Quê Hương, Địa Danh, Tình Yêu Trai Gái, Tán Tỉnh, Chốn Ở, Chống Ngoại Xâm
Hai con sông nước mênh mông
Nhà em sông Hậu nhà anh sông Tiền
Cách nhau một dải đất liền
Hai con sông nước chảy riêng hai dòng
Ta cùng uống nước Cửu Long
Nước sông càng ngọt lúa đồng càng xanh
Dù em cách trở xa anh
Cách trăm quả núi cách nghìn con sông
Chúng ta một dạ một lòng
Mối thù đế quốc ta đồng chung lo
Cùng nhau xây dựng cơ đồ
Nước nhà hết giặc bấy giờ mới yên
Kinh kệ áo dà, để lại chốn đây
E khi đi có gặp Tây,
Nó coi thấy đặng, sắp bây không còn
Tính thôi đã một buổi tròn,
Xuống thuyền ra biển, hởi còn canh hai!
(Vãn núi Tà Lơn của ông Cử Đa)
Hư nên các việc tỏ bày
Tôi không có ép có nài chi ai.
Thương thay ông lão Bán Khoai.
Lên non xuống núi hôm mai dạy đời.
Thân sao nay đổi mai dời.
Xóm kia làng nọ, khổ thay thân già!
Nam mô đức Phật Di Đà
Khiến người trở lại thảo gia của người .
Bạc bảy đâu sánh vàng mười.
Hiền lương đâu xứng với người hung hăng.
(Vãn ông Sư Vãi Bán Khoai)
Tà Lơn xứ rày con tạm ở
Nghiệp lưới chài nhiều tháng náu nương
Gởi thơ cho cha mẹ tỏ tường.
Cùng huynh đệ cho hãn ý
Kể từ con đăng trình vạn lý
Đến bây giờ có bảy tháng dư
Nghiêng mình nằm nhớ tới mẫu từ
Ngồi chờ dậy ruột tằm quặn thắt.
(Thơ người Minh gửi về cố quốc)
Đời phải đời thạnh trị
Cuộc phải cuộc văn minh
Kìa là gió mát trăng thanh
Nầy bớ em ơi! Biết đâu nhân đạo bày tình cho vui . .
- Nước bích non xanh
Người bạn lành khó kiếm
Đây em cũng có hiếm, chẳng lựa đặng chỗ nào
Mãn lo mua bán ra vào Cần thơ . .
Tay cầm quyển sách Minh Tâm anh đọc:
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo.
Cao phi viễn tấu khả nan tàng
Từ khi anh xa cách con bạn vàng
Cơm ăn chẳng được như con chim phụng hoàng bị tên.
Vận bất tề nay trẻ nổi trôi
Thời bất đạt nên con xa xứ
Con cũng biết mười ơn vẹn giữ
Dạ lâm bền ba thảo ghi lòng
Câu tam niên nhủ bộ bất vong
Nghĩa thập ngoại lòng con lo trả
Khó vì nỗi anh thì một ngả
Cực lòng thay em ở một nơi
Bảy ngày Xuân con chịu tả tơi
Ba bữa Tết khoanh tay ngồi ngó
. . .
Việc ở ăn nhiều nỗi đắng cay
Vái Trời phật xin về quê cũ
Xứ hiểm địa, chim kêu vượn hú
Dế ngâm sầu nhiều nỗi đa đoan
Ngó dưới sông: cá mập lội dư ngàn . .
Nay con tới nơi nguồn cao nước đục
Lọai thú cầm nhiều thứ chỉnh ghê!
Giống chằng tinh lai vãng dựa bên hè
Con gấu ngựa tới lui gần xó vách
. . Bầy chồn cáo đua nhau lúc ngúc
Lũ heo rừng chạy giỡn bát lọan thiên . .
. . .Trên chót vót, nai đi nối gót
đôi vượn bạch nựng con thảnh thót
Cặp dã nhơn kếu tiếng rảnh rang
Ngó sau lưng: con kỳ lân mặt tợ như vàng
Nhìn trứơc mặt: ông voi đen huyền tợ thổ.
Hướng đông Bắc, con công kêu tố hộ.
Cõi Tây Nam, gà rừng gáy ó o . .
(Thư Người Minh gửi về cố quốc)
Thuyền anh trong vịnh mới ra.
Thuyền em ở dưới Vạn Hoa mới về.
Song song đôi chiếc thuyền kề.
Chiếc đi Bãi Cháy, chiếc về Tuần Châu.
Hẹn chàng sáng sớm hôm sau.
Có lên em đón Bồ Nâu, Hang Luồn...
Gia Đình, Đời Sống, Cha Mẹ Con Cái, Thân Phận, Nghề Nghiệp
Lên tầng khuỵu gối đun xe
Gò lưng mửa mật nắng hè cháy da
Con nằm khát sữa ở nhà
Mẹ đau vú sữa vắt ra đầy đường
Chiều về nhạt ánh tà dương
Ôm con cho bú lẫn than với bùn.
Tình Yêu Trai Gái, Tán Tỉnh, Thương Nhớ, Nhất Quyết,
Thiếp thương chàng gươm vàng không sợ
Súng bắn chin, mười lần duyên nợ không buông.
Chẳng thà chịu tiếng cho luôn
Gươm trường kề cổ không buông nghĩa chàng.
Ai về Bích La Đông khỏi lòng đau xót ruột
Ai về An Hòa khỏi hậm hực thù Tây
Mồ mả cha ông hắn cho xe xới, xe cày
Bao nhiêu oan hồn nước mắt
Nghĩ lại trăm đắng nghìn cay căm thù.
Bánh cả mâm răng gọi là bánh ít
Trầu cả chợ răng nói trầu không
Trai nam nhơn đối đặng sẽ làm chồng nữ nhi
– Chuối không qua Tây răng gọi là chuối sứ ?
Cây không biết chữ răng gọi là thông ?
Nam nhơn đà đối đặng quyết làm chồng nữ nhi
Ngồi buồn nói chuyện trên non
Một trăm thứ cá có con không thằng
Khi chọc ghẹo nhau vẫn giữ lối văn nhã:
Em mở khuôn ra cho anh đúc lấy lượng vàng
Hoạ may may hoạ thiếp với chàng dùng chung
– Anh về thưa với hai họ rõ ràng
Mời thân nhân lại, em mở khuôn vàng cho coi
Bán buôn vật nọ hàng kia,
Lao xao thương khách xiết vì là đông.
Chiếc qua chiếc lại đầy sông,
Mù mù khói tỏa, đùng đùng máy kêu.
Những tàu đồng dát sắt neo,
Càng nhìn tận mắt càng xiêu cả hồn.
Sợ chi nghịch thủy nghịch phong
Dầu lòng chạy ngược, dầu lòng chạy xuôi.
Tàu xúp lê một, còn thương còn nhớ
Tàu xúp lê hai, còn đợi còn chờ
Tàu xúp lê ba tàu ra biển Bắc
Tay vịn song sắt, nước mắt ròng ròng
Thương em từ thủa mẹ bồng
Bây giờ em lớn, em lấy chồng bỏ anh!
Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê.
Đạo nào vui cho bằng đạo đi buôn
Xuống biển lên nguồn, gạo chợ nước sông.
Anh đi ghe gạo Gò Công
Về Vàm Bao ngược gió giông đứt buồm.
Hò.. ơ..
Ông Tánh, ông Nhâm cùng ông Huỳnh Đức,
Ba ông hết sức phò nước một lòng
Nổi danh Gia Định Tam hùng:
Trọn nghĩa thủy chung có ông Võ Tánh.
Tài cao, sức mạnh, trọn nghĩa quyên sinh,
Bước lên lầu bát ngát thiêu mình như không!.. Hò.. ơ..
Đêm năm canh năm vợ ngồi hầu (2)
Vợ cả quạt nước têm trầu chàng xơi
Vợ hai trải chiếu chia bài
Vợ ba coi sóc nhà ngoài nhà trong
Vợ tư sửa gối chăn mùng
Vợ năm đứng đó trong lòng xót xa
Chè thang cháo đậu bưng ra
Chàng xơi một bát kẻo mà công lênh