máy cày xa xa…
Quê ta đẹp lắm quê ta
Trăm mầu nghìn sắc quê nhà: Từ Liêm.
Quý Tị giữa ngày mồng Năm
Giờ Dần chính nguyệt ầm ầm huyên hoa
Một chi đánh ở Đống Đa
Cầu Duệ kéo xuống, tốt xa muôn phần
Phép voi bại trận tiên phong
Cầu Tương sụt cả xuống sông Bồ Đề
Đao binh tử trận đầy khe
Dọc đường giáo mác nằm kề năm năm
Điền Châu Thái thú đảm đương
Liều mình tử trận chiến trường nên công
Trận vây ở trong Nam Đồng
Rạng ngày mồng Sáu cờ dong lai hàng
Vua ban sứ bộ tiếp sang
Quan tài phong kín đón đường kéo ra
Con con cháu cháu hằng hà
Mừng lấy được xác Điền Châu đem về
Tướng tài can đảm cũng ghê
Làm đền phụng sự tức thì Đống Đa.
Trên trời có một ông sao
Chỗ quang chẳng mọc mọc vào đám mây
Nước Hồ Tây biết bao giờ cạn
Nhị vườn đào biết vạn nào hoa
Đưa nhau một quãng đường xa
Hỏi thăm anh Tú có nhà Cửa Nam.
Trên trời có sao tua rua
Ở dưới Kẻ Chợ có vua đúc tiền
Ruộng tư điền ai không cày cấy
Hỏi cô mình có lấy anh chăng
Mười hai cửa bể anh đã cắm đăng
Cửa nào lắm cá anh quăng chài vào.
Trèo lên cây gạo cao cao (3)
Lệ cheo làng Nhót độ bao nhiêu tiền?
Cheo thời có bảy quan hai
Lệ làng khảo rể trăm hai mươi vồ.
Thôi thôi tôi giã ơn cô
Tiền cheo cũng nặng, trăm vồ cũng đau.
Trèo lên cây gạo cao cao (4)
Bước xuống hội Gióng vui sao vui vầy
Giáo gươm cờ xí trùng trùng
Hằng năm mở hội tưng bừng vui thay
Nhớ xưa Thánh Gióng tích rày
Uy phong rạng rỡ đến nay còn truyền.
Nhớ thuở có loạn Tống binh
Đức vua ngự giá thân chinh về làng
Cửa nhà giặc đốt tan hoang
Lợn bò giặc bắt, đường làng vắng tanh
Người người cầu khấn thánh linh
Có Thánh Phù Đổng hiện hình cứu dân
Đôi bên giáp trận ầm ầm
Đầu rơi kín đất, máu đầm cỏ cây.
Gươm khua, ngựa xéo, voi giày
Giặc như kiến cỏ chúng quay ra hàng
Đức vua ngự giá hồi loan
Đổi tên Bình Lỗ cho làng Vệ Linh
Khao quân mở tiệc linh đình
Tạ từ Thánh Sóc hiển linh giúp vầy
Dựng đền, tạc tượng vào đây
Truyền sai dân chúng tháng ngày khói hương.
Nhớ xưa liệt sĩ bốn người
Ở trong ban lính đóng nơi La Thành
Đôi phen trận mạc tập tành
Thấy người xe ngựa, tủi mình non sông
- Nay tôi có chước lập công
Ở trong tôi đã ám thông với bồi
Chờ khi nó trúng độc rồi
Thẳng lên kho súng giết người lính canh
Lấy được súng, kéo vào thành
Ba tòa chiếm thủ, chi binh ba đường
Đất bằng nổi tiếng sấm vang
Ông Đề xuống lấy Bắc Giang tỉnh thành
Tuyên Quang, Thái, Lạng, Nghệ, Thanh
Bốn phương hưởng ứng dẹp bình như chơi.
Ông Bình nói chửa hết lời
Hai bên đứng dậy, người người vỗ tay
Tức thì ba đạo chia ngay
Hữu kia Nguyễn Cốc, tả này Đặng Nhân
Ông Bình là chủ trong quân
Ông Nga làm phó ba quân cứ lời
Cùng nhau bộ thự vừa rồi
Mở ra sáp huyết làm lời ước minh
Ngày hai mươi chín bình minh
Nghe nó trúng độc thì mình động ngay
Lạ thay không cánh mà bay
Cơ mưu nó biết, ngày ngày nó trông
Hai mươi chín, bẩy điểm chung
Nó ăn phải độc chưa xong nửa phần
Vô tình phải đứa bất nhân
Đem tin báo với Pháp quân tức thì
Thôi thôi còn có kíp gì
Hùm kia đến lúc xa ki cũng hèn
Pháp doanh nghe động tiếng kèn
Trong thành bốn mặt bổ liền quân vây
Chẳng qua một rủi, một may
Chậm cho mươi phút sự này hẳn xong
Thương thay thất bại anh hùng
Tấm lòng đối với non sông thẹn gì
Gan vàng, dạ đá tri tri
Ông Bình đến chết coi thì như không
Vừa cười vừa nói ung dung
Bên đường trông thấy ai không sụt sùi
Ông Nga vừa bắt đến nơi
Pháp quân dò hỏi mấy lời thủy chung
Rằng: - Anh là kẻ có công
Và ơn Nhà nước cũng không bạc gì
Cớ sao mưu phản làm chi?
Những ai đồng đảng nói thì tha ngay!
Nghe lời nghiến lợi cau mày
Mắng rằng: - Pháp tặc nói hay làm gì
Mấy nghìn vạn ức mày thì nhớ không?
Tao ăn một tháng mười đồng
Cũng là da thịt của trong toàn kỳ
Cơm thừa canh cặn ra chi
Hãy còn khéo nói, kể gì làm ơn
Dựa Nam nhân, giết Nam nhân
Một năm lương thuế toàn kỳ
Mấy nghìn vạn ức mày thì nhớ không?
Tao ăn một tháng mười đồng
Cũng là da thịt của trong toàn kỳ
Cơm thừa canh cặn ra chi
Hãy còn khéo nói, kể gì làm ơn
Dựa Nam nhân, giết Nam nhân
Gọi to một tiếng “Đồng bào!”
Hồn thiêng theo trận gió ào lên mây
Ôi thương thay! Ôi thương thay!
Kể sao cho xiết chết lây những người
Văn minh thật đã lạ đời
Đàn bà giết cả đến người hàng cơm
Thôi thôi trâu béo cỏ rơm
Trăm nghìn phó một mũi gươm là rồi
Khen cho liệt sĩ bốn người
Một lòng vì nước muôn đời tiếng thơm…
(Vè Liệt sĩ 4 người)
Nhác trông lên mái Nhà Thờ
Đồng hồ đã điểm chín giờ chàng ơi
Vì dù chàng có thương tôi
Mình ra Hà Nội chụp đôi cái hình
Khi nao thanh vắng một mình
Nhớ ai tôi lại giở hình ra xem.
Nhắm ai hoa thắm lòng tay
Ngát hương Hữu Tiệp mà say Ngọc Hà.
Hoa thơm dải áo sẻ tà
Thơm thơm lá phiếu của ta của mình.
Nhắn ai ươm ngọn dâu xanh
Tơ vàng Tầm Xá uốn quanh sông Hồng.
Ví dù con bế con bồng
Phiếu tươi nét chữ đẹp lòng cả đôi.
Nhắn ai chèo lái ngược xuôi
Thuyền qua Thái Thủy dừng nơi bến Chèm.
Cắm sào quen lại thêm quen
Hẹn năm ba hẹn: chờ quên phiếu bầu.
Nhắn ai se chỉ bấy lâu
Tây Hồ vấn vít trăm mầu tơ vương.
Có đi chung lối chung đường
Chờ chung lá phiếu mà vương chỉ hồng.
Nhắn ai quê ở bên sông
Phú Viên cau thắm trầu không mấy mùa.
Phiếu bầu buổi sớm hay trưa
Để trầu cau gửi cho vừa lòng ai.
Nhắn lời xin giữ lấy lời
Mừng ngày bầu cử thêm vui xóm làng
Ước gì nắng đỡ hanh vàng
Để ai nghiêng nón qua làng cùng đi…
Chẳng thơm cũng ngát hoa chanh
Chẳng giỏi cũng gái ngoại thành Thủ đô.
Ra tay chẳng phải tay vừa
Làm chiêm chiêm vượt, làm mùa mùa hơn.
Chăn nuôi vừa khéo vừa khôn
Quanh năm gà lợn xuất chuồng quanh năm.
Thao trường cũng gắng cũng chăm
Veo veo đường đạn thằng băng vòng mười.
Việc quân nào chịu thua người
Cũng tay súng thép giữ trời quê hương.
Điện về điện sáng làng thôn
Cũng tay điều khiển máy bơm máy nghiền.
Siêng làm thì học cũng siêng
Người vào lớp bảy, người lên lớp mười.
Mấy kỳ đấu kiếm, thi bơi
Chưa tài mà cũng khối người vỗ tay.
Đêm chèo giọng hát chưa hay
Vẳng qua sông Đuống đã say sông Hồng.
Bốn mùa tươi áo nâu sồng
Việc nhà việc nước gánh gồng đôi vai.
Trai tài gái đã kém ai
Chẳng thơm cũng ngát hoa nhài hoa chanh.
Chẳng giỏi cũng gái ngoại thành
Gái mà như thế, khối anh giật mình!
Văn Lang sạch bóng giặc Ân
Nơi đây Thánh Gióng dừng chân gội đầu
Cổ xưa truyền lại có câu
Vùng quê lấy Sọ làm đầu vẻ vang
Nước trong, trong mát như gương
Cổ giếng ghi tích lưu truyền mai sau
Hằng năm rưới nước gội đầu
Dâng lên Thánh Gióng bấy lâu tôn thờ.
Ba dân mở hội tháng Năm
Mười hai chạ chải, hôm rằm bơi thi
Ba dân đánh trống chỉ huy
Thuyền nào đạt nhất, cờ thì có mao
Cả Thuyết đứng mũi chịu sào
Hai Dương đánh mõ, Trương Giao phất cờ
Lái Hành lái vượt thủy cơ
Dân ta đâu có được cờ mà tranh.
Ba mươi súc miệng ăn chay
Sáng ngày mồng một dựng cây trúc đài
Làm sân khấn vái Phật Trời
Biết đâu có nắng mà phơi quần hồng
Ai ơi, hãy hoãn lấy chồng
Để cho trai gái dốc lòng đi tu.
Chùa này chẳng có Bụt ru
Mà đem chuông khánh treo chùa Hồ Sen
Thấy cô yếm đỏ răng đen
Nam mô Di phật lại quên mất chùa!
Ai mua tấc cảnh thì mua
Thanh la não bạt, thày chùa bán cho
Hộ pháp thì một quan ba
Long thần chín rưỡi, thích ca ba tiền
Còn hai mụ Thiện hai bên
Ai mua bán nốt lấy tiền nộp cheo
Lệ làng thiếu thốn bao nhiêu
Đẵn cây tre cộc cắm nêu sân chùa.
Ba năm mở hội một lần
Tiếng đồn nô nức xa gần đến xem
Hai phố chôn hai dãy đèn
Làm hai cái cổng dưới trên phố Hàm
Làm thêm cái cổng Tam Quan
Làm nhà tám mái bắc ngang sân chùa
Trong chùa tinh tượng mới tô
Làm nhà tám mái bày đồ hàng ngôi
Dân ta mở hội mồng mười
Mười một rước nước thỉnh kinh lên chùa
Rước nước trên sông Bồ Đề
Thỉnh kinh chùa Đá rước về chùa Mơ.
Nghìn thu gặp hội thái bình
Trải xem phong cảnh khắp thành Thăng Long
Phố ngoài bao bọc thành trong
Cửa Nam, Giám, Bắc, Tây, Đông rõ ràng
Ba mươi sáu mặt phố phường
Hàng Giày, Hàng Bạc, Hàng Ngang, Hàng Đào
Người đài các, kẻ thanh tao
Qua hàng thợ Tiện lại vào Hàng Gai
Hàng Thêu, Hàng Trống, Hàng Bài
Hàng Khay trở gót ra chơi Tràng Tiền
Nhác trông chẳng khác động tiên
Trên đồn cờ kéo dưới thuyền buồm giăng
Phong quang lịch sự đâu bằng
Dập dìu võng lọng, tưng bừng ngựa xe
Hàng Vôi sang phố Hàng Bè
Qua tòa Thương Chính trở về Đồng Xuân
Trải qua Hàng Giấy dần dần
Cung đàn nhịp phách nên xuân bốn mùa
Cầu Đông vang tiếng chợ Chùa
Trăng soi giá nến, gió lùa khói hương
Mặt ngoài có phố Hàng Đường
Hàng Mây, Hàng Mã, Hàng Buồm, Hàng Chum
Tiếng Ngô, tiếng Nhắng um um
Lên lầu xem điếm tổ tôm đánh bài
Khoan khoan chân trở gót hài
Qua Hàng Thuốc Bắc sang chơi hàng Đồng
Biết bao của báu lạ lùng
Kìa đồ bát bửu, nọ lồng ấp hương
Hàng Bừa, Hàng Cuốc ngổn ngang
Trở về Hàng Cót dạo sang Hàng Gà
Bát ngô, Hàng Sắt xem qua
Hàng Vải, Hàng Thiếc lại ra Hàng Hòm
ở đâu nghe tiếng om om?
Trống chầu rạp hát thòm thòm vui thay
Hàng Da, Hàng Nón ai bày
Bên kia Hàng Điếu, bên này Hàng Bông
Ngã tư Cấm Chỉ đứng trông
Qua Hàng Thợ Nhuộm thẳng rong Hàng Tàn
Đoái xem phong cảnh bàn hoàn
Bút hoa dở viết chép bàn mấy câu.
Trải qua một cuộc bể dâu
Nào người đế bá, công hầu là ai?
Ngồi trên bờ dốc buông câu
Trách ai xui giục con cá sầu không ăn
Cá không ăn câu anh vác cần về
Để ống lại đây
Đêm khuya thanh vắng hồ Tây
Anh thả mồi bận nữa, con cá này cũng ăn.
Quê Hương,Đất Nước,Tự Túc,Dùng Hàng Nội,Phố Phường, Buôn Bán,
Bắc Kỳ vui nhất Hà Thành
Phố phường sầm uất văn minh rợp trời
Thanh tao lịch sự đủ mùi
Cao lâu rạp hát vui chơi đủ đầy
Đâu đâu nam bắc đông tây
Thăng Long thắng địa, xưa nay tiếng đồn
Cũ thời băm sau phố phường
Ngày nay mở rộng tới hàng vài trăm
Người đi, xe chạy ầm ầm
Đua chen thương mại bội phần hơn xưa
Nhất vui là cảnh Bờ Hồ
Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Bồ Hàng Ngang (*)
Mã Mây, Phố Mới, Hàng Vàng
Đồng Xuân, Hàng Giấy, Hàng Buồm vui thay
Bán buôn tấp nập đêm ngày
Ô-tô đi lại như bay ngoài đường
Đua chen trong chốn thị trường
Hiệu buôn chú Khách, cửa hàng người Nam
Bày ra đủ các thứ hàng
Hàng Tây, hàng Nhật với hàng Trung Hoa
Lại hàng nội hóa đủ là
Ngày nay xuất cảng kể đà hơn xưa
Ấy là kể những phố to
Còn như Hàng Quạt, Hàng Lờ, Hàng Da
Cửa Nam, Hàng Lọng, Phố Ga
Hà Trung, Ngõ Trạm, Hàng Gà, Cửa Đông
Hàng Cân, Hàng Cót, Hàng Đồng
Hàng Mụn, Hàng Bát, Hàng Bông, Hàng Bài
Hàng Cau, Hàng Bột, Hàng Khoai
Hàng Nâu, Hàng Trứng, Hàng Gai, Hàng Hành
Hàng Tre, Hàng Sũ, Hàng Mành
Phúc Châu, Cầu Gỗ, Bắc Ninh, Hàng Hòm
Mới đà kể hết phố con
Của người bản xứ bán buôn ngày rày
Còn như đường lớn, phố Tây
Tràng Tiền, Đồng Khánh, Hàng Khay, Nhà Thờ
Nhất vui là hiệu Gô-đa
Ra vào nhộn nhịp ai mà chẳng hay
Tràng Tiền có rạp hát Tây
Bên kia Đồn Thủy, bên này nhà Đoan
Vườn hoa con cóc trông sang
Là dinh Thống sứ nhìn càng xót xa
Tượng Tây đứng giữa vườn hoa
Bên này Đốc Lý trông ra Bờ Hồ
Kể xem phố xá bây giờ
Phồn hoa đệ nhất kinh đô Bắc Kỳ
Văn minh đèn điện sáng lòe
Thông thương kỹ nghệ mọi bề chấn hưng
Chỉ cánh áo ngắn khốn cùng
Làm lụng suốt tháng vẫn không đủ dùng
Bữa cơm, bữa cháo nhạt nhùng
Thôi đành nheo nhóc bọc đùm lấy nhau.
Bàn Cờ, Trảm Tướng, Cao Tung
Mũi Cày, Đụn Rạ, trùng trùng non cao
Sóc Sơn là ngọn núi nào
Có ông Thánh Gióng bay vào trời xanh
Sông Cà Lồ phía Nam quanh
Uốn quanh trăm khúc như tình đôi ta.
Tản Viên núi ấy kiêu thay
Tầng trên tầng dưới thắt ngay cỏ bồng
Họa núi tôi lại họa sông
Vì chàng em phải long đong thế này
Họa nhà quan sở lầu tây
Em sang Hà Nội họa ngay Cột Cờ
Họa nhà máy Nước, máy Tơ
Xin chàng hãy cứ đợi chờ chàng ơi
Vườn Bách thú em đã họa rồi
Em xuống dưới biển, họa đôi cá vàng.
Nghĩ cảnh sống làng ta mà chán
Nợ bề bề, ruộng bán không trôi
Năm nay Tết đến nơi rồi
Chủ Hàng Bồ sắp cho người về thăm
Người năm chục kẻ một trăm
Bấm tay nợ phải đến dăm ba nghìn…
Ái Quốc,Lịch Sử,Chống Ngoại Xâm,Chính Trị, Hành Chính, Hành Chánh
Nghĩ xem cái nước Nam mình
Tây sang bảo hộ tài tình đến đâu?
Nghĩ xem tiền của ở đâu
Đưa ra mà bắc được cầu qua sông
Chả hay tiền của của chung
Đưa ra mà bắc qua sông Bồ Đề
Bắc cho thiện hạ đi về
Những cột dây thép khác gì nhện chăng
Tưởng rằng anh Pháp nghĩa nhân
Chả hay lấy của dân Nam làm giàu
Tưởng rằng bảo hộ cho nhau
Chả hay đánh mắng ra màn coi khinh
Cũng giang sơn cũng triều đình
Thế mà nước mất dân tình lầm than
Lo sưu, lo thuế đã cam
Nay kinh, mai lính, gian nan mịt mù
Dân thì phải thợ, phải thu
Tỉnh thành đặt chốn lao tù cấm ngăn
Một năm biết mấy lần liền
Nay thuế quốc trái, mai thu quốc phòng
Những quân vui thú nức lòng
Đua nhau ăn bẩn như muông khác gì…
Nước khô rồi nước lại hồi
Còn trời, còn đất, còn nòi giống ta.