Bao giờ lở núi Tản Viên
Cạn sông Tô Lịch cho quên nghĩa nàng
Thung dung từ thuở thanh nhàn
Mực nghiên giấy bút ta bàn khúc nhôi
Phen này anh quyết lấy nàng thôi
Em tránh đằng trời chẳng khỏi tay anh.
Nói ra mang tiếng dỗ dành
Mặc ý nàng liệu, mặc tình nàng lo
Yêu nhau nên phải dặn dò.
Em là con gái Kẻ Mơ
Em đi bán rượu tình cờ gặp anh
Rượu ngon chẳng quản be sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
Rượu lạt uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm hết hay hóa nhàm.(*)
Em là con gái Kẻ Ngâu
Em đi buôn chỉ dãi dầu sớm hôm
Cái khăn vuông thâm nửa đội, nửa cầm
Khăn đội rơi mất, khăn thân lập lờ
Anh ơi nhặt giúp em nhờ
Công anh nhặt giúp bao giờ cho quên
Anh quên, em chẳng cho quên
Anh nhớ, em nhớ mới nên vợ chồng.
Bất kỳ sớm tối chiều trưa
Mưa khắp Hà Nội mưa ra Hải Phòng
Hạt mưa vừa mát vừa trong
Mưa xuống sông Hồng, mưa khắp mọi nơi
Hạt mưa chính ở trên trời
Mưa xuống Hà Nội là nơi cõi trần
Giêng hai lác đác mưa xuân
Hây hẩy mưa bụi, dần dần mưa sa
Hạt mưa vào giếng Ngọc Hà
Hạt thì vào nhị bông hoa mới trồi
Tháng năm, tháng sáu mưa mòi
Bước sang tháng bẩy sụt sùi mưa Ngâu
Thương thay cho vợ chồng Ngâu
Mỗi năm chỉ gặp mặt nhau một lần
Tháng tám mưa khắp xa gần
Bước sang tháng chín đúng tuần mưa rươi
Tháng mười mưa ít đi rồi
Nắng hanh trời biếc cho tươi má hồng
Một, chạp là tiết mùa đông
Mưa phùn đêm vắng trong lòng lạnh thay
Bài mưa anh đã họa đầy
Mối tình dào dạt đêm chày như mưa.
Ngồi vui kể chuyện quê nhà
Rau tươi quả ngọt đồng ta ngoại thành
Làng Đăm cải biếc màu xanh
Làng Hàn cà bát trĩu cành sum sê
Rau thơm đất Láng quen nghề
Hành tươi Mai Động, Yên Khê đầy đồng
Bắp cải Phù Dực sớm trồng
Yên Mỹ nổi tiếng cà hồng xưa nay
Yên Viên có món măng tây
Lại thêm cải tiếu ngọt thay hỡi mình!
Nhất cay là giống ớt Đình
Nhất thơm là mướp làng Quỳnh, làng Mai
Su hào Quảng Bá hơn ai
Hoa lơ Phú Diễn chen vai trắng ngà
Cải canh mát bãi Duyên Hà
Đông Dư cải nén mặn mà hương quê
Nhật Tân cải trắng ven đê
Muốn thăm cải củ thì về Lĩnh Nam
Tỏi tây, xà lách Xã Đàn
Đạu trạch, đậu vàng, đậu đũa Vĩnh Tuy
Muống non xơ mới Thanh Trì
Rau cần làng Sét xanh rì bờ sông
Bí xanh, bí đỏ đầy đồng
Cổ Loa, Tầm Xá, Nam Hồng chứ đâu
Khoai tây mời tới làng Ngâu
Thôn Quang dưa chuột giữ mầu quê hương.
Vùng rau đã kể tỏ tường
Bây giờ đất quả đưa đường vào thăm
Cam Canh, bưởi Cáo, vải Bằng
Tiếng đồn xưa vẫn còn vang quê nhà,
Chuối Giang Biên, chuối Trung Hà
Sông Hồng, sông Đuống phù sa đắp bồi
Cổ Loa mít chín thơm trời
Thành tiên lại có trám bùi trên cây
Song mai Đông Mỹ quý thay
Rừng dừa Hải Bối khen tay người trồng.
Thôn Văn ngọt nước nhãn lồng
Trưa hè Hoàng Liệt, Bắc Hồng xem dưa
Bưởi đường Vạn Phúc tìm mua
Vườn chanh Trung Phụng hoa đua trắng cành
Tây Hồ quất đỏ trời xanh
Mễ Trì chín mọng cam sành làm duyên
Xuân Đỉnh tốt giống hồng xiêm
Dâu tây ở Dịch Vọng Tiền mình ơi
Nghi Tàm lắm táo, nhiều roi
ổi ngon Quảng Bá, Quỳnh Lôi mời vào
Trung Hà đã quý chanh đào
Lại sai đu đủ ngọt ngào quê ta
Mấy vần chắp nhặt nôm na
Hoa thơm quả ngọt ai mà chẳng yêu.
Mình về ươm hạt cho nhiều
Chiết cành gây giống, sớm chiều ta sang
Trồng cây cho rợp đường làng
Xe rau chạy giữa hai hàng cây xanh
Rau tươi, quả ngọt ngoại thành
Bốn mùa xanh bãi, đỏ cành quê hương.
Gia Lâm có đất Cổ Bi
Muôn đời cảnh đẹp còn ghi rành rành
Chín mươi chín núi chung quanh
Ở giữa hồ tả, bên thành hồ sen
Cửa tả, cửa hữu, cửa tiền
Ngũ Hồ, Tam Đảo ở trên Trầu Quỳ
Cầu Lòn đường cái quan đi
Hậu miếu, hậu phủ còn ghi rõ truyền
Này điện Cần Chánh, Kính Thiên
Voi đá, sấu đá hai bên sân rồng
Lại thêm hổ đá ngự phòng
Đủ nền dinh thự khắp trong nội thành
Tương truyền đây đất đế kinh
Bao nhiêu cảnh đẹp lừng danh trong ngoài.
Giáo gươm cờ quạt tưng bừng
Nhác trông uy vũ tưởng chừng năm xưa
Anh hùng trí dũng có thừa
Sử vàng bia đá bây giờ là đây
Non xanh nước biếc sánh tày
Danh thơm Phù Đổng xưa nay tiếng truyền.
Xưa kia mộc mạc mao từ
Nay thời ngói lợp chu vi trang hoàng
Xưa kia tre trúc tầm thường
Nay thời tứ thiết vững vàng biết bao
Bát Tràng có mái đình cong.
Bực mình lên tận thiên cung (2)
Bắt ông nguyệt lão hỏi thăm vài lời
Nỡ lòng trêu ghẹo chi tôi
Lênh đênh bèo nổi mây trôi một thì
Biết người biết mặt nhau chi
Để đêm em tưởng ngày thì em mơ
Bắc Ninh cho đến Phủ Từ
Qua cầu sông Nhị ngẩn ngơ tìm người
Tìm người chẳng biết mấy nơi
Tìm ba mươi sáu phố thấy người ở đây.
Cô kia đội nón đi đâu (2)
Có về An Phú làm dâu thì về
An Phú có ruộng tứ bề
Có ao tắm mát có nghề kẹo nha
Làm nha bán lẻ, bán buôn
Bán khắp Hà Nội bán sang Hải Phòng
Bán cho chú khách cửa Đông
Làm ra kẹo lạc, kẹo hồng, kẹo tây.
Nhật trình từ Ráy đến ô
Bây giờ ta kể duyên do các làng
Tứ Kỷ đó rõ ràng
Trông lên lại thấy một làng Pháp Vân
Trông xa rồi lại trông gần
Đại Từ trước mặt, sau lưng Linh Đường
Vang lừng chợ Sét một bên
Qua cầu lại thấy bên trên có chùa
Kẻ đi người lại như đua
Kẻ đi ghé nón, người vô cúi đầu
Nhác trông làng Tám càng màu
Thiên thanh con lục, địa đầu Tam Giang.
Đêm qua mưa bụi gió bay
Gió rung cành trúc, gió lay cành bàng
Em với anh cùng tổng khác làng
Nào em có biết ngõ chàng là đâu
Một thương, hai nhớ, ba sầu
Cơm ăn chẳng được ăn trầu ngậm hơi
Thương chàng lắm lắm chàng ơi
Biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than
Muốn than mà chẳng gặp chàng
Kìa như đá đổ bên ngàn Hồ Tây
Đá đổ còn có khi đầy
Thương chàng biết thủa nào khuây hỡi chàng.
Làng Mọc mở hội tháng hai
Rước hôm mười một, mười hai rõ ràng
Nhất vui mở hội năm làng
Để cho thiên hạ phố phường vào xem.
Nào là hương án, long đình
Phường bồng, phường trống rập rình theo sau…
Tàn vàng quạt vá sánh bầy
Đuôi nheo phấp phới, cờ bay hằng hà.
Làng Mui thì bán củi đồng
Nam Dư mía mật giầu lòng ăn chơi
Thanh Trì buôn bán mọi nơi
Đồng Nhân, Thúy ái là nơi chăn tằm
Làng Mơ thì bán rượu tăm
Sở Lờ cua ốc quanh năm đủ đời.
Làng tôi công nghệ đâu bằng
Là làng Triều Khúc ở gần Thanh Xuân
Quai thao tết khéo vô ngần
Là nghề của Vũ sứ thần dạy cho
Tóc rối, lông vịt, mã cò
Bán ra ngoại quốc cũng to mối lời
Khăn san kiểu lối tân thời
Tua cờ nhà đạo, nhà binh
Bán ra Hà Nội, Huế, Vinh, Sài Gòn
Chân chỉ hạt bột y môn
Chỉ tơ, chỉ gốc, lại còn chỉ thêu
Dây đàn, dây rút thật nhiều
Chỉ quả chữ thọ có điều tinh thông
Khéo thay những dải kim tòng
Được bằng thưởng nhất Hà Đông bảo tàng
Phu-la, tơ lụa, đăng ten,
Tiêu thụ các xứ bán buôn thật nhiều
Buồng chơi dùng đệm lông cừu
Hỏi thăm Triều Khúc có nhiều tài hoa
Thắng đai ngựa, chổi lông gà
Thắt lưng, khăn mặt người ta thường dùng
Len đan mũ trẻ ít công
“Tích-cô” dệt máy dùng trong mùa hè
Hoa bằng lông vịt mới kỳ
Giỏ đựng ấm tích bằng tre khéo làm
Nghề kẹo mạ, thợ kim hoàn
Nghề nào cũng giỏi khôn ngoan ai tày
Quai túi dết, sợi giày tây
Vẽ tranh sơn thủy dùng bày phòng chơi
Hơn ba mươi nghệ tân thời
Sĩ, nông, công, cổ mọi người đều hay
Nghề nào cũng khéo chân tay
Nhất thân vinh hiển buổi này cạnh tranh
Đơ thao Triều Khúc rành rành
Tiếng khen công nghệ nổi danh Bắc Kỳ.
Rau Lĩnh Nam nấu suông mà ngọt
Bưng bát cơm đơm một muốn hai
Trưa nay vừa bức vừa oi
Hái nhanh cho kịp gửi nơi trận tiền
Cà muối xổi, rau dền, cải trắng
Tuy đơn sơ nhưng thắm tình dân
Sớm chiều em tưới em chăm
Cho rau mượt lá, anh ăn mát lòng
Anh giữ súng phòng không vững chắc
Em trồng rau xanh ngắt trên đồng
Rau tiếp luống, đạn lên nòng
Giặc nào thoát khỏi trong vòng tay ta.
Sông Tô mấy khúc uốn vào
Ấy là có lắm anh hào ở trong
Sông Tô một dải lượn vòng
Ấy nơi liệt nữ anh hùng giáng sinh
Sông Hồng một khúc uốn quanh
Văn nhân tài tử lừng danh trong ngoài.
Trên trời có sông Ngân Hà
Tỉnh Nam sông cái, Bắc là sông sâu
Bắc Ninh lại có sông Cầu
Anh còn tơ tưởng sông Dâu, sông Đào
Anh còn tơ tưởng sông Thao
Qua sông Hà Nội anh vào Kinh đô
Đại Đồng lại có sông Hồ
Bước qua sông Đuống thờ ơ với tình
Sông Thương chơi đã thập thành
Bước qua sông Cái bẻ cành phù dung.
Trời mưa róc rách bãi cây
Cá rô rạch ngược cá ngày lên hương
Đừng thấy chúng bạn coi thường
Dân đất Hàn Lạc chẳng phường ăn chơi
Thông manh đứng lại mà coi
Kìa như châu chấu đá voi gãy ngà.
Trăm năm nơi đất phù sa
Lấy gì mà được vinh hoa bằng người
Bực mình chẳng được ăn chơi
Trăm năm vẫn chịu là người lầm than
Chị đây vốn thực đất Hàn
Quanh năm có được vinh hàn gì đâu.
Thân Phận,Ái Quốc,Lịch Sử,Quan Quyền,Buôn Bán, Chợ Búa
Giời làm sóng lở cát bay
Cho tớ bỏ thày cho mẹ bỏ con
Cửa nhà trôi mất chẳng còn
Vợ chồng cõng bế đàn con lên chùa
Năm nay nạn nước ơn vua
Quan trên phát chẩn ở chùa Tây Phương
Giời làm một trận lỡ đường
Cho nên mới biết Tây Phương thế này
Giời làm sóng lở cát bay
Quan trên phát chẩn mỗi ngày hai ca
Đàn ông cho chí đàn bà
Rạng ngày hăm tám đi ra mà về
Quan Tuần, quan án ngồi nghĩ cũng ghê
Thuê ngay hai chiếc thuyền về đình chung
Giàu cùng, khó lại chẳng cùng
Ai ơi còn cậy anh hùng làm chi
Sinh ra nước lụt làm gì
Giàu thì bán ruộng, khó thì bán con
Nghèo thì bán cả nồi cấn lẫn lon đựng cà
Có thì bán cửa bán nhà
Nghèo bán đứa bé lấy ba bẩy hào
Em ngồi em nghĩ xôn xao
Kẻ lên Tứ Mỹ, kẻ vào Sơn Đông
Kỳ này thì vợ bỏ chồng
Chồng lại bỏ vợ kẻ Đông, người Đoài
Người thì buôn sắn, người lại buôn khoai
Người thì buôn mía dông dài quàng xiên
Gạo hơn nhưng chẳng có tiền
Cho nên phải xách tổ tiên đi cầm
Nghèo thì bán bát, bán mâm
Giàu thì đi cố, đi cầm ruộng nương
Có thì bán sập, bán giường
Đói quá bán cả giá hương, long bài
Nhà giàu tích lúa lên hai
Để cho nhà khó đến nài chẳng cho
Ruộng cạn, má úa có nhờ nhau không!
Giời làm một cạm thâm đông
Gặp cơn gió bấc sạch không làu bàu
Ai ngờ ngã bỡn mà đau
Tháng mười nước lại ở đâu mới về.
Làng Đam bán mắm tôm xanh
Làng Họa đan dó, làng Tranh quay guồng
Đông Phù cắp thúng đi buôn
Đông Trạch bán thịt, làng Om văn thừng
Tương Trúc thì giỏi buôn sừng
Tự Khoát đan thúng, Vẹt từng làm quan.
Chim khôn đậu ngọn thầu dầu
Nó kêu năm tiếng em sầu năm nơi
Chàng về ngắt ngọn mồng tơi
Bắc cầu sông Cái, thiếp thời nên chăng?
Mồng tơi bắc chả nên cầu
Chàng về xẻ gỗ bắc cầu em sang
Chỉ xanh, chỉ đỏ, chỉ vàng
Một trăm thứ chỉ bắc ngang đầu cầu
Nào em đã có chồng đâu
Mà chàng đón trước rào sau làm gì.
Tình Yêu Trai Gái, Nghi Vấn, Phố Phường, Di Tích, Thắng Cảnh,
Bực mình lên tận thiên cung
Bắt ông Nguyệt lão hỏi thăm vài lời
Nỡ lòng trêu ghẹo chi tôi
Lênh đênh bèo nổi mây trôi một thì
Biết người biết mặt nhau chi
Để đêm em tưởng ngày thì em mơ
Bắc Ninh cho đến Phủ Từ
Qua cầu sông Nhị ngẩn ngơ tìm người
Tìm người chẳng biết mấy nơi
Tìm ba mươi sáu phố thấy người ở đây.
Tìm em cho đến La Thành
Hỏi thăm các phố để anh tìm dần
Lên tàu từ ở Thanh Xuân
Tìm hết Tư Sở lại gần Cầu Ô
Tìm em cho đến Bờ Hồ
Hàng Trống, Hàng Bồ anh cũng tìm qua
Lại tìm cho đến nhà ga
Đến đây mới biết rằng là Cửa Nam
Vườn hoa có tượng me đầm
Thấy quân lính tập lấy làm vui thay
Tìm em đã hết mười ngày
Hỏi thăm không thấy em rày nơi nao
Thuê xe vào phố Hàng Đào
Hàng Ngang, Hàng Bạc lại vào Mã Mây
Lên thuyền anh xuống Hồ Tây
Ngẫm xem phong cảnh nước mây rườm rà
Lên tàu lại xuống Gô-đa
Thẳng đường anh xuống Hàng Gà, Bạch Mai
Thuê xe vào phố Hàng Gai
Hàng Bông, Hàng Bạc chẳng ai biết mình
Thực là đôi ngả Sâm Thương
Ước ao thấy khách tỏ tường tới đây
Những là mong nhớ đêm ngày
Xuân thu đã biết đổi thay mấy lần
Mong cho hoa nở mùa xuân
Để cho khóm trúc mọc gần chõ lan