Quê ta đẹp quất Tây Hồ,
Tơ vàng kén mượt đầy bồ Tứ Liên.
Hữu Hưng dệt lụa hoa hiên
Cò bay bướm lượn in trên lụa đào.
Cam Canh, bưởi Mỗ ngọt ngào,
Mát lòng cải bắp, su hào Trung Kiên.
Mình về Nguyên Xá mà xem
Vườn hồng trĩu quả, chuối nêm kín làng.
Mễ Trì thơm gạo tám xoan.
Dự hương, gié cánh thóc vàng như tơ.
Gửi người dệt bộ bài thơ
Phùng Khoang gấm đẹp còn chờ tay ta.
Cốm Vòng nức tiếng gần xa,
Cau non Dịch Vọng, tiếng gà thôn Viên.
Đường vào Cổ Nhuế vẫn quen
Máy khâu rộn rã, mía chen vai người.
Hai Xuân như đẻ sinh đôi
Cánh diều chung sáo, mương khơi chung đào
Trên mình xanh thắm bí đao
Dưới ta lúa tốt khác nào rừng xanh
Vải thiều đỏ rực đầu cành
Thơm mùi cam Cáo, ngọt canh đậu Giàn.
Xuân La lợn béo bao đàn,
Trắng phau cá lội, dịu vàng khoai tây
Mình về ta nắm lấy tay
Ta dặn câu này mình chớ có quên:
Khỏa chèo mình ngược bến Chèm
Viếng Lý Ông Trọng, hoa chen mái đình
Giò Chèm ai gói xinh xinh
Nắm nem làng Vẽ đậm tình quê hương.
Chuối Sù mập quả trăm vườn
Sang thu hương chuối quện hương cốm Vòng.
Hoa đào dệt lối Nhật Tân
Yêu quê hoa nở đầy sân lụa đào.
Ở đâu hợp tác công cao
Rẽ vào Quảng Bá xem nào đâu hơn.
Rau xanh kín bãi kín vườn
Hương sen thoang thoảng cho thơm tóc mình
Tung tăng đàn cá lượn quanh
Ta giăng lưới bạc rung rinh mặt hồ.
Quên sao giấy điệp Nghĩa Đô
Tiếng chày nện sợi, câu hò nhặt khoan
Ai xeo cho giấy mịn màng
Đẹp màu tranh mới xuân sang quê nhà.
An Phú dẻo kẹo mạch nha
Lợn hồng da mượt như là trong tranh.
Ở đâu thơm húng thơm hành
Có về làng Láng cho anh theo cùng
Theo ai vai gánh vai gồng
Rau xanh níu gót bóng lồng sông Tô.
Trời cao lồng lộng sao cờ
Phi lao vi vút đôi bờ Nhuệ Giang
Chập chùng nhà máy công trường
Đỏ tươi mái ngói, mây vờn khói bay.
Lòng ta như tỉnh như say
Mình nghe! Kìa tiếng máy cày xa xa…
Quê ta đẹp lắm quê ta
Trăm mầu nghìn sắc quê nhà: Từ Liêm.
Quý Tị giữa ngày mồng Năm
Giờ Dần chính nguyệt ầm ầm huyên hoa
Một chi đánh ở Đống Đa
Cầu Duệ kéo xuống, tốt xa muôn phần
Phép voi bại trận tiên phong
Cầu Tương sụt cả xuống sông Bồ Đề
Đao binh tử trận đầy khe
Dọc đường giáo mác nằm kề năm năm
Điền Châu Thái thú đảm đương
Liều mình tử trận chiến trường nên công
Trận vây ở trong Nam Đồng
Rạng ngày mồng Sáu cờ dong lai hàng
Vua ban sứ bộ tiếp sang
Quan tài phong kín đón đường kéo ra
Con con cháu cháu hằng hà
Mừng lấy được xác Điền Châu đem về
Tướng tài can đảm cũng ghê
Làm đền phụng sự tức thì Đống Đa.
Trên trời có một ông sao
Chỗ quang chẳng mọc mọc vào đám mây
Nước Hồ Tây biết bao giờ cạn
Nhị vườn đào biết vạn nào hoa
Đưa nhau một quãng đường xa
Hỏi thăm anh Tú có nhà Cửa Nam.
Trên trời có sao tua rua
Ở dưới Kẻ Chợ có vua đúc tiền
Ruộng tư điền ai không cày cấy
Hỏi cô mình có lấy anh chăng
Mười hai cửa bể anh đã cắm đăng
Cửa nào lắm cá anh quăng chài vào.
Trèo lên cây gạo cao cao (3)
Lệ cheo làng Nhót độ bao nhiêu tiền?
Cheo thời có bảy quan hai
Lệ làng khảo rể trăm hai mươi vồ.
Thôi thôi tôi giã ơn cô
Tiền cheo cũng nặng, trăm vồ cũng đau.
Trèo lên cây gạo cao cao (4)
Bước xuống hội Gióng vui sao vui vầy
Giáo gươm cờ xí trùng trùng
Hằng năm mở hội tưng bừng vui thay
Nhớ xưa Thánh Gióng tích rày
Uy phong rạng rỡ đến nay còn truyền.
Nhớ thuở có loạn Tống binh
Đức vua ngự giá thân chinh về làng
Cửa nhà giặc đốt tan hoang
Lợn bò giặc bắt, đường làng vắng tanh
Người người cầu khấn thánh linh
Có Thánh Phù Đổng hiện hình cứu dân
Đôi bên giáp trận ầm ầm
Đầu rơi kín đất, máu đầm cỏ cây.
Gươm khua, ngựa xéo, voi giày
Giặc như kiến cỏ chúng quay ra hàng
Đức vua ngự giá hồi loan
Đổi tên Bình Lỗ cho làng Vệ Linh
Khao quân mở tiệc linh đình
Tạ từ Thánh Sóc hiển linh giúp vầy
Dựng đền, tạc tượng vào đây
Truyền sai dân chúng tháng ngày khói hương.
Nhớ xưa liệt sĩ bốn người
Ở trong ban lính đóng nơi La Thành
Đôi phen trận mạc tập tành
Thấy người xe ngựa, tủi mình non sông
- Nay tôi có chước lập công
Ở trong tôi đã ám thông với bồi
Chờ khi nó trúng độc rồi
Thẳng lên kho súng giết người lính canh
Lấy được súng, kéo vào thành
Ba tòa chiếm thủ, chi binh ba đường
Đất bằng nổi tiếng sấm vang
Ông Đề xuống lấy Bắc Giang tỉnh thành
Tuyên Quang, Thái, Lạng, Nghệ, Thanh
Bốn phương hưởng ứng dẹp bình như chơi.
Ông Bình nói chửa hết lời
Hai bên đứng dậy, người người vỗ tay
Tức thì ba đạo chia ngay
Hữu kia Nguyễn Cốc, tả này Đặng Nhân
Ông Bình là chủ trong quân
Ông Nga làm phó ba quân cứ lời
Cùng nhau bộ thự vừa rồi
Mở ra sáp huyết làm lời ước minh
Ngày hai mươi chín bình minh
Nghe nó trúng độc thì mình động ngay
Lạ thay không cánh mà bay
Cơ mưu nó biết, ngày ngày nó trông
Hai mươi chín, bẩy điểm chung
Nó ăn phải độc chưa xong nửa phần
Vô tình phải đứa bất nhân
Đem tin báo với Pháp quân tức thì
Thôi thôi còn có kíp gì
Hùm kia đến lúc xa ki cũng hèn
Pháp doanh nghe động tiếng kèn
Trong thành bốn mặt bổ liền quân vây
Chẳng qua một rủi, một may
Chậm cho mươi phút sự này hẳn xong
Thương thay thất bại anh hùng
Tấm lòng đối với non sông thẹn gì
Gan vàng, dạ đá tri tri
Ông Bình đến chết coi thì như không
Vừa cười vừa nói ung dung
Bên đường trông thấy ai không sụt sùi
Ông Nga vừa bắt đến nơi
Pháp quân dò hỏi mấy lời thủy chung
Rằng: - Anh là kẻ có công
Và ơn Nhà nước cũng không bạc gì
Cớ sao mưu phản làm chi?
Những ai đồng đảng nói thì tha ngay!
Nghe lời nghiến lợi cau mày
Mắng rằng: - Pháp tặc nói hay làm gì
Mấy nghìn vạn ức mày thì nhớ không?
Tao ăn một tháng mười đồng
Cũng là da thịt của trong toàn kỳ
Cơm thừa canh cặn ra chi
Hãy còn khéo nói, kể gì làm ơn
Dựa Nam nhân, giết Nam nhân
Một năm lương thuế toàn kỳ
Mấy nghìn vạn ức mày thì nhớ không?
Tao ăn một tháng mười đồng
Cũng là da thịt của trong toàn kỳ
Cơm thừa canh cặn ra chi
Hãy còn khéo nói, kể gì làm ơn
Dựa Nam nhân, giết Nam nhân
Gọi to một tiếng “Đồng bào!”
Hồn thiêng theo trận gió ào lên mây
Ôi thương thay! Ôi thương thay!
Kể sao cho xiết chết lây những người
Văn minh thật đã lạ đời
Đàn bà giết cả đến người hàng cơm
Thôi thôi trâu béo cỏ rơm
Trăm nghìn phó một mũi gươm là rồi
Khen cho liệt sĩ bốn người
Một lòng vì nước muôn đời tiếng thơm…
(Vè Liệt sĩ 4 người)
Nhác trông lên mái Nhà Thờ
Đồng hồ đã điểm chín giờ chàng ơi
Vì dù chàng có thương tôi
Mình ra Hà Nội chụp đôi cái hình
Khi nao thanh vắng một mình
Nhớ ai tôi lại giở hình ra xem.
Nhắm ai hoa thắm lòng tay
Ngát hương Hữu Tiệp mà say Ngọc Hà.
Hoa thơm dải áo sẻ tà
Thơm thơm lá phiếu của ta của mình.
Nhắn ai ươm ngọn dâu xanh
Tơ vàng Tầm Xá uốn quanh sông Hồng.
Ví dù con bế con bồng
Phiếu tươi nét chữ đẹp lòng cả đôi.
Nhắn ai chèo lái ngược xuôi
Thuyền qua Thái Thủy dừng nơi bến Chèm.
Cắm sào quen lại thêm quen
Hẹn năm ba hẹn: chờ quên phiếu bầu.
Nhắn ai se chỉ bấy lâu
Tây Hồ vấn vít trăm mầu tơ vương.
Có đi chung lối chung đường
Chờ chung lá phiếu mà vương chỉ hồng.
Nhắn ai quê ở bên sông
Phú Viên cau thắm trầu không mấy mùa.
Phiếu bầu buổi sớm hay trưa
Để trầu cau gửi cho vừa lòng ai.
Nhắn lời xin giữ lấy lời
Mừng ngày bầu cử thêm vui xóm làng
Ước gì nắng đỡ hanh vàng
Để ai nghiêng nón qua làng cùng đi…
Chẳng thơm cũng ngát hoa chanh
Chẳng giỏi cũng gái ngoại thành Thủ đô.
Ra tay chẳng phải tay vừa
Làm chiêm chiêm vượt, làm mùa mùa hơn.
Chăn nuôi vừa khéo vừa khôn
Quanh năm gà lợn xuất chuồng quanh năm.
Thao trường cũng gắng cũng chăm
Veo veo đường đạn thằng băng vòng mười.
Việc quân nào chịu thua người
Cũng tay súng thép giữ trời quê hương.
Điện về điện sáng làng thôn
Cũng tay điều khiển máy bơm máy nghiền.
Siêng làm thì học cũng siêng
Người vào lớp bảy, người lên lớp mười.
Mấy kỳ đấu kiếm, thi bơi
Chưa tài mà cũng khối người vỗ tay.
Đêm chèo giọng hát chưa hay
Vẳng qua sông Đuống đã say sông Hồng.
Bốn mùa tươi áo nâu sồng
Việc nhà việc nước gánh gồng đôi vai.
Trai tài gái đã kém ai
Chẳng thơm cũng ngát hoa nhài hoa chanh.
Chẳng giỏi cũng gái ngoại thành
Gái mà như thế, khối anh giật mình!
Văn Lang sạch bóng giặc Ân
Nơi đây Thánh Gióng dừng chân gội đầu
Cổ xưa truyền lại có câu
Vùng quê lấy Sọ làm đầu vẻ vang
Nước trong, trong mát như gương
Cổ giếng ghi tích lưu truyền mai sau
Hằng năm rưới nước gội đầu
Dâng lên Thánh Gióng bấy lâu tôn thờ.
Ba dân mở hội tháng Năm
Mười hai chạ chải, hôm rằm bơi thi
Ba dân đánh trống chỉ huy
Thuyền nào đạt nhất, cờ thì có mao
Cả Thuyết đứng mũi chịu sào
Hai Dương đánh mõ, Trương Giao phất cờ
Lái Hành lái vượt thủy cơ
Dân ta đâu có được cờ mà tranh.
Ba mươi súc miệng ăn chay
Sáng ngày mồng một dựng cây trúc đài
Làm sân khấn vái Phật Trời
Biết đâu có nắng mà phơi quần hồng
Ai ơi, hãy hoãn lấy chồng
Để cho trai gái dốc lòng đi tu.
Chùa này chẳng có Bụt ru
Mà đem chuông khánh treo chùa Hồ Sen
Thấy cô yếm đỏ răng đen
Nam mô Di phật lại quên mất chùa!
Ai mua tấc cảnh thì mua
Thanh la não bạt, thày chùa bán cho
Hộ pháp thì một quan ba
Long thần chín rưỡi, thích ca ba tiền
Còn hai mụ Thiện hai bên
Ai mua bán nốt lấy tiền nộp cheo
Lệ làng thiếu thốn bao nhiêu
Đẵn cây tre cộc cắm nêu sân chùa.
Ba năm mở hội một lần
Tiếng đồn nô nức xa gần đến xem
Hai phố chôn hai dãy đèn
Làm hai cái cổng dưới trên phố Hàm
Làm thêm cái cổng Tam Quan
Làm nhà tám mái bắc ngang sân chùa
Trong chùa tinh tượng mới tô
Làm nhà tám mái bày đồ hàng ngôi
Dân ta mở hội mồng mười
Mười một rước nước thỉnh kinh lên chùa
Rước nước trên sông Bồ Đề
Thỉnh kinh chùa Đá rước về chùa Mơ.
Nghìn thu gặp hội thái bình
Trải xem phong cảnh khắp thành Thăng Long
Phố ngoài bao bọc thành trong
Cửa Nam, Giám, Bắc, Tây, Đông rõ ràng
Ba mươi sáu mặt phố phường
Hàng Giày, Hàng Bạc, Hàng Ngang, Hàng Đào
Người đài các, kẻ thanh tao
Qua hàng thợ Tiện lại vào Hàng Gai
Hàng Thêu, Hàng Trống, Hàng Bài
Hàng Khay trở gót ra chơi Tràng Tiền
Nhác trông chẳng khác động tiên
Trên đồn cờ kéo dưới thuyền buồm giăng
Phong quang lịch sự đâu bằng
Dập dìu võng lọng, tưng bừng ngựa xe
Hàng Vôi sang phố Hàng Bè
Qua tòa Thương Chính trở về Đồng Xuân
Trải qua Hàng Giấy dần dần
Cung đàn nhịp phách nên xuân bốn mùa
Cầu Đông vang tiếng chợ Chùa
Trăng soi giá nến, gió lùa khói hương
Mặt ngoài có phố Hàng Đường
Hàng Mây, Hàng Mã, Hàng Buồm, Hàng Chum
Tiếng Ngô, tiếng Nhắng um um
Lên lầu xem điếm tổ tôm đánh bài
Khoan khoan chân trở gót hài
Qua Hàng Thuốc Bắc sang chơi hàng Đồng
Biết bao của báu lạ lùng
Kìa đồ bát bửu, nọ lồng ấp hương
Hàng Bừa, Hàng Cuốc ngổn ngang
Trở về Hàng Cót dạo sang Hàng Gà
Bát ngô, Hàng Sắt xem qua
Hàng Vải, Hàng Thiếc lại ra Hàng Hòm
ở đâu nghe tiếng om om?
Trống chầu rạp hát thòm thòm vui thay
Hàng Da, Hàng Nón ai bày
Bên kia Hàng Điếu, bên này Hàng Bông
Ngã tư Cấm Chỉ đứng trông
Qua Hàng Thợ Nhuộm thẳng rong Hàng Tàn
Đoái xem phong cảnh bàn hoàn
Bút hoa dở viết chép bàn mấy câu.
Trải qua một cuộc bể dâu
Nào người đế bá, công hầu là ai?
Ngồi trên bờ dốc buông câu
Trách ai xui giục con cá sầu không ăn
Cá không ăn câu anh vác cần về
Để ống lại đây
Đêm khuya thanh vắng hồ Tây
Anh thả mồi bận nữa, con cá này cũng ăn.
Quê Hương,Đất Nước,Tự Túc,Dùng Hàng Nội,Phố Phường, Buôn Bán,
Bắc Kỳ vui nhất Hà Thành
Phố phường sầm uất văn minh rợp trời
Thanh tao lịch sự đủ mùi
Cao lâu rạp hát vui chơi đủ đầy
Đâu đâu nam bắc đông tây
Thăng Long thắng địa, xưa nay tiếng đồn
Cũ thời băm sau phố phường
Ngày nay mở rộng tới hàng vài trăm
Người đi, xe chạy ầm ầm
Đua chen thương mại bội phần hơn xưa
Nhất vui là cảnh Bờ Hồ
Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Bồ Hàng Ngang (*)
Mã Mây, Phố Mới, Hàng Vàng
Đồng Xuân, Hàng Giấy, Hàng Buồm vui thay
Bán buôn tấp nập đêm ngày
Ô-tô đi lại như bay ngoài đường
Đua chen trong chốn thị trường
Hiệu buôn chú Khách, cửa hàng người Nam
Bày ra đủ các thứ hàng
Hàng Tây, hàng Nhật với hàng Trung Hoa
Lại hàng nội hóa đủ là
Ngày nay xuất cảng kể đà hơn xưa
Ấy là kể những phố to
Còn như Hàng Quạt, Hàng Lờ, Hàng Da
Cửa Nam, Hàng Lọng, Phố Ga
Hà Trung, Ngõ Trạm, Hàng Gà, Cửa Đông
Hàng Cân, Hàng Cót, Hàng Đồng
Hàng Mụn, Hàng Bát, Hàng Bông, Hàng Bài
Hàng Cau, Hàng Bột, Hàng Khoai
Hàng Nâu, Hàng Trứng, Hàng Gai, Hàng Hành
Hàng Tre, Hàng Sũ, Hàng Mành
Phúc Châu, Cầu Gỗ, Bắc Ninh, Hàng Hòm
Mới đà kể hết phố con
Của người bản xứ bán buôn ngày rày
Còn như đường lớn, phố Tây
Tràng Tiền, Đồng Khánh, Hàng Khay, Nhà Thờ
Nhất vui là hiệu Gô-đa
Ra vào nhộn nhịp ai mà chẳng hay
Tràng Tiền có rạp hát Tây
Bên kia Đồn Thủy, bên này nhà Đoan
Vườn hoa con cóc trông sang
Là dinh Thống sứ nhìn càng xót xa
Tượng Tây đứng giữa vườn hoa
Bên này Đốc Lý trông ra Bờ Hồ
Kể xem phố xá bây giờ
Phồn hoa đệ nhất kinh đô Bắc Kỳ
Văn minh đèn điện sáng lòe
Thông thương kỹ nghệ mọi bề chấn hưng
Chỉ cánh áo ngắn khốn cùng
Làm lụng suốt tháng vẫn không đủ dùng
Bữa cơm, bữa cháo nhạt nhùng
Thôi đành nheo nhóc bọc đùm lấy nhau.
Bàn Cờ, Trảm Tướng, Cao Tung
Mũi Cày, Đụn Rạ, trùng trùng non cao
Sóc Sơn là ngọn núi nào
Có ông Thánh Gióng bay vào trời xanh
Sông Cà Lồ phía Nam quanh
Uốn quanh trăm khúc như tình đôi ta.
Tản Viên núi ấy kiêu thay
Tầng trên tầng dưới thắt ngay cỏ bồng
Họa núi tôi lại họa sông
Vì chàng em phải long đong thế này
Họa nhà quan sở lầu tây
Em sang Hà Nội họa ngay Cột Cờ
Họa nhà máy Nước, máy Tơ
Xin chàng hãy cứ đợi chờ chàng ơi
Vườn Bách thú em đã họa rồi
Em xuống dưới biển, họa đôi cá vàng.
Nghĩ cảnh sống làng ta mà chán
Nợ bề bề, ruộng bán không trôi
Năm nay Tết đến nơi rồi
Chủ Hàng Bồ sắp cho người về thăm
Người năm chục kẻ một trăm
Bấm tay nợ phải đến dăm ba nghìn…
Ái Quốc,Lịch Sử,Chống Ngoại Xâm,Chính Trị, Hành Chính, Hành Chánh
Nghĩ xem cái nước Nam mình
Tây sang bảo hộ tài tình đến đâu?
Nghĩ xem tiền của ở đâu
Đưa ra mà bắc được cầu qua sông
Chả hay tiền của của chung
Đưa ra mà bắc qua sông Bồ Đề
Bắc cho thiện hạ đi về
Những cột dây thép khác gì nhện chăng
Tưởng rằng anh Pháp nghĩa nhân
Chả hay lấy của dân Nam làm giàu
Tưởng rằng bảo hộ cho nhau
Chả hay đánh mắng ra màn coi khinh
Cũng giang sơn cũng triều đình
Thế mà nước mất dân tình lầm than
Lo sưu, lo thuế đã cam
Nay kinh, mai lính, gian nan mịt mù
Dân thì phải thợ, phải thu
Tỉnh thành đặt chốn lao tù cấm ngăn
Một năm biết mấy lần liền
Nay thuế quốc trái, mai thu quốc phòng
Những quân vui thú nức lòng
Đua nhau ăn bẩn như muông khác gì…
Nước khô rồi nước lại hồi
Còn trời, còn đất, còn nòi giống ta.
Tìm em cho đến La Thành
Hỏi thăm các phố để anh tìm dần
Lên tàu từ ở Thanh Xuân
Tìm hết Tư Sở lại gần Cầu Ô
Tìm em cho đến Bờ Hồ
Hàng Trống, Hàng Bồ anh cũng tìm qua
Lại tìm cho đến nhà ga
Đến đây mới biết rằng là Cửa Nam
Vườn hoa có tượng mẹ đầm
Thấy quân lính tập lấy làm vui thay
Tìm em đã hết mười ngày
Hỏi thăm không thấy em rày nơi nao
Thuê xe vào phố Hàng Đào
Hàng Ngang, Hàng Bạc lại vào Mã Mây
Lên thuyền anh xuống Hồ Tây
Ngẫm xem phong cảnh nước mây rườm tà
Lên tàu lại xuống Gô-đa
Thẳng đường anh xuống Hàng Gà, Bạch Mai
Thuê xe vào phố Hàng Gai
Hàng Bông, Hàng Bạc cũng chẳng ai biết mình
Thực là đôi ngả Sâm Thương
Ước ao thấy khách tỏ tường tới đây
Những là mong nhớ đêm ngày
Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần
Mong cho hoa nở mùa xuân
Để cho khóm trúc mọc gần trỗ lan.
Ơn chàng đã có lòng vì
Ngỏ lời phương tiện muốn bề tóc tơ
Nhân khi em ở lại nhà
Làm nghề canh cửi sớm khuya chuyên cần
Vốn riêng được một vài trăm
Đem đi buôn bán Đồng Xuân chợ này
Buôn hàng vải lụa bấy nay
Nhờ trời vốn lãi độ ngày ba trăm.
Phủ Hoài Đức có làng Tây Mỗ
Đất phì nhiêu dân số cũng đông
Tám trăm tám tám đàn ông
Sáu trăm tám sáu mẫu đồng tốt tươi
Kiểu danh thắng lắm nơi đáng kể
Trước sóng đào sau kế ao sen
Bồ Đề, Cống Hạnh, Cầu Tiên
Đình trên lưng cá nằm nghiêng giữa làng.
Đồng cao thấy miên man gò đống
Làng tròn xoe, đất rộng của nhiều
Bán buôn thịnh nhất nghề thêu
Học hành ai cũng có điều đáng khen.
Tài trai đâu đáng tài trai
Tổ tôm xóc đĩa dông dài cả đêm
Canh trước tướng hãy còn tiền
Canh sau thua hết, ngồi bên lọ hồ
Cái ngoảnh đi, đưa tay thò
Cái ngoảnh lại, giả đò chén say
Còn tiền đánh cái cũng hay
Hết tiền đi ngủ, cũng hay giật mình
Tưởng sự tình, bạc nầy hai sấp
Chẳng ai ngờ, nó lại sấp ba
Bây giờ tướng nghĩ chẳng ra
Áo đem bán hết, trở ra mình trần
Về giữa sân, vạch quần ra bắt rận
Ở trong nhà, vợ giận chẳng cơm
Bực mình, tướng chúi ổ rơm,
Chẳng dám hạch nước, hạch cơm, hạch trầu
Vợ thương chồng ra mầu rét mướt
Đem tiền đi để chuộc áo về
Từ nay tướng mới xin thề
Còn đi đánh bạc, chẳng về chi đây
Quan tướng là quan tướng dai
Tổ tôm xóc đĩa dông dài cả đêm
Canh trước còn khi êm êm
Canh sau thua thiệt ngồi bên lọ hồ
Cái ngoảnh đi thò tay móc lọ
Cái ngoảnh lại chuyện trò tỉnh say
Được thời đàn hát cũng hay
Thua thời đi ngủ lại hay giật mình
(Vè Tổ Tôm, Xóc Đĩa)
Cầu sắt mà bắc ngang sông
Chàng ơi sang tỉnh mà trông chẳng lầm
Hà Nội bắc sang Gia Lâm
Tính cây lô mét độ năm cây tròn
Họa hình Tây bắc ống nhòm
Ngắm đi ngắm lại xem còn cong không
Giở về hội nghị cộng đồng
Đến năm Mậu Tuất khởi công bắc cầu
Mộ phu khắp cả đâu đâu
Xây từ Ái Mộ bắt đầu xây ra
Bắc qua con sông Nhị Hà
Chia khoang làm nhịp, mười ba cột vừa
Lập mưu xây được bây giờ
Chế ra cái chụp để mà bơm lên
Bơm hết nước đến bùn đen
Người chết như rạ vẫn phải len mình vào
Vỡ bơm nước lại chảy vào
Chết thì mặc chết ai nào biết không
Mỗi giờ thuê có một đồng
Xi măng với đá, dây dòng xuống xây
Đóng phà, đóng cột, cắm cây
Xây trên buông xuống thành ngay chân cầu
Bây giờ đục sắt bắc cầu
Cột ngang, cột dọc, đường tàu song song
Bắc từ Dốc Gạch bắc sang
Chính giữa đường sắt làm đường tàu đi
Đôi bên nhịp sắt chữ chi
Bên đi, bên lại chớ hề gặp nhau
Còn hai bên cạnh rìa cầu
Sắt chằng hoa thị đi cầu không kinh
Hai vì đèn máy sáng tinh
Ai đi đến đấy có xinh chăng là
Kẻ đi người lại hằng hà
Mưu kia nào kiệt tính đà cũng thông
Bề khoát tàu chạy bên trong
Khoát vừa ba thước đủ dùng không hơn
Đường ô tô chạy rập rờn
Cũng khoát thước rưỡi đường trơn phẳng lì
Còn đường của An Nam đi
Khoát hơn nửa thước vậy thì tính sao
Bây giờ kể đến bề cao
Cao hơn mười thước ai nào biết không
Làm xong Tây tính tiền công
Lập mưu, lập kế trả công chẳng rành
Chế ra giấy bạc dâu xanh
Trừ tiền giấy bút hết toanh dăm đồng
Tiền công chẳng đáng tiền công
Kẻ còn, người mất mà lòng xót thay!
Hội cầu năm ấy vui vầy
Nhớ ngày hăm mốt tháng hai, công hoàn.
(Vè cầu Doumer)
Đường ra Kẻ Chợ xem voi
Kìa bãi tập trận nhà chòi bắn cung
Bắn con ngựa hồng báo tiền báo hậu
Các quan võ thần mặc áo nậu thắt lưng xanh
Khẩu súng vác vai chân anh quỳ đạp
Anh đánh trận này, anh đuổi trận này giả nợ nhà vua.
Bõ công dãi nắng dầm mưa.
Đường ra Kẻ Chợ xem voi (2)
Voi thì chẳng thấy thấy ngôi nhà lầu
Thấy cô chúa tầu bán gương cùng lược
Mặc áo màu chàm bán thuốc nhân sâm
Cái áo tứ thân là năm gấu tách
Anh gửi thư về nửa trách nửa mong
Trách người làm mối không xong.
Yêu nhau nên phải ra đi
Đi sao tìm thấy cố tri mới đành
Tìm anh tất cả thị thành
Tưởng rằng anh ở Hàng Mành không xa
Chữ tình ta lại gặp ta
Hàng Mành chẳng thấy tìm ra Hàng Hòm
Phố thời bán những mâm son
Duyên kia sao chẳng vuông tròn cùng nhau.
Dạo xem phong cảnh Long Thành
Đủ mùi phường phố, đủ vành núi sông
Nhị Hà quanh bắc sang đông
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này
Nùng Sơn, Long Đỗ đâu đây
Tam Sơn núi đất cao tầy Khán Sơn
Ngọc Sơn nhân tạo bé hơn
Bên hồ Hoàn Kiếm ngay đền Văn Xương
Trúc Bạch, Mã Cảnh nên tường
Xa hồ Bảy Mẫu giáp đường gần nhau
Ngoài đường quai có hồ sâu
Tây Hồ rộng rãi ngay đầu phía tây
Xung quanh bao bọc kín thay
Đất cao thành lũy, cửa xây nên tường
Mười lăm ô đúng đường đường
Yên Ninh, Yên Phụ, Thụy Chương một bề
Tiên Trung, Nghĩa Lập gần kề
Thanh Hà, Ưu Nghĩa dưới là Đông An
Cựu Lâu, Mỹ Lộc, Lương Yên
Thịnh An, Thanh Bảo, Kim Liên, Thịnh Hào
Sở tại là những huyện nào
Thọ Xương, Vĩnh Thuận, phủ Hoài thống kiêm
Thọ tám tổng, Vĩnh có năm
Đồng Xuân, Đông Thọ, Phúc Lâm, mé ngoài
Vĩnh Xương, Thuận Mỹ, An Hòa
Thanh Nhàn tổng cuối giáp tòa Kim Liên
Yên Thành huyện Vĩnh ở bên
Thượng, Trung, Nội, Hạ ngoài miền ô môn
Yên Thành gồm mấy phường thôn
Khán Xuân, Thanh Bảo, Yên Viên gần thành
Trúc An, Lạc Chính, Yên Thành
Yên Trạch, Yên Định, Yên Ninh các làng
An Quang, An Thuận, Châu An
Phúc Lâm giáp giới đi sang tổng này
Ven sông một dải đất dài
Phúc Lâm, Nghĩa Dũng đến vài thôn Nguyên
Trừng Thanh thượng, hạ trung liền
Ngũ Hầu, Sài Thúc, Hạ tên Kiếm Hồ
Hương Nghĩa, Mỹ Lộc, Vọng Hà
Tây Long, Hữu Thị giáp là Bảo Linh
Thanh An, Bến Cổ, Trừng Thanh
Trang Lâu, Cơ Xá, đất dành phù sa
Thanh Nhàn liên tiếp không xa
Tổng này tám xóm, một là Lương Yên
Lãng Yên, Cẩm Hội, Hương Viên
Hàm Khánh, Vọng Đức, Tràng Tiền thẳng trông
Thanh Nhàn với xóm Lạc Trung
Kim Liên bên cạnh, tổng trong xóm ngoài
Mười lăm thôn trại rộng dài
Quỳnh lôi, Trung Tự, Bạch Mai, Cầu Giền
Phúc Lâm, Đông Tác, Kim Liên
Vân Hồ, Yên Nhất, Thịnh Yên, Giáo Phường
Hòa Mã, Phục Cổ cùng đường
Vũ Thạch, Hồi Mỹ hỏi đường Đông Tân
Quá lên mười một thôn dân
Hạ Hào đến tổng dần dần cửa tây
Xã Đàn, Trung Phụng cả đây
Nối Thổ Quan nữa một dây vòng tròn
An Hòa nguồn nước sông con
Văn Hương, Thanh Miến giữa nom Hồ Đình
Văn Tân, Lương Sử, thôn Minh
Giám thôn bên hữu, cống sinh đi về
Vĩnh Xương nay đất Tràng Thi
Mười lăm thôn kế trước thì Vĩnh Xương
Linh Quang, An Tập, Thuyền Quang
Bích Lưu, Linh Đổng, Liên Đàng, Nam Ngư
An Trung, Thượng, Hạ dân cư
Bắc Thượng, Bắc Hạ vốn như một phường.
Tiên Mỹ, Phụ Khánh gần trường
Đông Mỹ, Mỹ Đức lại đường bên trên
Tổng Thuận Mỹ ở ngay liền
Hăm hai thôn với phường bên cho rành
Chớ nhầm An Nội Đông Thành.
Cổ Vũ An Nội phận đành đôi nơi
Phường Đồng Lạc, phường Đại Lời
Cách xa thôn chợ Tân Khai mới dừng
Đông Môn, Nhân Nội phỏng chừng
Hội Vũ, Bảo Khánh, Chân Cầm bên kia
Phúc Tô, Kim Cổ đó kìa
Báo Thiên, Tự Tháp tới vừa chợ Tiên
An Thái, Thuận Mỹ, Xuân Yên
Tô Tịch, Khánh Thụy cách bên Đông Hà
Phường thôn Đông Thọ mười ba
Cựu Lâu, Hương Dính, Thanh Hà mé sông
Nam Phố, Ưu Nghĩa cùng thông
Gia Ngư, Nhiễm Thượng, An Trung độ chừng
Đông An, Dũng Thọ, Duyên Hưng
Còn thôn Ngư Võng sau lưng phường Hà
Đến đây rồi lại rẽ ra
Qua Hương Bài đến tổng là Đồng Xuân
Đoài Môn, An Phú gần gần
Sang sông Tô ấy là phần Cổ Lương
Thanh Hà thôn, Đông Hà phường
Tiền Trung, Nghĩa Lập về đường bờ sông
Huyền Thiên, Đồng Thuận bên trong
Vĩnh Trù liền với Phương Trung, Phủ Từ
Thôn phường mười bốn hết chưa
Vĩnh Hanh phường nữa còn chừa Đồng Xuân
Ngoài ô những tổng vân vân
Sáu phường Trung Tổng, Bái Ân, Trích Sài
Thụy Chương, Hồ Khẩu dọc dài
Võng Thị, Yên Thái vừa đầy tổng Trung
Tổng Hạ có phường Nhược Công
Thịnh Hào với trại Nam Đồng thứ ba
Khương Thượng, Yên Lãng nữa mà
Thịnh Quang trại ấy kể đà sáu dân
Tổng Nội chín trại chớ nhầm
Liễu Giai, Giảng Vũ tiếp gần Đại An
Thủ Lệ, Cỗng Vị là năm
Hữu Tiệp, Vạn Bảo, Cống An, Ngọc Hà
Bẩy phường, tổng Thượng nào xa
Nghi Tàm, Yên Phụ, Nhị Hà neo lên
Nhật Tên, Quảng Bá ở trên
Thạch Khối, Giai Cảnh cùng bên Tây Hồ
Long Thành thật xứng cố đô
Kim âu chẳng mẻ, cơ đồ bền lâu.
Mấy ông quan huyện Thanh Trì
Khéo khôn: mỡ lấy, xương bì ông không
Lỗ lãi ông đắn sâu nông
Được lời ông lấy, lỗ không thèm nhìn
Kiện cáo vài lạng làm tin
Của cải ông vét ông tìm ở đâu…