Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Em lên xứ Lạng cùng anh
Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Mảng vui quên hết lời em dặn dò
Gánh vàng đi đổ Sông Ngô
Đêm đêm mơ tưởng đi mò Sông Thương
Vào chùa thắp một tuần hương
Miệng khấn tay vái bốn phương chùa nầy
Ngó lên núi Dinh Ông nhiều cây gỗ quí
Ngó xuống chợ Đồng Cọ nhiều cá nhiều tôm
Ngó xuống đồng Bà Lài đám xanh đám đỏ
Ngó ra đồng Bàn Cỏ nhiều đám bỏ hoang
Nhật trình từ Ráy đến ô
Bây giờ ta kể duyên do các làng
Tứ Kỷ đó rõ ràng
Trông lên lại thấy một làng Pháp Vân
Trông xa rồi lại trông gần
Đại Từ trước mặt, sau lưng Linh Đường
Vang lừng chợ Sét một bên
Qua cầu lại thấy bên trên có chùa
Kẻ đi người lại như đua
Kẻ đi ghé nón, người vô cúi đầu
Nhác trông làng Tám càng màu
Thiên thanh con lục, địa đầu Tam Giang.
Yêu nhau nên phải ra đi
Đi sao tìm thấy cố tri mới đành
Tìm anh tất cả thị thành
Tưởng rằng anh ở Hàng Mành không xa
Chữ tình ta lại gặp ta
Hàng Mành chẳng thấy tìm ra Hàng Hòm
Phố thời bán những mâm son
Duyên kia sao chẳng vuông tròn cùng nhau.
Đèo nào cao bằng đèo Phú Cốc?
Dốc nào ngược bằng dốc Nha Trang ?
Mỗi tiếng em than, hai hàng lụy nhỏ
Còn chút mẹ già, biết bỏ cho ai ?
Mẹ già, còn có em trai,
Phận em là gái, nay mai phải theo chồng.
Đứng bên ni Hàn
Ngó bên tê Hà Thân
Nước xanh như tàu lá
Đứng bên tê Hà Thân
Ngó về Hàn, phố xá nghênh ngang
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn
Đào sông Cầu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu
Dặn lòng ai đỗ đừng xiêu
Ở nuôi phụ mẫu sớm chiều có nhau
Ai về Mỹ Thị thì về
Trước sông sau biển rừng kề một bên
Nước Mỹ Thị vừa trong vừa mát
Đường Mỹ Thị nhỏ cát dễ đi
Gái Mỹ Thị đẹp như bông hoa lý
Trai Mỹ Thị đẹp ý siêng
Nước Sông Lại mênh mang mùa nắng
Dòng sông Côn lai láng mùa mưa
Đã cam (Đã bao) tháng đợi năm chờ
Công đâu công uổng công thừa
Duyên em đục chịu trong nhờ quản bao
Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan
Quê Hương,Đất Nước,Hẹn Ước,Tinh Yêu Trai Gái,Núi Non,
Núi kia ai đắp mà cao (4)
Sông kia ai đào, nước chảy vòng quanh
Nhìn trời, nhìn nước mông mênh (*)
Có về Lữ xá, để anh đưa về
Tóc ngôi dài, tóc mai cụt,
Cầu trời khấn Bụt cho tóc mai dài
Bao giờ tóc chấm ngang vai
Thì ta két nghĩa làm hai vợ chồng
Sông Thu nước chảy đôi dòng
Đèn khêu hai ngọn anh trông ngọn nào
Muốn tắm mát lên ngọn sôn đào
Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh
Hai tay vịn cả đôi cành
Quả chín thì hái, quả xanh thì đừng
Hòa Xuân ta đẹp tuyệt vời
Có đồng lúa chín sáng ngời quê huơng
Gò mao nghĩa địa chôn nguời
Nay là hợp tác nhà kho đỏ hừng
Nơi đây mồ mả như rừng
Nay là hợp tác Hòa Xuân của mình
Trung tâm hợp tác là đây
Gần đuờng quốc lộ ra vào vui thay
Trai tài gái sắc tiếng đồn
Nho học, Tây học có nhường cho ai
Nghệ thuật cho đến nghề chơi
Có văn có võ có người tri âm
Xa quê bởi chuyện làm ăn
Hôm nay nhắc tới muôn vàn cảm thương.
Quê Hương,Đất Nước,Lễ Hội,Di Tích, Thắng Cảnh, Thời Gian
Hàng năm cứ tháng tư mồng chín
Hội Gióng là nức tiếng khắp nơi
Nước Nam các tỉnh trong ngoài
Gần xa nô nức mọi người đến xem
Xã Phù Đổng sơn xuyên anh đục
Dãy núi Hằng, sông Đức tứ chung
Vườn hoa vạn cổ anh phong
Là nơi cố trạch, anh hùng giáng sinh
Ngôi miếu đền uy linh rạng rỡ
Đủ tứ thời hương lửa phụng thờ
Nguy nga lầu các sùng tu
Danh lam thắng cảnh từ xưa lưu truyền
Thánh chính vị ngự trên long giá
Địa thế bên giếng đá mắt rồng
Kiểu đền ngoại quốc, nội công
Trước hồ thủy tạ linh lung huy hoàng
Ngũ môn, lầu linh quang tuấn nhạc
Thạch long kiều thủy các chầu ra
Xung quanh cổ thụ rườm rà...
Lâu đài sầm uất thực là tối linh
Những ngày hội linh đình rước tế
Khách các nơi đến lễ rất đông
Trầm hương nghi ngút xa trông
Cuộn bay từng đám như rồng khói tuôn
Giữ thiên địa trường tồn bất diệt
Rõ “chí kim vi liệt” không sai
Vốn là hiển thánh trong ngoài
“Bách thần nguyên tự” rực trời uy nghi
“Đại nhi hóa” lưu kỳ phụng sự
“Thiên thượng thần” ba chữ môn lâu
Hội từ mồng một bắt đầu
Thi kèn thi trống mọi màu bách công
Ngày mồng năm tập trung phù giá
Như tập quân chuẩn bị chiến công
Chỉ huy xướng xuất tiên phong
Cờ nào đội ấy phân công chỉnh tề
Ngày mồng sáu hành nghi rước nước
Đôi chum ngô bày trước án son
Cửa đền Mẫu có giếng tròn
Rước từ giếng ấy nghiêm tôn về đền
Ngày mồng bảy thiên thanh minh tú
Sáng rước cờ, rước cỗ, rước văn
Trưa phù giá tập binh quân
Tập ngoài trong tế, suốt tuần tế trưa
Chiều phù giá đi đưa về đón
Đi khám đường kéo đến ải môn
Ba cây số Đổng Viên thôn
Xứ đồng cửa ải, tiếng còn lưu danh
Ngày mồng tám tuyển binh, kén tướng
Bày hai mươi tám tướng nữ nhân
Tướng nào là tướng giặc Ân
Cơ nào đội ấy, đai cân chỉnh tề
Ngày mồng chín hành nghi chính hội
Đúng buổi trưa kéo tới Đổng Viên
Roi rồng áo đỏ, áo đen
Hiệu cờ chiêng trống loa kèn nhạc âm
Hiệu hàng dăng trung quân tiểu cổ.
Phường ải Lao áo hổ đi theo
Là phường Tùng choặc cờ mao
Người bên Hội Xá năm nào cũng sang
Đoàn phù giá xếp hàng lần lượt
Vác biển cờ, tàn quạt tiêu dao
Người mang lồng mũ, áo bào
Vừa reo vừa chạy ào ào ầm vang
Xa nghe tiếng nhạc vàng rung động
Xướng suất cầm kẻng trống trong vòng
Xe long giá kéo thẳng dong
Đến nơi giá ngự hợp đồng phụng nghi
Các hiệu đi bao vi nữ tướng
Quay trở về bái vọng ngự tiền
Điểm ba tiếng trống tiên nghiêm
Nối theo chiêng trống nổi lên ba hồi
Mở miếu cờ tung trời đỏ chói
Ngũ sắc bay phấp phới bướm ra
Trên trời có đám mây sa
Hiệu cờ quỳ xuống phất ba ván liền
Gạt ba lần bắt đàn cướp chiếu
Phất cờ xong hội kéo về đền
Khao quân thưởng tướng yến diên
Phù giá xướng suất sân đền hạ công
Đang cuộc vui chưa xong tiệc yến
Lại vội vàng kéo đến Soi Bia
Hội bày như buổi ban trưa
Lại phất ba ván dựng cờ thành công
Hội kéo về vừa xong gần tối
Bắt giặc Ân rong ruổi theo sau
Bắt hai thủ tướng vào chầu
Tướng đốc, tướng ngựa hai đầu quân binh
Gươm thần đứng rạch phanh cưởi áo
Vung gươm lên gạt tháo mũ ra
Giả chặt đầu với lột da
Giả hình hai tướng ý là giặc tan.
Ngày mồng mười nghi loan rước tướng
Dâng vàng vào tiến cống xin hàng
Truyền cho các tướng tọa an
Ban cho tiệc yến hoàn toàn hồi quy
Ngày mười một hành nghi rước nước
Lại rước như kỳ trước nghiêm trang
Giặc Ân cờ trắng đầu hàng
Ngày mười hai hội biểu dương khám cờ
Ngày nào cũng tuồng ca vũ nhạc
Tối đuốc bông sáng quắc góc trời
Lại còn mở các trò vui
Sân cờ Đế Thích, đua tài vật thi
Các ông hiệu được đi phụng sự
Lòng trai thành ăn ngủ ở đền
Dãy nhà hiệu cạnh ba gian
Chỗ ngồi lịch sự bằng tiên trên trần
Khi hành hội đai cân áo mũ
Dàn hai bên có đủ gươm hèo
Roi rồng, tay thước, kiếm đeo
Hiệu cờ bốn lọng còn đều là hai
Hội Gióng này trưng bày buổi trước
Có giặc Ân chiếm nước Nam ta
Hùng Vương thứ sáu đời qua
Bốn ngàn năm kể hơn thừa đến nay
Thánh giúp nước ra tay giết giặc
Thanh gươm vàng, ngựa sắt, áo nhung
Lên ba tuổi, rõ anh hùng
Dẹp xong giặc biến lên không lạ thường
Linh sơn núi đằng không di tích
áp nhung treo, ngựa sắt, dấu tiên
Xã Phù Đổng dựng miếu đền
Hàng năm mở hội lưu truyền công ơn.
Nghĩ cảnh sống làng ta mà chán
Nợ bề bề, ruộng bán không trôi
Năm nay Tết đến nơi rồi
Chủ Hàng Bồ sắp cho người về thăm
Người năm chục kẻ một trăm
Bấm tay nợ phải đến dăm ba nghìn…
Lịch triều có sắc truy phong
Tiếng tăm lừng lẫy khắp trong nước nhà
Trước nơi đinh vũ nguy nga
Muôn dân kính chúc hương hoa kính thành
Đời đời nổi tiếng anh linh
Tùy dân hộ quốc uy danh rõ ràng
Cúi đầu lạy đức Thiên Vương
Nghìn thu sông Nguyệt, non Thường ghi công.
Quảng Nam là xứ sở ta
Trong là Quảng Ngãi ngoài là Thừa Thiên
Phía đông là biển sát liền
Phía tây giáp giới với miền Ai Lao
Tua-ran 3 tàu lớn ra vào
.
Phai-phô 4 là phố người Tàu bán buôn
Nhớ thuở có loạn Tống binh
Đức vua ngự giá thân chinh về làng
Cửa nhà giặc đốt tan hoang
Lợn bò giặc bắt, đường làng vắng tanh
Người người cầu khấn thánh linh
Có Thánh Phù Đổng hiện hình cứu dân
Đôi bên giáp trận ầm ầm
Đầu rơi kín đất, máu đầm cỏ cây.
Gươm khua, ngựa xéo, voi giày
Giặc như kiến cỏ chúng quay ra hàng
Đức vua ngự giá hồi loan
Đổi tên Bình Lỗ cho làng Vệ Linh
Khao quân mở tiệc linh đình
Tạ từ Thánh Sóc hiển linh giúp vầy
Dựng đền, tạc tượng vào đây
Truyền sai dân chúng tháng ngày khói hương.
Văn Lang sạch bóng giặc Ân
Nơi đây Thánh Gióng dừng chân gội đầu
Cổ xưa truyền lại có câu
Vùng quê lấy Sọ làm đầu vẻ vang
Nước trong, trong mát như gương
Cổ giếng ghi tích lưu truyền mai sau
Hằng năm rưới nước gội đầu
Dâng lên Thánh Gióng bấy lâu tôn thờ.
Ba Biều chí dũng gan liền
Tả xung hữu đột, trận tiền chỉ huy
Đạn của giặc tứ vi bắn lại
Biều chẳng may bị phải trọng thương
Khen thay khí tiết kiên cường
Trước khi tắt thở khẩn trương dặn dò:
Khuyên đồng đội đánh cho quyết liệt
Dẫu hy sinh tử tiết không hàng
Dặn xong xuống cõi suối vàng
Nghĩa quân thương tiếc hai hàng châu sa.
Đá Bia khói hận mây mù
Nuớc sông bàn Thạch lững lờ máu trôi
Ai xưa tạo hóa khéo xây
Núi hiểm lại gặp phải tay quân thù
Hàng ngày đánh đập lu bù
Khảo tra truớc mắt,ngục tù sau lưng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng
Ngó ra đồng đẫu duới chân đá đề