Hán Việt,Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Chính Trị,
Vâng lời troàn ngươn soái
Mình đeo ấn Tổng nhung
Lời khuyên rao chư sĩ anh hùng
Mặt phải trái coi qua thời biết
Mình là con trong đất Việt
Chẳng phải người sanh sản cõi Tây phiên
Mà ham di địch tước quyền
Lại nỡ khiến tấm lòng vô hậu
Chớ bắt chước những loài quân dậu
A dua hùa lưng lớn thờ chồn
Đừng bày theo những đảng ác côn
Ngưỡng mặt dọc mượn hơi lũ cáo
Người Nam bang hữu đạo
Chúa minh quân ơn đức đã trôi dầm
Hai mươi năm trường trị cửu yên
Dành dụm nghiệp Nam triều ba mươi tỉnh
Ngưỡng xem đức hoá ra ơn Thuấn
Đã lâm nhuần thiên hạ gội nhơn Nghiêu
Rưới khắp cả muôn dân
Bắc Nam cúi mặt xưng thần
Tứ hải cúi đầu cống lễ
Thưởng trăm họ ghe lòng lớn bé
Vua ta đều tha thuế
Cám muôn dân ruộng khô hư phế
Canh điền vua cũng tha phô
Ba năm dư thẩm xét tù đồ
Lai miễn tử xá sanh nhơn chánh
Ấy ví tề thương hải
Còn những người thất thập tuần dư
Ngoài thời yến diên ban, trong lụa vải cũng ban
Còn những người cô độc, với những kẻ bần hàn
Xuất phủ huyện chẩn bần, chẩn tế
Còn năm hung dịch tễ
Vua ta cũng ban ân
Phát tiền tuất thân mai táng
Ớ các làng xã ơi
Bay ngưỡng mặt theo Tây cho đáng
Nỡ lòng nào phản nghịch cho yên tâm?
Mả Nguỵ Khôi sao hỡi còn lầm?
Bài trung nghĩa, miễu công thần, sao bây không tưởng?
Trên đầu có hai bên hai vác
Làm việc chi trời đất cũng hay
Ngửa xem thần còn ở trên vai
Để biên chép người trong dương thế
Tội nào trọng bằng tội phản quân phế đế
Hình nào to bằng hình đứa gian thần
Tiếc của tiền sao chẳng tiếc thân?
Thân danh trọng, của tiền mấy trọng?
Vua thời dụng thánh đời, người dụng hiền
Dụng là dụng những kẻ tài trí kinh quyền
Dùng những kẻ trung quân ái quốc
Làm tôi con phải đền ngọn rau, tấc đất
Thời mới xong cái nợ tang bồng
Sao bình thời múa mặt xưng hùng
Cơn bác loạn kinh tâm tán loạn?
Ớ các quan viên ơi!
Lũ nào mến, lũ ta xin đừng mến
Bọn nào kinh, bọn mình hỡi chớ kinh
Nguyền gắng sức đền ơn cho quân thượng
Trời đã sanh có binh thời có tướng
Binh tướng phải hết lòng
Trời đã sanh có chúa lại có tôi
Niềm tôi chúa sao cho hết dạ
Khéo chỉ chọ cho mã tà khuấy khoả!
Mưu thày lay ai mượn phá luỹ bờ?
Phận làm tôi chẳng trọn một thờ
Không thương hại lại đam thói bạc!
Miệng niệm liến Quan Âm Bồ Tát
Lòng u ơ tưởng chúa Du De
A men, bát nhã khéo xô bồ
Thập ác, tràng phạn xui lộn lạo!
Nhà nghèo mới biết con rằng thảo
Nước rằng nguy, tôi chúa dạ biết ngay
Nên hư có một hội nầy
Sống thác cho tường mới tận
Hễ phận làm nam tử
Phải trả nợ quân ân
Hễ phận làm con dân
Phải đền ơn thuỷ thổ
Kìa là tông, nọ là tổ
Tông tổ ở đất nào?
Kìa là mẹ, nọ là cha
Cha mẹ đẻ, sao không đánh liệt?
Ớ bọn phản nghịch ơi!
Mình là con trong đất Việt
Chẳng phải người sanh sản giống Tây di
Nó là chi, nó dám tới đây?
Ta là chi, mà làm thinh ngồi vậy?
Ở đâu mà không thấy?
Loài mọi nó bất nhơn!
Tổng Định Thành chùa miễu phá tan hoang
Đồng tập trận mả mổ đào sạch quét!
Sao bây không biết xét?
Khiến dạ vô tình!
Chẳng thương tấm tượng sàng linh
Nở bỏ vùa hương trước án!
Nghĩ giận cho đáng
Hay ghét bỏ cho ưng!
Người ở đời lấy giặc làm hưng
Gầm đầu thú lấy Tây làm mạnh
Khá tua tu tỉnh
Cải ác tùng trung
Rất đỗi man di còn có một lòng
Huống chi ta là người trung quốc mà không gan ruột?
Đồn Bà Quẹo phản hồi chưa bên cuộc
Cũng vì quan, cũng vì quân không dạ cần vương
Lũy Mĩ Quý hoài đao thương
Cũng vì tướng, cũng vì binh không lòng nghĩa khí!
Chữ quân thần là đạo nghĩa
Phận làm nam tử phải trả nợ cho quân vương
Thà là nguyền ra giữa chốn chiến trường
Nhứt là nó, nhứt là ta
Đồng đánh liệt cho Tây di biết mặt!
Gẫm âu thế tình thậm ngặt
Vịnh râu dê làm mặt tài khôn
Tiếc cơm nước vua nuôi các gã
Mồ tổ phụ, cuộc táng chôn
Cho dài cửu họ, cho lớn tông môn
Đặng dương dương theo loài bất nghĩa
Tiếc cơm nước vua nuôi các ngươi
Thân cho dài, hình cho lớn, vóc cho cao
Theo loài Tây giặc, lấn Nam trào
Tám mươi kiếp, những loài vô hậu
Chữ “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”
Câu “Châu nhi phục thể, thiên địa tuần hường”
Bình rồi đây ơn cũng thấy ơn
Trị rồi đây oán thời thấy oán!
Mặt đứa gian thần xem cho hãn
Danh người trung nghĩa thấy cũng tường
Nguyện ngàn năm để tiếng “Cần Vương”
Thề muôn thuở chẳng nhơ danh đất Việt.
(Vè Cần vương)
Thơ Thầy Thông Chánh
Nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra
Thơ thầy Thông Chánh
Nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra
Chép làm một bổn để mà coi chơi
Trà Vinh nhiều kẻ kỳ tời
Có thầy Thông Chánh thiệt người khôn ngoan
Đêm nằm khô héo lá gan
Nghĩ giận Biện lý không an tấm lòng
Chừng nào tỏ nỗi đục trong
Giết tên Biện lý trong lòng mới thanh
Lang sa làm việc Châu thành
Mười bốn tháng bảy lễ rày Chánh Chung
Chỉ sai đua ngựa rần rần
Trát đòi làng tổng tư bề đến đây
Bốn giờ đua ngựa cát bay
Phủ Hơn, Biện lý đương rày ngồi coi
Có thầy Thông Chánh hẳn hòi
Xách súng nai nịt đi coi châu thành
Phủ Hơn lời mới hỏi rằng
– Do này thầy Chánh đi rình bắn ai
Thầy thông thưa lại cùng ngài
– Tôi bắn Biện lý chớ ai bao giờ
Thầy thông thiệt lẹ như cờ
Bắn quan Biện lý suối vàng mạng vong
Các quan, đua ngựa rần rần
Tưởng đâu trận giặc không hay sự gì
Thầy thông làm việc ngoan ngùy
Bắn rồi trở súng bắn mình, để chi
“Dù ta có sống một khi
Tây cũng hình phạt sống thì nhơ danh”
Phủ Hơn thấy vậy thất thanh
Bắt tay thầy Chánh giựt rày súng đi
Thuốc đạn nạp sẵn một khi
Tức mình súng nổ đạn ria giáp vòng
Trúng nhằm ông Chánh Vĩnh Long
Trúng ngay bắp vế điệu về nhà thương
Các quan thiên hạ chạy tuôn
Đua nhau mà chạy ra đường ngẩn ngơ
Trúng nhằm ông Đốc Cần Thơ
Bây giờ lại trúng Chánh tòa Bạc Liêu
Người Tây bị bệnh cũng nhiều
Cảm thương thầy Chánh chín chiều sầu bi
Khen cho cây súng dị kỳ
An Nam không trúng trúng nhằm người Tây
Các hàng phủ huyện đông vầy
“- Do nào nó oán người Tây chuyện gì?
Trong trại kèn thổi vang vầy
Nhà việc hồi trống vang vầy thôn hương
Vui thay như hội Tầm Dương
Cháo bồi, chè đậu đổ đường sạch trơn
Nước chanh, nước đá chi sờn
Nem bì gỏi rượu sạch trơn chẳng còn
Đi coi lạc vợ mất con
Cũng vì thông Chánh phá rày tiệc chơi
Ngoài thời hàng xén kêu trời
Mất vàng mất chuỗi đếm đàng no nê
Bài cào, bông vụ, số đề
Thùng xà giựt hết chẳng còn bạc xu
Đề lao cai đội canh tù
Việc này lộn xộn nó lưu chẳng còn
Mấy thầy trở lại lầu son
Cảm thương thầy Chánh hao mòn lá gan
Vợ con thầy Chánh đoạn trường
Bây giờ phụ tử hai đường xa nhau
Thầy Thông phát mắng một khi
– Phụ nhơn nan hóa biết gì mà lo
Tội tao dù có của kho
Chuộc làm sao đặng khá lo làm gì
Phủ Bình dời gót chân lui
Tây đem thầy Chánh một hồi khảo tra
– Sao mày dám bắn Lang sa
Mày bắn Biện lý thiệt mày to gan
Thầy thông nổi giận chửi ngang
– Chết tao tao chịu hỏi mà sao ra
Chúa sanh tao đứng người ta
Quân bây ăn cướp con nhà nước Nam
Tao là quân tử chẳng tham
Thông Chánh cắn lưỡi còn chi hỏi hoài
Quan thầy vốn thiệt cao tài
Đổ thuốc vào rượu giao cho Ký Hòa
Bảo thầy Thông Chánh kia là
Uống vào một chén vậy mà giải khuây
Thầy thông không biết không hay
Vị lòng thầy Ký uống vào rụng răng
Thuốc chi hay đã quá chừng
Thầy thông mắc kế rụng răng cả rồi
Ký Hòa xem thấy hỡi ôi
– Nào tôi có rõ khúc nôi sự tình
Tôi đâu nỡ hại trưởng huynh
Xin thầy xét lại sự tình cho tôi
Thầy thông nghe nói ngùi ngùi
– Việc này cũng bởi Tây thời hại ta
Rạng ngày đến bữa thứ ba
Điệu thầy Thông Chánh đi ra Sài Gòn
Cảm thương cùng vợ cùng con
Xin thầy sống thác chẳng còn kể chi
Vợ con lưỡng mục lâm ly
Đi đưa thầy Chánh xót xa đoạn trường
Thông Hồ, Ký Hớn, Ký Hòa
Mấy thầy ở lại lệ sa dầm dề
Ngày nay phân biệt phu thê
Bỗng đâu tàu tới súp lê thổi liền
– “Ngày nay áo lại rẽ bâu
Vợ con bây chớ đau sầu hư thân
Nhan Hồi sự cũng ba mươi
Phải chi Bành Tổ sống đời trăm năm
Thầy thông gan mật nát dầm
Mấy thầy than khóc ướt đầm gối loan
Tàu ra Giồng Tượng, Bãi Xang
Thầy thông nói gạt vậy mà bằng nay
– Chúng bây nghe thửa lời này
Mở còng một chút thầy ra bô tàu
Thầy thông gan dạ như bào
Giả đò đi tiểu té nhào xuống sông
Mình này mắc phải tay còng
Móc sắc nó móc kéo lên bô tàu
Thầy thông ruột thắt gan bào
Liều mình chẳng đặng làm sao bây giờ
Mã tà lớn nhỏ sợ thay
Phải thầy chìm mất bị đày Côn Nôn
Mã tà sợ đã hết hồn
Một lần thầy tiểu biết khôn tới già
Thứ này đến thứ cô Ba
Mới mười bảy tuổi lấy mà chồng Tây
Nghe cha mắc phải nạn này
Cúi đầu xin phép vậy thì quan ba
– Cho tôi đi tới giữa Tòa
Đặng mà tôi thấy mặt cha tôi rày
Quan ba lụy nhỏ chau mày
– Phụ thân tội trọng xin rày đặng đâu
Cô Ba từ giã ngọc lầu
Tay cầm súng sáu miệng hầu kêu xe
Mình mẩy võ nghệ ai dè
Đứng kề lại đó lắng nghe sự tình
Mau chân bước tới châu thành
Tai nghe quan soái xử mà làm sao
Nếu mà xử hiếp cha rày
Ta bắn Ngươn soái phát nay mới đành
Cha ta dù thác bỏ mình
Cũng trong đạo Chúa cầu xin thiên đường
Sống chi ở tại nhơn gian
Phân ly phụ tử hai đàng cách xa
Đem thầy Thông Chánh đến Tòa
Đặng mà Ngươn soái xử tra công đồng
– Làm sao mày quá anh hùng
Dám bắn Biện lý thiệt mày to gan
Thầy thông nổi giận chửi ngang
– Mày còn hỏi nữa còng va lên đầu
Ngươn soái nghe nói lắc đầu
– Thiệt dòng Thông Chánh hỗn hào lắm thay
Nó không kiêng nể đến ai
Giữa Tòa Ngươn soái nó còn dọc ngang
Cô Ba cầm súng nhảy vào
– Hỏi thằng Ngươn soái nhiếc rày dòng ai
Cha ta sanh tử chẳng nài
Chớ phải cha kiếp một loài như bây
Cao nguyên đất rộng trời đầy
Chết thì ta chịu mình này cũng ưng
Ngươn soái bèn mới tỏ phân
– Mã tà bắt nó để mà làm sao
Mã tà phú lích áp vào
Cô Ba bèn đá té nhào sảy tay
-Ta không thù oán chi bây
Để ta đánh với người Tây mới tài
Phủ Hơn nghe lọt vào tai
– Xin cháu bớt giận chớ đừng hung hăng
Khá khen lời bác nói rằng
Nhứt nhơn địch vạn thế thường đặng đâu
Phủ Hơn rình lại nắm đầu
Phủ Bình giựt súng nắm đầu cô Ba
Cả kêu phú lích mã tà
– Đem còng nó lại bỏ ngoài đề lao
Cô Ba lời mới nói vào
– Bác ơi hại cháu làm sao cho đành
Thiệt tôi sợ lỗi trời sanh
Cảm thương thân phụ về thành đế đô
Thầy thông gan héo ruột khô
Bây giờ phụ tử lộ đồ xa nhau
Đem thầy Thông Chánh xuống tàu
Chở ra ngoài Huế nạp rày vua ta
Thánh hoàng ngồi ngự chương tòa
Hỏi thầy Thông Chánh sao mà bắn Tây
Thầy thông đặt gối tâu quỳ
– Muôn ơn thiên tử dân di tỏ tường
Trước sau thần hạ tỏ phân
Cái thằng Biện lý ve rày vợ tôi
Thì thôi tôi cũng bỏ trôi
Vợ chồng tôi mới đổi về Chợ Trong
Sài Gòn làm việc mới xong
Biện lý trở lại nó hòng ve con
Làm cho tôi bỏ Sài Gòn
Quả đồ lục súc vợ con ve đùa
Thôi thôi tôi cũng nhịn thua
Vợ chồng tôi mới trở về Nam Vang
Làm cho tán bại gia cang
Biện lý xin phép Nam Vang đổi về
Làm cho rời rã phu thê
Vợ chồng tôi mới đổi về Trà Vinh
Đặng gần bằng hữu đệ huynh
Biện lý xin phép Trà Vinh đổi về
Từ tôi tạo lập gia tề
Mới đặt thợ mộc làm nhà cho tôi
Làm rồi thì đã khuôn viên
Còn một cái cửa thợ không chịu làm
Thiệt tôi giận nó căm gan
Mắng nhiếc thợ mộc đâm đơn kiện vào
Biện lý xử thất một khi
Bênh vực thợ mộc bỏ tôi ngày rày
Tôi ra làm việc cho Tây
Làm việc nhà nước, ai mà cũng thương
Ngày nay phân nỗi tỏ tường
Không nghe, chống án lên rày Tòa trên
Năm nay thời vận không hên
Ngươn soái y án một lời như ghi
Nên tôi những luống sầu bi
Xin vua đừng xử để mà mặc tôi
Đức vua nghe nói thêm thương
Thiệt thầy Thông Chánh là người trung cang
– Bây giờ để trẫm liệu toan
Xin dùm thầy Chánh vậy mà kẻo oan
– Cúi đầu tâu vọng thánh hoàng
Xin vua an nghỉ nghị ngơi chương tòa
Việc này là việc Lang sa
Giết tha mặc nó vua xin làm gì
Làm vua chánh trị trào nghi
Đi chiều lòng nó vậy mà thất danh
Thương thầy Thông Chánh hùng anh
Ngày sau hậu thế lưu danh muôn đời
Đem thầy Thông Chánh về Tây
Cho mẹ Biện lý xử mà làm sao
Mụ đầm nổi giận lôi đình
– Thông Chánh dám giết con tao bỏ mình
Thông Chánh nổi giận lôi đình
– Mẹ nào con nấy một dòng chẳng sai
Con mụ vốn thiệt quá tay
Ta đâu theo đó nói sai bao giờ
Tử sanh như máy thiên cơ
Không biết mụ giận vậy là làm sao
Đem thầy Thông Chánh xuống tàu
Trở về công sở mau mau xử hình
Tàu về mới tới Trà Vinh
Vợ con bằng hữu đệ huynh đều mừng
Thầy thông nước mắt rưng rưng
“Trở về chịu chết mà mừng làm chi”
Quan trên mới phán một khi
Mười bảy tháng sáu xử hình thầy thông
Truyền ra lục tỉnh giáp vòng
Đi coi Thông Chánh đứng nên anh hùng
Càng Long, Ất Ếch, Trà Vinh
Ba Xuyên, Rạch Giá, cũng đi đùng đùng
Bắc Trang, Trà Cú, Gò Công
Sài Gòn, Tân Lạc, cả ngàn muôn dân
Thiên hạ đông đảo quá đông
Bến Tre cũng đến, Mỏ Cày cũng sang
Người ta ăn uống muôn ngàn
Bây giờ thầy Chánh hội này trả ơn
Phủ Hơn lời mới tỏ bày
– Nghe đâu lính tới tịch biên gia tài
Bà Phủ lời mới chỉ bày
– Vàng vòng tom góp lại thì một ô
Chạy ra rồi lại chạy vô
Tới chùa mà gởi cho thày lục Nghiêm
Gởi rồi trở lại gia đường
Phút đâu lính tới nó biên gia tài…
Nhớ đời thứ sáu Hùng Vương
Ân sai hăm tám tướng cường ngũ nhung
Xâm cương cậy thế khỏe hùng
Kéo sang đóng chặt một vùng Vũ Ninh
Trời cho thánh tướng giáng sinh
Giáng về Phù Đổng ẩn hình ai hay
Mới lên ba tuổi thơ ngây
Thấy vua cầu tướng ngày rày ra quân
Gọi sứ phán bảo ân cần
Gươm vàng, ngựa sắt đề quân tức thì
Thánh vương khi ấy ra uy
Nửa ngày sấm sét, tứ bề giặc tan
Áo thiêng gửi lại Linh san
Thoắt đà thoát nợ trần hoàn lên tiên
Miếu đền còn dấu cố viên
Sử xanh, bia đá tiếng truyền tự xưa (Vè Thánh Gióng)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè bài tới
Cơm chưa kịp bới
Trầu chưa kịp têm
Đi đánh một đêm
Thua ba tiền rưỡi
Chồng đánh chồng chửi
Giả đò đau máu
Ăn sáu bát cơm
Chồng đơm không lập
Ăn cặp bồ câu,
Ăn đầu cá nhám
Ăn đám khoai lang
Ăn ba thúng đậu
Ăn chậu sương sa
Ăn đường Đồng Nai
Ăn ba trăm bưởi
Ăn bảy trăm dừa
Chồng đã biểu chừa
Còn đòi ăn nữa
Ăn lòi tấm ruột
Ăn tuột về nhà
(Vè bài tới)
Nghe vẻ nghe ve,
Nghe vè bài tới
Cơm chưa lập xới
Trầu chửa kịp têm
Tao đánh ba đêm
Thua ba tiền rưỡi
Về nhà chống chửi:
Thằng Móc, thằng Quăn,
Đánh sao không ăn
Mà thua lắm bấy?
Tui lấy tiền cấy
Cho đủ mươi ngày
Bảy Thưa, Bảy Dày
Cùng là Ngạt kéo
Chị em khéo léo,
Dễ mượn dễ vay
Thân tui ngày rày
Dầm mưa dãi nắng
Chị em có mắng
Tôi cũng ngồi đây
Nó là tuồng dày
Nó cũng a dua
Ăn thì tôi vùa
Thua thì tôi chịu
(Vè bài tới)
Đánh thẻ hay đánh chuyền : (Bài 2)
Bài ca (vè) đánh thẻ:
Que mốt (nhặt 1 que)
Que mai (nhặt tiếp 1 que và nắm lại trong tay cho đến hết bàn)
Cái cò
Nỏ năng
Con khăng
Hòn chắt
Nhấm nha
Nhấm nhắt
Quạ bắt
Sang bàn đôi (rải lại ra chân)
Đôi tôi (nhặt 2 que)
Đôi chị
Đôi cái bị
Đôi cành hoa
Đôi sang ba
Rải bàn ba (rải que lại ra chân)
Ba quả cà
Ba quả táo
Ba lá gáo
Một sang tư
Rải bàn tư (rải lại que)
Tư củ từ
Tư củ cải
Hai sang năm
Rải bàn năm (rải lại que)
Năm còn năm
Năm sang sáu
Rải bàn sáu (rải lại que)
Sáu củ ấu
Bốn sang bảy
Rải bàn bảy (rải lại que)
Bảy lìa ba
Ba sang tám
Rải bàn tám (rải lại que)
Tám hai lìa
Hai sang chín
Rải bàn chín (rải lại que)
Chín lìa một
Một sang mười
Ngả năm mươi (đặt xuống 5 que)
Mười vơ cả (lại nhặt lên)
Ngả xuống đất (đặt cả 10 que xuống)
Cất lên tay (nhặt cả lên)
Xoay ống nhổ (quay cả cụm que)
Đổ tay chuyền
Chuyền chuyền một (xoay một vòng que trên hai tay)
Một đôi
Chuyền chuyền hai
Hai đôi
Chuyền chuyền ba
Ba đôi
Chuyền chuyền bốn
Bốn đôi
Chuyền chuyền năm
Năm đôi
Đầu quạ (Bắt đầu thả từng que xuống chân)
Quá giang
Sang sông
Về đò
Cò nhảy
Gãy cây
Mây leo
Bèo trôi
Ổi xanh
Hành bóc
Trứng đỏ lòng (quơ 2 que lên một lần)
Tôm cong đít vịt
Vào làng xin thịt
Ra làng xin xôi
Anh chị em ơi, cho tôi vét bàn thiên hạ.
Cách chơi: Cần hai hoặc vài người. Bó đũa gồm 10 đũa hoặc 10 que tre vót tròn, nhỏ bằng que kem, dài 20cm và một hòn cái (hòn cuội tròn hoặc trái banh Tennis).
Người chơi ngồi duỗi một chân, rải bó đũa dọc theo ống chân, vừa đọc một câu, vừa
Lẳng lặng mà nghe
Bánh đứng đầu vè
Ðó là bánh tổ
Cái mặt nhiều lỗ
Là bánh tàn ong
Ðể nó không đồng
Ðó là bánh tráng
Ngồi lại đầy ván
Nó là bánh quy
Sai không chịu đi
Ðó là bánh bàng
Trên đỏ dưới vàng
Là bánh da lợn
Mây kéo dờn dợn
Là bánh da trời
Ăn không dám mời
Nó là bánh ít
Băng rừng băng rít
Ðó là bánh men
Thấy mặt là khen
Nó là xôi vị
Nhiều nhân nhiều nhị
Là bánh trung thu
Vô lửa nổi u
Ðó là bánh phồng
Ðem thả giữa dòng
Ðó là bánh neo
Ra nắng dẻo queo
Ðó là bánh sáp
Không ai dám xáp
Ðó là bánh xe,
Xỏ lại tréo que
Ðó là bánh rế
Ăn rồi còn ế
Ðó là bánh dừa
Ăn không có chừa
Ðó là bánh tiêu
Ðể lâu nó thiu
Vốn là bánh ướt
Chưa ăn giấu trước
Nó là bánh cam
Bỏ vô khám giam
Ðó là bánh còng
Ôm ấp vào lòng
Nó là bánh kẹp
Xem coi thật đẹp
Ðó là bánh chưng
Chồng nói mới ưng
Ðó là bánh hỏi
Ðêm nằm mệt mỏi
Ðó là bánh canh
Kéo níu từng khoanh
Ấy là bánh tét
Ráp lại từng nét
Nó là bánh gừng
Bước lên có từng
Ðó là bánh cấp
Nằm ngủ dưới thấp
Là bánh hạ nhân
Mình nó trợt trơn
Ấy là bánh lọt
Ăn thơm mà ngọt
Là bánh hoa viên
Ăn khỏi trả tiền
Ðó là bánh bao
Ðem liệng đàng sau
Là bánh quai vạc
Trắng trong như bạc
Là bánh xu xê
Mặt tràng ê hề
Ðó là bánh bún
Mình đen lốm đốm
Là bánh hạt mè
Thấy ai cũng kè
Ðó là bánh dập
Người thích mặt chắc
Ðó là bánh dày
Nói nghe rất hay
Ðó là bánh mật
Bụng no ấm cật
Ðó là bánh âm
Mình mẩy trắng trong
Là bánh bột lọc
Ai cũng mời mọc
Là cái bánh trôi
Ðứng không thấy vui
Ðó là bánh bò
Nằm cứ co ro
Ðó là bánh cuốn
Cái gì cũng muốn
Nó là bánh đa
Dứt hoài không ra
Nó là bánh dẻo
Nổi trôi khắp nẻo
Ðó là bánh bèo
Giàu mãi không nghèo
Chính là bánh khoái
Ðược người ưu đãi
Là bánh phồng phềnh
Nhẹ mỏng và mềm
Ðó là bánh cốm
Áo quần lốm đốm
Nó là bánh gai
Một giống như hai
Chính là bánh đúc
Tròn cho một cục
Ðó là bánh vo
Ăn hoài không no
Ðó là bánh vẽ
Dùng cho lính trẻ
Là bánh chè lam
Ăn uống tham lam
Ðó là bánh ú
Ði mấy không đủ
Ðó là bánh giò
Từng đoạn quanh co
Ðó là bánh khúc…
(Vè bánh trái (II))
Nhất gạo nhì rau
Tam dầu tứ muối
Thịt thì đuôi đuối
Cá biển mất mùa
Đậu phụ chua chua
Nước chấm nhạt thếch
Mì chính có đếch
Vải sợi chưa về
Săm lốp thiếu ghê
Cái gì cũng thiếu
(Vè thời Bao Cấp)
Vè đánh thẻ
Trồng luống cải
Trải con chắt
Một dẻo dang
Hai sang đò
Ba cò kếu
Bốn nghêu ngao
Năm dao thớt
Sáu thịt muối
Bảy chuối xanh
Tám hành tỏi
Chín gói ghém
Mười chém chân …
Đặt xuống đất
Cất lên tay
Xoay ống nhổ
Đổ tay chuyền
Chuyền chuyền một
Một một đôi
Chuyền chuyề hai
Hai hai đôi…
Chuyền chuyền mười
Mười mười đôi
Đặt xuống chân
Nâng lấy một
Chộp lấy đoi…^
Đặt xuống đây
Xoay lấy một
Chộp lấy mười
Một này một nua…+~
Hai sang ba
Ba này ba nữa
Ba nữa, một sang tư
Tư củ từ
Tư củ khoai
Hai sang năm
Năm lìa năm
Năm sang sáu
Sáu lìa tư
Tư sang bảy
Bảy lìa ba
Ba sang tám
Tám lìa hai
Hai sang chín
Chín lìa một
Một sang mười
Mười vơ cả
Cả xuống đất
Cất lên tay
Xoay ống nhổ
Đổi tay chuyền
(vè đánh thẻ )
Ve vẻ vè ve
Cái vè nói ngược
Non cao đầy nước
Đáy biển đầy cây
Dưới đất lắm mây
Trên trời lắm cỏ
Người thì có mỏ
Chim thì có mồm
Thẳng như lưng tôm
Cong như cán cuốc
Thơm nhất là ruốc
Hôi nhất là hương
Đặc như ống bương
Rỗng như ruột gỗ
Chó thì hay mổ
Gà hay liếm la
Xù xì quả cà
Trơn như quả mít
Meo meo là vịt
Quạc quạc là mèo
Trâu thì hay trèo
Sóc thì lội nước
Rắn thì hay bước
Voi thì hay bò
Ngắn như cổ cò
Dài như cổ vịt
Đỏ như quả quýt
Vàng như quả hồng
Cao tồng ngồng như chim tu hú
Lùn lụ khụ như chim bồ nông
Hay chạy lon ton là gà mới nở
Cái mặt hay đỏ là con gà mào
Hay bơi dưới ao mẹ con nhà vịt
Hay la hay hét là con bồ chao
Hay bay hay nhào mẹ con bói cá
Tiếng con chim ri gọi dì gọi cậu
Tiếng con sáo sậu gọi cậu gọi cô
Tiếng con cồ cồ gọi cô gọi chú
Tiếng con tu hú gọi chú gọi dì
Mau mau tỉnh dậy mà đi ra đồng
(Vè Nói Ngược)
Nghe vẻ nghe ve (3)
Nghe vè nói ngược
Tàu chạy trên bờ
Ngựa đua dưới nước
Gà cồ hay ủi
Heo nái hay bươi
Sáng trăng ba mươi
Đêm rằm trời tối
Nấu cơm bằng cối
Giã gạo bằng nồi
Gói bánh bằng vôi
Ăn trầu bằng bột
Xới đất bằng liềm
Bửa củi bằng kim
May áo bằng búa
Dao bầu gánh lúa
Đòn xóc bửa cau
Cọp tắm dưới bàu
Cá bơi trên lúa
(Vè nói ngược)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè về rau
Xấc láo hỗn hào
Là rau ngành ngạnh
Trong lòng không tránh
Vốn thiệt tâm lang
Đất rộng bò ngang
Là rau muống biển
Quan đòi thầy kiện
Bình bát nấu canh
Ăn hơi tanh tanh
Là rau dấp cá
Không ba có má
Rau má có bờ
Thò tay so đo
Nó là rau nhớt
Ăn cay như ớt
Vốt thiệt rau răm
Sống tới ngàn năm
Là rau vạn thọ
Tay hay xớ rớ
Vốn thiệt rau co
Làng bắt chẳng cho
Chính là rau húng
Lên chùa mà cúng
Lại có hành hương
Giục giã buông cương
Là rau mã đề
(Vè về rau)
Nghe ve nghe vẻ nghe vè trái cây
Dây ở trên mây là trái đậu rồng,
Có vợ có chồng là trái đu đủ,
Chặt ra nhiều mủ là trái mít ướt.
Hình tựa gà xước vốn thiệt trái thơm.
Cái đầu chôm bôm là trái bắp nấu,
Rủ nhau làm xấu trái cà dái dê ,
Ngứa mà gãi mê là trái mắt mèo,
Khoanh tay lo nghèo là trái bần ổi.
Sông sâu chàng lội là trái mảng cầu,
Chẳng thấy nàng dâu thật là trái cách.
Trong ruột ọc ạch vốn thiệt dừa xiêm,
Hễ chín thâm kim; chuối già, chuối sứ.
Tam tung tự tứ là trái dưa gan,
Vốn ở Miền Man là trái bí rợ,
Mẹ sai đi chợ vốn thiệt trái dâu
Ở những ao sâu là trái bông súng
Chằng nên lễ cúng vốn thiệt trái sung.
Nhỏ mà cay lung thiệt là ớt hiểm,
Đánh túc cầu liềm vốn thiệt trái me,
Nắng mà chẳng che là trái rau mát,
Rủ nhau chà xát vốn thiệt trái chanh,
Nhỏ mà làm anh, trái đào lộn hột,
Ăn mà chẳng lột vốn thiệt trái tiêu,
Thổi nghe ú liêu là trái cóc kèn,
Rủ nhau đi rèn là trái đậu rựa,
Đua nhau chọn lựa là trái dành dành,
Cam ngọt, cam sành, chuối già chuối sứ.
Nhưng chi lịch sự bằng táo với hồng
Những gái chưa chồng muốn ăn mua lấy
Vè bán quán
Tui xin mời cô bác
Cùng quý vị gần xa
Đi chơi hay về nhà
Lâu lâu gặp bằng hữu
Tui mời cho đầy đủ
Không sót một người nào
Chủ quán xin mời vào
Dùng cơm hay hủ tiếu
Thịt quay cùng xá xíu
Hễ có tiền là ăn
Thịt chó xào rau cần
Thịt bò thì nhúng giấm
Gà tơ thì nấu nấm
Chim sẻ thì rô ti
Cua lột chiên bột mì
Cá lý ngư làm gỏi
Nem nướng rồi bánh hỏi
Trứng vịt, trứng gà ung
Hẹ bông nấu với lòng
Cá thu thì kho rục …
Thương thay, hỡi các chú ơi
Ăn uống đã rồi thầy kể một văn:
Quý Tỵ giữa ngày mồng năm,
Giờ Dần chính nguyệt ầm ầm huyên hoa
Một chi đánh ở Đống Đa
Cầu Duệ kéo đến tốt xa muôn phần
Phép voi bại trận tiên phong
Cầu nhương sụt cả xuống sông Bồ Đề
Đao binh tử trận đầy khe
Dọc đường gài gác nằm kề ngăn ngăn
Chú sang cứu viện nước Nam
Chẳng may gặp phải suối vàng thương thay
Chú thì thắt cổ trên cây
Chú thì tự vẫn ở ngay trong nhà
Chú thì thác xuống Diêm La
Chú nào còn sống về nhà đại minh
Ai ai là chẳng đeo tình
Di Đà tiếp dẫn chúng sinh cô hồn
Chú nào có vợ có con
Có cha có mẹ hãy còn giỗ chung
Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông
Nam Kinh, Quảng Bắc có lòng sang đây
Trời làm một trận gió lay,
Sống làm tướng mãnh, thác rày thần linh
Phù hộ tín chủ bình an
Cửa nhà phú túc vững bền cao xây
Mạo chiên nón khách móng giầy,
Đuôi sam hảo tố chú rày cần lo
Chú thiêng nao đấy phụng thờ
Kính quan tôn sứ để nhờ hậu lai
Nhớ xưa chú vác lăng bài
Cung đao tay nỏ, đầu cài nón chiên
Tay vòng bạc, cổ đeo tiền
Cờ mao một ngọn xông tên chiến trường
Điền Châu Thái thú đảm đương
Liều mình tử trận chiến trường nên công
Trận vây ở trong Năm Đồng
Rạng ngày mồng sáu cờ dong lai hàng
Còn ông Tổng Đốc ban sang
Quyết liều một trận chiến trường ba quân
Muốn cho được chữ ái ân
Tuyền quyền vai gánh trung cần đế vương
Vua sai bộ sứ tiếp sang
Quan tài phong kín đón đường kéo ra
Con con cháu cháu hằng hà
Mừng lấy được xác Điền Châu đem về
Tướng tài can đảm cũng ghê
Làm đền phụng sự tức thì Đống Đa
Các chú thác xuống Diêm La
Bắc Nam đôi ngả trẻ già cùng thương
Cơm dày áo nặng nhà vương
Bõ công gối đất nằm sương bao đành
Thác ở chiến trận nên danh
Về thời vua giết chẳng lành được đâu
Chú thì thác ở đầu cầu
Chú thì tự vẫn đâm đầu xuống ao
Ai ai trông thấy thương sao
Lập đàn chẩn tế mà kêu cô hồn
Gọi là mảnh áo thoi vàng
Ít nhiều làm của ăn đường sính thiên
Khuông phù tín chủ bình an
Gái trai già trẻ thiên niên thọ trường.
(Vè Thiên triều văn)
Thân tôi coi vịt cực khổ vô hồi
Sáng ra ngồi trông trời mau xế như chúa trông hiền thần
Hai cẳng lần lần như Địch Thanh thắng trận
Quần áo chưa kịp bận như Tào Tháo bị vây
Tay cầm cái cây như Tề Thiên cầm thiết bảng
Vịt chạy qua bờ
Ngăn đón cản như Tiết Nhơn Quý rượt Cáp Tô Văn
Quần bận còn xăn như Uất Trì tắm ngựa
Vịt ăn
Ngồi dựa bóng tùng như Tần Thúc Bảo lúc bệnh đau
Vịt chạy
Đuổi lao xao như La Thông tảo Bắc
Tối về nhà đèn chưa tắt
Như đãi yến công nương
Ngày ra tới đứng ngoài đường,
Chiều về như Phàn Lê Huê nhập trại.
(Vè chăn vịt )
Bài chòi bài tới là ba mươi lá
Dang tay xớn xá là cái gã Ông Ầm
Hay đi sụp hầm, là anh Tứ Cẳng
Một dề trăng trắng, là chị Bạch Huê
Ăn cận nằm kề, là anh Chín Gối
Ba chìm bảy nổi, là chị Sáu Ghe
Lập bạn lập bè, là anh Năm Dụm
Hay đùm hay túm, Tứ Xách đã quen
Quần áo lèng teng, Nhì Nghèo cực khổ
Hay bươi hay mổ, là chị Ba Gà
Có ngạnh có ngà, là anh Tứ Tượng
Phủ màn treo trướng, là chị Tám Dừng
Ướt áo ướt quần, là anh Ngũ Trợt
Rung cây không rớt, Tứ Móc thiệt hay
Con mắt nhắm ngay, Tam Quăng thiệt giỏi …
(Vè bài chòi)
Chợ Lường họp lại vui thay
Đàng đông lúa gạo, đàng tây tru bò
Xã đã khéo lo
Lập lều hai dãy
Hàng sồi hàng vải
Thì kéo lên đình
Hàng xén xung quanh
Hàng thịt hàng lòng ở giữa
Ngong vô trửa chợ
Chộ thị với hồng
Dòm ngang xuống sông
Chộ thuyền với lái
Ngong sang bên phải
Chộ những vịt gà
Hàng nhãn, hàng na
Hàng trầu, hàng mấu
Hàng ngô, hàng đậu
Hàng mít, hàng cà
Hàng bánh, hàng quà
Hàng chi có cả
Rồi nào hàng cá
Hàng bưởi, hàng bòng …
(Vè chợ Lường)
Lía ta nổi tiếng anh hào
Sơn hà một góc thiếu nào người hay
Bạc tiền thừa đủ một hai
Chiêu binh mãi mã càng ngày càng đông
Làm cho bốn biển anh hùng
Mến danh đều tới phục tùng chân tay.
Kẻ nào tàn ác lâu nay
Lía sai cướp của đoạt tài chẳng dung
Nhà giàu mấy tỉnh trong vùng
Thảy đều kinh sợ vô cùng lo toan
Nhất nhì những bực nhà quan
Nghe chàng Lía doạ kinh hoàng như điên
Nhà nào nhiều bạc dư tiền
Mà vô ân đức, Lía bèn đoạt thâu.
Tuy chàng ở chốn non đầu
Nhưng mà lương thực vật nào lại không
Lâu la ngày một tụ đông
Vỡ rừng làm rẫy, vun trồng bắp khoai
Mọi người trên dưới trong ngoài
Thảy đều no đủ sớm trưa an nhàn
Tiếng tăm về đến trào đàng
Làm cho văn võ bàng hoàng chẳng an.
Nam triều chúa ngự ngai vàng
Bá quan chầu chực hai hàng tung hô
Có quan ngự sử bày phô
Tâu lên vua rõ lai do sự tình
Đem việc chàng Lía chiêu binh
Trình lên cặn kẽ phân minh mọi đàng
Nào khi Lía phá xóm làng
Đến khi lên núi dọc ngang thế nào
Kể tên những bậc phú hào
Từng bị quân Lía đoạt thâu gia tài
Vua ngồi nghe rõ một hai,
Đập bàn, vỗ án giận rày thét la:
– Dè đâu có đứa gian tà
Giết người, đoạt của thiệt là khó dung
Truyền cho mười vạn binh hùng
Dưới cờ đại tướng binh nhung lên đàng
Đại quân vâng lệnh Nam hoàng
Hành quân tức khắc thẳng đàng ruổi dong
Gập ghềnh bao quản núi non
Dậy trời sát khí quân bon lên rừng. …
(Vè chàng Lía)
Chồng chung khó lắm ai ơi!
Ai bước chân vô đó,
Không ăn ngồi được mô!
Quyền bán với quyền mua
Thời là em không có,
Đâm gạo với xay ló,
Thời là em đã có phần,
Đập đất với khiêng phân,
Đâm xay, rồi nấu nướng.
…
Gẫm như bọn người ở,
Chỉ sáu tháng thời thôi,
Cái thân em ở đời,
Hỏi làm sao chịu được?
Chồng sai đi múc nước,
Vợ bảo lấy que tăm.
Trải chiếu toan đi nằm,
Đọi dì hai chưa rửa
Có ba bốn thúng lúa,
Chị chồng đầu chân xay.
Cám em bắc lên đây,
Cây rau riu chưa cắt,
Ngọn rau riu chưa xắt.
Em làm công việc vặt,
Vừa đến tối canh ba,
Em vừa ngả mình ra,
Con chim kia vừa kêu,
Con gà rừng vừa gáy.
Chồng đánh em thức dậy,
Biểu nấu cơm đi cày;
Gạo em chưa đâm xay,
Đã soạn gánh gồng cho bà đi chợ.
Một tháng sáu phiên chợ,
Bà cho đi một phiên,
Bà trao cho một tiền,
Bà truyền cho đủ giống,
Mua mười đồng thì trứng,
Lại mua mười đồng trầu,
Mua mười tám đồng cau,
Hai mươi đồng thì mỡ,
Lựa còn một chữ,
Tráo lại hàng vôi
Mua đoạn, bán rồi
Vừa hầu tan buổi chợ
Về đến đầu ngõ,
Con đòi: “Bánh mẹ mô?”
– Được chồng riêng tê tồ
Chồng chung, mẹ nỏ dám mua thứ gì!
(Vè chồng chung)
Ve vẻ vè ve
Nghe vè mụ nhác
Không lo sương nác
Chỉ biết ngồi ăn
Ăn rồi lại ngủ
Ngủ rồi lại ngồi
Nước chảy bòng trôi
Mỗi ngày qua bữa
Luộc rau nhác rửa
Uống nước nhác hâm
Chàm làm chụa lụa
Ngó xuống đôi đũa
Lọ luốc lọ lem
Ngó lại chị em
Xem ra ôốc dôộc
Ngó lại trên trốc
Rận mẹ rận con
Nói không kiêng dè
Chỉ hay sinh sự
Cái mặt chự bự
Như thể cái mâm
Tấm lưng tày thúng
Dân chúng đều hay
Ai ai cũng biết
(Vè mụ nhác)
Vè chữ phu
Chữ phu là dại
Tơ hồng dán lại
Nên điệu vợ chồng
Đụng con gái hung
Lang dâm trắc nết
Mình làm chí chết
Nó duỗi cẳng nó ăn
Sắm áo sắm khăn
Sắm vòng sắm niểng
Mình nói một tiếng
Nó nói lại mười
Mình làm cả đời
Nó tiêu một lát
Nó mê chốn khác
Nó bỏ nó đi
Mình nói nó săn si
Chữ phu là dại
(Vè chữ phu)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè cờ bạc
Đầu hôm xao xác
Bạc tốt như tiên
Đêm khuya hết tiền
Bạc như chim cú.
Cái đầu sù sụ
Con mắt trõm lơ
Hình đi phất phơ
Như con chó đói
Chân đi cà khói
Dạo xóm dạo làng
Quần rách lang thang
Lấy tay mà túm…
(Vè cờ bạc)
Giữa năm Đinh Dậu mới rồi
Sư ông chùa Lãng là người đảm đang
Viết tờ quyên giáo các làng
Lãng Đông, Năng Nhượng chuyển sang Trực Tầm
Chiều hôm còn ở Đồng Xâm
Rạng mai Đắc Chúng, tối tầm Dục Dương
Cùng với nghĩa sĩ bốn phương
Phất cờ thần tướng mở đường thiên binh
Phá dinh công sứ Thái Bình
Sa cơ ông đã bỏ mình vì dân.
(Vè Phá dinh công sứ Thái Bình)
Vo vỏ vò vo
Cây nhỏ cây to
Cây cò đậu
Cây sáo sậu trèo
Cây rắn leo
Cây mèo nhảy
Cây gãy cành
Cây xanh lá
Cây xây rạ
Cây chồng rơm
Cây đơm quả
Cây xả hương
Cây bám tường
Cây cắm đất
Ta ngồi ta nói thật
Cây tre xanh cật
Ruột trắng như bông
Cây mít đỏ lòng
Cây thông nứt vỏ
Cây ngó thân mềm
Cây sên cứng cáp
Cây núc nác da xanh
Cây chanh chua quả
Cây vả cây sung
Là cùng chú bác
Cây năn cây lác
Hay mọc giữa đồng
Cây đậu cây bông
Hay ưa ruộng cạn
Cây khoai lạng vạng
Leo dọc vồng cao
Ăn quả cây nào
Ta rào cây ấy
Quả hồng béo ngậy
Da đỏ hồng hào
Quả cam xanh xao
Múi ăn thì ngọt
Quả bòng quả nhót
Chua lét chua le
Quả đào ngon ghê
Quả na ngon gớm
Quả thị vàng rộm
Thơm lựng cả nhà
Hương ổi bay xa
Gọi người đến hái
Còn cây cỏ dại
Chẳng ai thèm nhìn
Mời bạn ngồi im
Nghe tôi nói thật
Cây lúa là nhất
Ở giữa trần đời
Ta đi dạo khắp trăm nơi
Cây lúa đẹp nhất ở nơi đồng làng
Một cây
Hai cây
Ba cây
Bốn cây
Năm cây
Cây làm vày
Cây làm cột
Cây che dột
Cây làm xà
Cây cúng hoa
Cây đơm trấy
Cây cho gậy
Cây đóng thuyền
Cây đan phên
Cây chắn giậu
Cây đậu leo
Cây khiêng heo
Cây đèo chó
Cây đánh hổ
Cây bắt voi
Cây làm roi
Đi đánh giặc.
(Vè về cây)
Năm nay kinh tế
Không tiền đóng thuế
Lính bắt, lính còng
Vợ con khóc ròng
Mấy ông thiệt tệ
Tháng này thuế vụ không lo
Cơm ăn không no
Tiền đâu mà đóng
(Vè chống thuế)
Da dẻ vàng khè
Là anh chàng thị
Tròn như lợn ỉ
Là quả dưa vàng
Nằm đất lang thang
Là anh dưa chuột
Mồm nói ngọt xớt
Là mấy cô hồng
Xù xì lắm lông
Là anh cu dứa
Da đỏ như lửa
Là thằng ớt cay
Má mịn hây hây
Cô mơ cô mận
Ruột thì đỏ thắm
Là cái ả đào
Hay rụng xuống ao
Thằng sung chua chát
Da vàng trơn mát
Là quýt với cam
Chua rụng răng hàm
Cô chanh cô khế
Xinh tròn be bé
Em táo đầu nhà
Con bảy con ba
Chị dừa mắn đẻ
Hàm răng to khoẻ
Là bác chuối tiêu
Nằm đất mốc meo
Là anh chàng bí
Thon như cái bị
Là chị bầu xanh
Dáng dài thanh thanh
Cô xoài cô mướp
Mình dài gai góc
Cụ mít nhà ta
Đỏ bóng nước da
Cà chua chính cống
Vỏ xanh ong óng
Chính thị bà cau
Nam nám da nâu
Hồng xiêm, mắc cọp
Xù xì bỏng rộp
Mướp đắng eo ôi
Ngọt mát cả môi
Xin chào cô nhãn
Mặt mày đỏ thắm
Cô vải đang chờ
Mắt mở lơ mơ
Thằng na buồn ngủ.
(Vè các loại quả)
Một chén giải cơn sầu
Hai chén còn nhơn đạo
Ba chén còn gượng gạo
Bốn chén nổi sân si
Năm chén sập thần vì
Sáu chén ngồi ghì xuống đó
Bảy chén thì đuổi chẳng đi
Tám chén lóc trộn lộn ra
Chín chén lóc trộn lộn vô
Mười chén ai xô tôi ngã
Mười một chén chửi cha ai xô
(Vè bợm nhậu)
Vè các lái (hát ra)
Tiếng đồn các lái Đồng Nai
Tháng giêng cưa ván, tháng hai đóng thuyền
Tháng ba củi lửa huyên thuyên
Tháng tư dọn thuyền quay lại lộn ra
Sài Gòn, Rạch Giá bao xa
Lần theo tăm cá xa nhà đã lâu
Một trăm ông lái làu làu
Đi qua Giáp Nước, Vũng Tàu phải ghê
Kỳ Vân có bãi lưới rê
Non cao biển thẳm ủ ê tấc lòng
Khúc nôi lụy nhỏ đằm đằm
Xích Ram đã khỏi, Bãi Dầm đã qua
Hồ Tràm, Hồ Đắng de ra
Thân Trong nằm trước, Mũi Bà nằm trong
Cù Mi thượng hạ song song
La Gi nằm khuất phía trong Hòn Bà
Cây Khô, Cửa Cạn đã qua
Trực nhìn Khe Cả nay đà kề bên
Dập dìu ghe lưới bủa chen
Xa trông đã thấy Mũi Đèn ở kia
Đồn rằng Phan Thiết lịch thay
Sớm chiều phiên chợ tối ngày bán buôn
Trên đường xe chạy bon bon
Dưới sông thuyền đậu bán buôn rộn ràng
Phú Hài chừ đã liền sang
Buồm dong ba cánh lòng càng thảnh thơi
Mũi Né ta sẽ buông khơi
Trong thời có xóm ăn chơi bĩ bàng
Anh em nước, củi đàng hoàng
Nước mắt hai hàng lụy nhỏ xót xa
Hòn Nôm, Quảng Thí kia là,
Ngó lên Mũi Nhỏ, trông qua Hòn Nghề
Ngồi buồn cám cảnh ê chề
Hỏi con sống bổ tới quê bao thì?
Con Nghê sao khéo dị kì
Ra nằm nước mặn luận chi thương hàn
Mãi trông vừa thấy một đàng
Đi ngoài Nội, Ngoại, cầm làn gác giăng
Anh em bèn bảo nhau rằng
Trầu cau, nước hết, gác giăng làm gì?
Quạt cào sang kiếm một khi
Chụt Đèn đã khỏi, tới thì Lò Kho
Tai nghe lưới đánh, mành hò
Buông lên một đỗi còn lo xùng xình
Ngó lên Bãi Miễu vắng tanh
Tứ bề quạnh quẽ trong mình xót xa
Có người cố quận kia là
Mai qua Bãi Chụt để mà gặp nhau
Vừa chào, vừa chạy cho mau
Kẻ lo mua bán, người sầu niềm tây
Cầu Đá, Cửa Bé là đây
Bãi Dông đã khỏi ló rày Nha Trang
Trên thời quán xá rộn ràng
Dưới sông thuyền đậu nghinh ngang quá chừng
Gặp nhau mừng rỡ tưng bừng
Rượu trà thết đãi vui chung chào mời
Kẻ thời ăn uống vui chơi
Người thời ve vãn những lời nguyệt hoa
Kẻ thời mua song cùng lá
Người thời mua đệm, mua cau, mua hèo
Kẻ thời mua dây buộc lèo
Người mua sống lá đem theo xỏ tiền
Kẻ mua thuốc bánh, thuốc viên
Người mua thuốc xấp để nguyên đem về
Đôi ta kết nghĩa phu thê
Cùng qua mua bán mà mê tấm tình
Đất Chụt là đất nhàn thanh
Trai chuyên biển giã, gái rành bán buôn
Thôi thôi chớ nói thêm buồn
Kéo neo mà chạy đi luôn kịp thời
Ngó vô Hòn Đất thương ôi
Ngoài thì Hòn Bạc lẻ loi một mình
Vũng Túc, Cầm Bấc cảnh xinh
Muôn Xưởng, Hòn Nọc liên kinh Chà Là
Cây Sung, Mũi Cỏ đã qua
Bến đò Cồn Cạn vang xa tiếng đồn
Hòn Lớn, Hòn Nhỏ chỉn khôn
Cứt Chim, Hòn Đỏ đêm hôm nào lầm
Trông lên một đỗi tăm tăm
Gần nơi Cửa Nhỏ rạng danh Bãi Trường
Trâu Nằm ngoài nước chín phương
Sóng xô, gió tạt mênh mông tứ bề
Xa Cừ cách trở sơn khê
Buông lên một đỗi ngó về Ba Gia
Đồi Mồi chớn chở xê ra
Thông trong Cát Thắm chạy ra Hòn Gầm
Hòn Gầm sóng bổ lao xao
Vát mặt nghinh vào Bãi Võ sóng ngang
Thương con nhớ vợ trăm đàng
Nước mắt hai hàng lệ ứa thấm biên
Sừng sững Đá Chồng mọc lên
Bia tạc để truyền nối đức Hùng Vương
Hướng lên một đỗi dặm trường
Vũng Rô núi tấn bốn phương như nhà
Đầu gành Mũi Nạy xê ra
Bên trên có bãi hiệu là Bãi Môn
Bãi Tiên, Bãi Xép kề bên
Hòn Khô nằm trước ấy miền Trà Nông
Biển bờ lai láng mênh mông
Ngó vô thấy tháp Dinh Ông, Đà Rằng
Chóp Chài, Ma Liên, Mây Nứt chừng ngằn
Hòn Chùa, Hòn Dứa nằm giăng kia là
Hòn Yến, Cát Xối đã qua
Mồ xây mả đắp đồn xa ông Cao Biền
Vốn là người ở Đại Niên
Tìm long điểm huyệt, dựng nên chốn này
Bàn Thang lum lúp lá, cây
Anh em cố nhớ, kẻo rày dễ quên
Hòn Lao nước chảy hai bên
Thông trong Rạn Lẽ, phía trên Vũng Bầu
Ngó vô Cửa Mới thêm rầu
Nay bồi, mai lở cạn sâu vô chừng
Gặp nhau nửa tủi nửa mừng
Xa xa Cát Xối liền chưn Mái Nhà
Gành Đen chớn chở xô ra
Gò Bàng cát sạn ăn qua Bãi Trầu
Sơn Đài xanh ngắt một màu
Hòn Yến cui cút lại hầu ngoài khơi
Mưa sa gió lạnh tợ đồng
Bãi Ngang, Gành Đỏ bạn cùng làng đôi
Buồm dong, mắt ngó biển trời
Ngó ra Lao Xá lẻ loi một mình
Trông về Vũng Lấm rất xinh
Vôi tô, ngói lợp, chen chân phố phường
Đây kia nhà ở hai phương,
Bắc cầu Sông Cạn làm đường vãng lai
Sáng chiều họp chợ xoay vần
Thuyền bè tấp nập, khách thương đủ miền
Trực tình nhớ tới sự riêng
Kéo neo mà chạy nhắm miền quê xưa
Hết Thìn sang Tỵ vừa trưa
Song Giang nước lớn đò đưa Sông Cầu
Quán Chùa nay ở nơi đâu
Vũng Chào, Vũng Sứ lại hầu Vũng La
Gành Tướng, Mũi Móm trông ra
Mò O đã khỏi, sang qua Gành Bà
Ngó về bãi cát Trường Sa
Phong cảnh nơi đó xinh đà quá xinh
Cù Mông, Vũng Trích ăn quanh
Vũng Mú trực chỉ Lao Xanh sáng đèn
Thuận buồn xuôi gió một phen
Ghé vô Cửa Giã trong miền Hòn Mai
Gành Ráng mút tận Bãi Dài
Băng qua Bãi Nhạn vô chơi phố phường
Đi cho thấu chữ Quy Nhơn
Giáp đầm Thị Nại hãy còn sử xanh
Vô chợ ăn bún song thần
Hỏi mua nón ngựa để dành về quê
Thiếu gì hải vị sơn khê
Vào Nam ra Bắc ê chề ngựa xe
Nói ra sợ nẫu cười chê
Có say đất khách mới mê nết người
Nghĩ thôi dạ tợ dầu sôi
Day qua Mũi Mác, San Hô dong buồm
Eo Vượt ló thấy Cỏ, Cân
Vũng Nồm, Vũng Bấc kề gần làng đôi
Ngó vô Cách Thử thương ôi
Trông chồng hóa đá, tích đời con ghi
Vũng Tô, suối Bún là đây
Hòn Khô, Nước Ngọt dựa kề Hòn Lan
Vũng Bầu chếch ở phía Nam
Vi Rồng, Phương Mới giăng ngang kia là
Lố Ông, Mũi Đụn đã qua
Gành Méc đã khỏi, Hà Ra hầu gần
Tiếp theo là xóm Hội Vân
Phong cảnh xoay vần đến mũi Lộ Giao
Vũng Cù sóng bổ lao xao
Nồm thổi ngọt ngào, ghe chạy thưng thưng
An Dũ sâu cạn không chừng
Lời đồn có miếu thổ thần linh ghê
Tam Quan rày đã gần kề
Đất này nổi tiếng Tân Khê nhiều dừa
Nhớ lời thề thốt thuở xưa
Tiếng hát mài dừa lảnh lói thâu đêm
Tai nghe dạ xót niềm riêng
Nhổ neo mà chạy hướng lên Sa Hoàng…
(Vè các lái (hát ra)
U Minh nước đỏ
Choại, dớn, cóc kèn
Ăn ở cho hiền
Dạo chơi với rắn
Bất kỳ sâu cạn
Rắn nước, rắn râu
Bay trên trời cao
Rắn rồng uốn khúc
Chạy ngang chạy dọc
Rắn ngựa phóng theo
Hút gió thật kêu
Là con rắn lục
Mái gầm lục đục
Bò chậm như rùa
Mở xuống bất ngờ
Hổ mây ẩn núp
Coi chừng nó quất
Là con rắn roi
Ra đồng dạo chơi
Là rắn bông súng
Đựng đầy một thúng
Là rắn cạp nia
Ăn rồi ngâm nghe
Hổ hành nấu cháo
Dữ mà nhỏ xíu
Đúng thiệt rắn giun
Chớ nên coi thường
Con rắn ri cóc
Rắn mà muốn học
Làm cậu ông Trời
Có khách hay mời
Là con hổ chuối
Con rắn ri cá
Thấy nước thì ham
Hình vóc hiên ngang
Rắn roi, mỏ rọ
Thật là đáng sợ
Chàm oạp, hổ mang
Xét cho đàng hoàng
Rắn thì có nọc
Đừng châm, đừng chọc
Bỏ mạng lìa đời
Trí khôn con người
Biến loài độc ác
Lấy nọc làm thuốc
Trị bệnh cứu dân
Đau khớp trật gân
Ê mình nhức mỏi
Lại còn một mối
Lấy thịt xé phay
Chiều nhậu lai rai
Bổ ơi là bổ!
(Vè rắn U Minh)
Kể từ quân Pháp sang đây
Hại người cướp của bấy nay đã nhiều
Dân tình đồ thán đủ điều
Căm gan tức chí phải liều ra tay
Anh hùng đã tỏ tài trai
Nữ nhi cũng chẳng kém loài bồng tang
Nhớ xưa phất ngọn cờ vàng
Bà Trưng, Bà Triệu chiến trường xông pha
Cai Vàng lại có bà Ba
Tây Sơn bà Phó cũng là anh thư
Xúm tay xoay lại cơ đồ
Dân yên quốc thịnh phất cờ Việt Nam
Từ ngày quân Pháp kéo sang
Chợ Tràng cô Tám cũng gan anh hùng
Dưới trướng cụ Phan Đình Phùng
Bắt quân lính tập vào tròng trăm tên
Lại như vợ lẽ Đội Quyên
Nam trang cải dạng tìm lên núi rừng
Đúc súng đúc đạn, giúp chồng
Đánh cho quân Pháp hãi hùng đảo điên
Bà Ba Đề Thám truân chuyên
Non sông đã trải mấy phen thác ghềnh
Hồng quần nhẹ bước rừng xanh
Trận tiền giáp chiến đao binh vẫy vùng
Hồng nhan nhẹ bước thong dong
Chính bà cũng dự quân trung luận bàn
Bà Lang Seo mở ngôi hàng
Giả đò hương khói đèn nhang bấy chầy
Hà Nội, Nam Định, Sơn Tây
Nghĩa Hưng đảng ấy nay ngày một to
Chuyện năm Canh Ngọ mới vừa
Việt Nam dân đảng bấy giờ lập ra
Chương trình định liệu gần xa
Trước là dân tộc sau ra đại đồng
Cô Giang cũng bực anh hùng
Dốc tâm thề Đảng một lòng trung trinh
Cùng ai thề chữ tử sinh
Chưa chăn gối cũng vẹn tình sắt son
Chia nhau việc Đảng lo tròn
Tài chính cổ động lại còn giao thông
Thất cơ sự đến khi cùng
Tím gan Yên Bái, đau lòng xiết bao
Thế gian mặc chuyện ra vào
Lòng chung xin nguyện trời cao soi cùng
Chàng theo nước, thiếp theo chồng
Tuồng khi dơ dáng sống cùng hôi tanh
Khen chê phó mặc sử xanh
Treo gương đất nghĩa trời Kinh đời đời.
(Vè cô Giang)
Lẳng lặng mà nghe cái vè giáp tý
Cũng vì thiện ý răn dạy người ta
Biểu đừng kiêu sa vậy mà chịu chết
Kể ra cho hết khắp cả hoàn cầu
Châu Á châu Âu cũng đều chịu khổ.
Đông Dương một chỗ nay đặng bình yên
Cờ bạc huyên thiên ăn chơi đủ việc:
Chỗ thời hát xiếc chỗ hát cải lương
Kẻ coi hát trường người coi làm thuật
Núp nơi vắng khuất xì lác, móc gà
Thín cẩu, công thoa bài cào tứ sắc
Khắp cùng nam bắc đầu đĩ, ca đờn
Sung sướng là hơn, ăn chơi bỏ học.
Mấy thằng cúp tóc mặc áo cẩm châu,
Mấy thằng lái xe trừu cầu ràng đít
Bấy thằng con nít bận áo thật sang
Bấy chú đĩ đàng ngồi xe làm phách.
Ăn chơi đủ cách, tưởng đặng thái bình.
Bão lụt thình lình.Phú Yên, Bình Định,
Khắp cùng tám tỉnh, mưa gió đùng đùng.
Người ta chết hung, Sông Cầu thứ nhứt,
Cù Mông núi nứt, Quảng Nam lở thành,
Nước lớn thình lình, ba ngày không dứt,
Lúa khoai đều mất, giá gạo quá cao,
Lớn nhỏ lao xao, cũng đều chịu đói.
Trời làm tai quái, năm sửu không mưa,
Hạn đã chẳng vừa, thêm sâu sa xuống,
Ăn cùng lúa ruộng, ăn hết bắp bông.
Thập thất cửu không, trời làm quá thắt!
Trời làm quá ngặt, đói hãy còn lâu,
Cầm áo cẩm châu, đem đi mua gạo,
Cầm nồi cầm chảo, bán áo bán khăn,
Bán luôn cả chăn, mua ăn không phỉ,
Mấy con làm đĩ, mặt đói xanh dờn,
Mấy con ca đờn, đói đi không nổi,
Mấy thằng hát bội, chịu bỏ vắng trường,
Mấy chú cải lương, trốn đi đâu mất.
Kẻ thì bán đất, người lại cầm nhà.
Chạy gạo không ra. phải ăn hột cỏ!
Chơi, trời ghét bỏ, để đói nhăn răng!
Phải tính làm ăn, phải lo nghề nghiệp!
Không thời mạt kiếp,khó nỗi sanh tồn!
Khó mà biết khôn, đừng dồn lấy dại!
Lẳng lặng mà nghe cái vè giáp tý
Cũng vì thiện ý răn dạy người ta
Biểu đừng kiêu sa vậy mà chịu chết
Kể ra cho hết khắp cả hoàn cầu
Châu Á châu Âu cũng đều chịu khổ.
Đông Dương một chỗ nay đặng bình yên
Cờ bạc huyên thiên ăn chơi đủ việc:
Chỗ thời hát xiếc chỗ hát cải lương
Kẻ coi hát trường người coi làm thuật
Núp nơi vắng khuất xì lác, móc gà
Thín cẩu, công thoa bài cào tứ sắc
Khắp cùng nam bắc đầu đĩ, ca đờn
Sung sướng là hơn, ăn chơi bỏ học.
Mấy thằng cúp tóc mặc áo cẩm châu,
Mấy thằng lái xe trừu cầu ràng đít
Bấy thằng con nít bận áo thật sang
Bấy chú đĩ đàng ngồi xe làm phách.
Ăn chơi đủ cách, tưởng đặng thái bình.
Bão lụt thình lình.Phú Yên, Bình Định,
Khắp cùng tám tỉnh, mưa gió đùng đùng.
Người ta chết hung, Sông Cầu thứ nhứt,
Cù Mông núi nứt, Quảng Nam lở thành,
Nước lớn thình lình, ba ngày không dứt,
Lúa khoai đều mất, giá gạo quá cao,
Lớn nhỏ lao xao, cũng đều chịu đói.
Trời làm tai quái, năm sửu không mưa,
Hạn đã chẳng vừa, thêm sâu sa xuống,
Ăn cùng lúa ruộng, ăn hết bắp bông.
Thập thất cửu không, trời làm quá thắt!
Trời làm quá ngặt, đói hãy còn lâu,
Cầm áo cẩm châu, đem đi mua gạo,
Cầm nồi cầm chảo, bán áo bán khăn,
Bán luôn cả chăn, mua ăn không phỉ,
Mấy con làm đĩ, mặt đói xanh dờn,
Mấy con ca đờn, đói đi không nổi,
Mấy thằng hát bội, chịu bỏ vắng trường,
Mấy chú cải lương, trốn đi đâu mất.
Kẻ thì bán đất, người lại cầm nhà.
Chạy gạo không ra. phải ăn hột cỏ!
Chơi, trời ghét bỏ, để đói nhăn răng!
Phải tính làm ăn, phải lo nghề nghiệp!
Không thời mạt kiếp,khó nỗi sanh tồn!
Khó mà biết khôn, đừng dồn lấy dại!
Xuống tòa ông sứ lựa được rồi, “mê-rô” ông sứ phát ra ngồi thở than.
Vợ con châu lụy hai hàng, khuyên em ở lại cho chàng dời chơn.
Anh đi ra mỗi bước mỗi ngừng, châu sa lụy nhỏ chín mười từng ruột đau.
Thương nhau phải cứ lời nhau, tri tri vàng đá trước sau một lời.
Anh đi ra mặt biển chưn trời, khuyên em ở lại một lời bình an,
Bảy giờ mai em tuốt xuống Hàn có qua.
Bạc chín chục đồng nhà nước phát ra,
Em đem về mua trâu, thuê đất, làm nhà nuôi con.
Chúc cho hai bên cha mẹ vuông tròn,
Phận anh đây như khúc gỗ trôi giữa biển, mất còn quản chi.
Biểu em đừng nước mắt lâm ly, làm lơ giả dại như khi chưa chồng.
Xuống tòa ông sứ lựa được rồi, “mê-rô” ông sứ phát ra ngồi thở than.
Vợ con châu lụy hai hàng, khuyên em ở lại cho chàng dời chơn.
Anh đi ra mỗi bước mỗi ngừng, châu sa lụy nhỏ chín mười từng ruột đau.
Thương nhau phải cứ lời nhau, tri tri vàng đá trước sau một lời.
Anh đi ra mặt biển chưn trời, khuyên em ở lại một lời bình an,
Bảy giờ mai em tuốt xuống Hàn có qua.
Bạc chín chục đồng nhà nước phát ra,
Em đem về mua trâu, thuê đất, làm nhà nuôi con.
Chúc cho hai bên cha mẹ vuông tròn,
Phận anh đây như khúc gỗ trôi giữa biển, mất còn quản chi.
Biểu em đừng nước mắt lâm ly, làm lơ giả dại như khi chưa chồng.
Từ ngày con bướm trắng bay vô,
Ba năm trời hạn, cây khô lá vàng.
Nấu cơm hấp những cọng lang,
Chuối luộc đầy sàng ăn chẳng biết no.
Nào ai có ruộng có bò,
Mua mắc bán rẻ, bán cho nhà giàu.
Ba quan một cái mâm thau,
Nồi đồng quan tám, nhà giầu không mua.
Mỗi năm lo nộp thuế vua,
lương chẩn lương thải tới mùa phải ra.
Con nít chí lẫn ông già,
Ba ngày gạt gạo đi ra nằm đàng.
Mười đồng một củ khoai lang,
Trời làm đói khát thiếp với chàng xa nhau.
Bất nhân là quân nhà giàu,
Tôi đi ngõ trước, ngõ sau nó rào.
Chị em gặp chẳng dám chào,
giả lơ tai điếc : “mụ nào kêu chi” ?
Tôi đây cũng đói mần ri,
Chị tôi chết trước, tôi thì chết sau.
Nhà giàu kêu đói như đau,
Tự nhiên lúa củ năm sau hãy còn.(*)
Muốn đi cưới vợ cho con,
sợ chúng ăn hết, hoảng hồn thất kinh.
Ba năm tự miếu chí đình,
không cúng không quải, thần linh cũng hằn.
Thợ rèn thợ mộc đói nhăn,
Còn thầy phù thủy mất ăn xôi gà.
Cho đến mụ bóng mụ bà,
Thầy địa thầy thuốc nằm nhà chẳng có mà nhai.
Bĩ cực rồi lại thái lai,
Mùa lúa cũng được mùa khoai cũng dào.
Ăn mừng hát bội xôn xao,
Đi ra gặp mặt chị nào cũng vui...
Vè Nói Ngược
Con chó hay trèo
Con mèo hay cắn
Xôi thịt thì đắng
Bồ hòn thì hôi
Thơm như tổ cú
Đàn ông to vú
Đàn bà rậm râu
Hay gáy con trâu
Hay bừ gà trống
Của ta thì trọng
Của chúa thì hèn
Giấy bản thì đen
Mực tàu thì trắng
Mây mù thì nắng
Mây trắng thì mưa
….
Uống một ly nhâm nhi tình bạn
Uống hai ly giải cạn cơn sầu
Uống ba ly mũi chảy đầy râu
Uống bốn ly ngồi đâu nói đó
Uống năm ly cho chó ăn chè
Uống sáu ly ai nói nấy nghe
Uống bảy ly làm xe lội nước
Uống tám ly chân bước chân quỳ
Uống chín ly còn gì mà kể
Uống mười ly khiêng để xuống xuồng
Một xị giải phá cơn sầu
Hai xị mũi chảy đầy râu
Ba xị nằm đâu ngủ đó
Bốn xị cho chó ăn chè
Năm xị làm xe lội nước
Sáu xị vợ rước về nhà
Bảy xị ông bà chửi nát
Tám xị ra đống rác nằm
Chín xị lên băng ca
Mười xị ra nghĩa địa
Nhất xị mở mang trí hoá,
Nhị xị giải phá thành sầu,
Tam xị mũi chảy đầy râu,
Tứ xị ngồi đâu “đứa” đó,
Ngũ xị cho chó ăn chè,
Lục xị vợ đè cạo gió,
Thất xị mua hòm để đó,
Bát xị … cho nó chết luôn!
(Vè Bợm Nhậu)
Nguồn: Mai Huyền Chi
Nghe vẻ nghe ve (6)
Nghe vè thịt chó
Thằng nào xấu mặt
Bắt nước cạo lông
Thằng nào ở không
Nạo dừa, rang đậu
Thằng nào muốn nhậu
Thằng nào muốn vô
Thì ngồi chính giữa
Thằng nào ói mửa
Thì đạp xuống sàn
Đánh lộn la làng
Vì sàng thịt chó
(Vè thịt chó)
Vai mang xấp vải trong mo
Đi chưa tới chợ đã lo ăn hàng
Bánh in cùng những bánh bàng
Bánh bò bông, bánh ít trần, ngon thay.
Mít nghệ múi bằng cổ tay
Bánh đúc chấm mật, bánh gai, bánh bèo
Muốn ăn đừng có lo nghèo
Tiền tui trong túi đem theo đủ dùng,
Ăn một bụng ba mươi đồng
Mua mấy thứ để cho chồng tui đây
Vừa mới tới vuông đất cày
Ngồi dưới gốc cầy lật nón ra ăn
Làm vầy dạ cũng băn khoăn
Vì chưng lỗ miệng muốn ăn không chừng
(Vè Ăn Hàng)
Nem chợ Sãi,
Vải La Vang
Khoai Quán Ngang,
Dầu tràm Đại Nại
Mai phường Trúc
Nước độc Kim Giao
Gạo Phước Điền
Chiêng Sắc Tứ
Khoai từ Trà Bát
Quạt chợ Sòng
Cá bống Bích La
Gà Trà Lộc
Môn độn An Đôn
Tôm đồng Mai Lĩnh
Bánh ít Đạo Đầu
Trầu nguồn Khe Gió
Cỗ Trung Đơn
Thơm Bồ Bản
Nghệ vàng An Lộng
Xôi thống Hải Thành
Gạch Trí Bưu
Lựu Triệu Phước
(Vè Thổ Sản)
Con gái làng Sấu
Hay cấu hay cào
Cấu ra bờ rào
Cấu vào chuồng lợn
Nào ai có tợn
Lấy gái làng này?
Nó vác cả cày
Ra đồng nó cấu
Nó vác cả đấu
Ra đồng nó đong
Nó vác cả nong
Ra đồng nó quạt
Nó vác cả tháp
Ra đồng nó xây
Nó gói cả mây
Bỏ trong giỏ nó
Nó thắt khăn đỏ
Nó múa gươm thần …
(Vè con gái làng Sấu)
Lẳng lặng mà nghe
Cài vè học vụ
Đồng bào mù chữ
Ở khắp mọi nơi
Chiếm chín phần mười
Toàn dân đất Việt
Muôn bề chịu thiệt
Chịu đui, chịu điếc
Đời sống vùi dập
Trong vòng nô lệ
Hơi đâu mà kể
Những sự đã qua
Chính phủ Cộng hòa
Ngày nay khác hẳn
Đêm ngày lo lắng
Đến việc học hành
Mấy triệu dân lành
Còn đương tăm tối
Bị đời hất hủi
Khổ nhục đáng thương
Ngơ ngác trên đường
Như mù không thấy
Những điều như vậy
Không thể bỏ qua …
(Vè bình dân học vụ)
Vè vẻ ve ve
Nghe vè kẹo kéo
Mần thiệt là khéo
Ai thấy cũng thèm
Ai thấy cũng khen
Rằng kẹo Sa Đéc
Người nào chưa biết
Quảng cáo là mua
Cô bác ông bà
Xin mời ăn thử
Ngon hay là dở
Cứ việc chê khen
Có bán có thêm
Đồng xu một miếng
Ai trả hai tiếng
Sáu miếng năm xu
Ai trả lu bù
Thì tui không bán
Thợ khéo thượng hạng
Không phải lôi thôi
Đậu không thúi hôi
Bánh phồng thiệt xốp
Mật đường đem lược
Không cặn không ruồi
Ai ăn kẹo rồi
Thì ghiền kẹo kéo
Ai thường lui tới
Cũng phải mua về
Kẹo ngon rẻ rề
Nổi danh khắp chốn
Không cần hao tốn
Mà có kẹo ngon
Mua cho bà con
Cùng là giòng họ
Bán không mắc cỡ
Tui bán sạch trơn
Tui xin cảm ơn
Ai mua kẹo kéo
Sa Đéc xứ khéo
Mần kẹo thiệt tài
Ăn hủy ăn hoài
Ai mua kẹo kéo…
(Vè kẹo kéo Sa Đéc)
Đầu hôm ngủ tới canh tư,
Còn nằm mà ngủ, muỗi thì nó cắn dư cả vùa
Canh năm thì dộng trống chùa,
Còn nằm mà ngủ, chúng lùa một bên
Ngủ thì quên tuổi, quên tên,
Ngủ cho mặt trời mọc đã lên ba sào
Sáng ra đái dựa hàng rào,
Còn đương ngây ngủ té nhào trong gai
Quét nhà long mốt long hai,
Con mắt dáo dác thấy trai ngó chừng
Bày ra cắt áo, cắt quần,
Cắt không kích tấc, nhằm chừng cắt ngang
Vải thời một tấc một quan,
Cắt thời khoét lỗ khoét hang đâu còn
Bày ra bánh cục bánh hòn,
Nắn bằng chiếc đũa, hấp còn bột không
Sáng ra đi cấy vần công,
Cấy thưa cấy nổi đi không về rồi
Bày ra cháo vịt, cháo bồi,
Cháo không có xác ăn rồi nhả ra
Từ nay cho tới hăm ba,
Cậy mai tới nói người ta không thèm
Chị em thấy vậy nói gièm,
Nấu canh chua tợ như hèm khó ăn
Làm bộ líu lăng,
Bánh bò, bánh thuẫn
Làm không mí mửng,
Lớp trọc lớp đen
Sang qua bánh men,
Thiệt là chai ngắt
Làm bộ ngoe ngoắc
Đi hấp bánh gừng
Quạt lửa phừng phừng
Mặt vàng như nghệ
Uổng công bốn bể
Học lúc văn minh
Nghĩ lại phận mình
Thiệt là thưa thớt
(Vè con gái hư)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè nói ngược
Nắng hạn đầy nước
Mưa dầm khô rang
Đám cưới đình làng
Kì yên ngoài chợ
Nhà giầu khất nợ
Nhà nghèo cho vay
Đàn bà đi cày
Đàn ông đi cấy
Ghe nổi thì đẩy
Ghe cạn thì chèo
Nuôi chuột bắt mèo
Nuôi heo lấy trứng
Xu xoa thì cứng
Đá núi thì mềm
Trời nắng về đêm
Ban ngày sao mọc
(Vè nói ngược )
Anh mong tát biển cấy kê
Tát sông Bồ Ðề nhổ mạ cấy chơi
Bẻ que đo Trời
Đan lồng nhốt kiến
Thầy mẹ thương đến
Bắt voi coi giò
Thầy mẹ gả cho
Rước voi làm lễ
Anh đi làm rể
Che hai lọng vàng
Nhà anh thì ở giữa làng
Lấy vàng làm cột
Giạt bạc làm tranh
Cưa gỗ lim làm thành
Chẻ ngà voi làm lạt
Anh đặt chuyện hát
Nói láp em nghe,
Nhà anh cột nứa, kèo tre..
Trời làm tháng sáu giá chân
Tháng một nằm trần nóng đổ mồ hôi
Con chuột kéo cày lồi lồi
Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong
Vườn rộng thì thả rau rong
Ao sâu giữa đồng vãi cải làm dưa
Con bò đi tắm ban trưa
Một đàn con vịt cày bừa ruông nương
Con voi nằm ở gầm giường
Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn
Chuồn chuồn thấy cám liền ăn
Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua
Trời mưa cho mối bắt gà
Thòng đong con cấn đuổi cò lao xao
Lươn nằm cho trúm bò vào (*)
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô
Thóc giống cắn chuột trong bồ
Lá lúa lá mạ đuổi vồ chân trâu
Chim chích cắn cổ diều hâu
Gà con tha qua biết đâu mà lần
Cầy cáo thì đuổi chó săn
Một đàn con chuột đuổi ăn con mèo
Tượng nghe:
Nước có nguồn, cây có gốc
Huống chi người có da, có tóc
Mà sao không biết chúa, biết cha?
Huống chi người có nóc có gia
Mà sao không biết trung biết hiếu
Hai vai nặng trĩu
Gánh chi bằng gánh cang thường
Một dạ trung lương
Gồng chi bằng gồng xã tắc
Bớ những người tai mắt
Thử xem loại thú cầm:
Trâu ngựa dòng điếc câm
Còn biết đền ơn cho nhà chủ
Muông gà loài gáy sủa
Còn biết đáp nghĩa lại người nuôi
Huống chi ta:
Chưn đạp đất, đầu đội trời
Ở chi thói sâu dân mọt nước!
Sao chẳng nghĩ sau nghĩ trước
Lại làm thằng nghịch thằng gian
Sao bằng trai trí chúa an bang
Sao bằng trai thừa gia khai quốc
Lẽ phải thời:
Trải gan trung, bồi nghĩa mật
Đền ơn thuở trong bụng mẹ mười tháng sanh ra
Lẽ phải thời:
Vợ thúc chồng, con giục cha
Đền thuở ở đất vua, nắm rau, mớ ốc
Thậm tiếc bấy:
Những tay tham lợi muốn yên mình
Đành để tiếng vong tiên bội tổ
Tai đâu chẳng nghe, mắt đâu chẳng rõ?
Tổ tiên đâu, mồ mả nước nào?
Lòng sao không xót, dạ sao không bào?
Bờ cõi loạn, nhơn dân đổ thán
Mình nước Hớn, mẹ cha nước Hớn
Hỏi chớ nào thảo nào ngay?
Thù Tây rồi lại ở với Tây
Hỏi chớ nào tôi nào chúa?
Bởi mình mảng tham lam tiền của
Để cho Tây bắt vợ giết chồng
Bởi mình tham, ham hố bạc đồng
Để cho Tây lột da khỏ óc
Thân sao không biết nhục?
Vinh vang chi cũng lấy tiếng Tây
Sung sướng khó trọn đời
Cảm thương kẻ nó hành nó hiếp
Xóc tóc cúp đầu
Cám thương người nó móc nó treo
Hành thân hoại thể
Nghĩ thương không xiết kể
Giận nói chẳng hay cùng
Giận những phường bất hiếu bất trung
Thương những kẻ oan con oan vợ
Thương gã chệch đêm nằm không ngủ
Nóng gan son ra lập nghĩa đường
Giận thằng Tây chẳng giữ phong cương
Sống u mê theo tuồng tả đạo
Trách những kẻ lòng muông dạ cáo
Sống hư hèn sửa trấp nưng khăn
Thương những tay bảng quế trung thần
Thủa gan dạ thẻ ngời bia tạc
Làm người sao khỏi thác
Thác trung thần, thác cũng thơm danh
Làm người ai chẳng tham sanh
Lòng địch khái xin cho rỡ tiết
Đêm năm canh thương người chánh liệt
Ngày sáu khắc nhớ kẻ trung trinh
Chốn biên thuỳ lãnh ấn tổng binh
Cờ đề chữ “Bình Tây đại tướng”
Trước trí quân ư Nghiêu Thuấn thượng
Sau vi xã tắc lương thần
Phải cạn lời rao khắp muôn dân
Sửa tấc dạ dìu về một mối
Ai chẳng ra thú trước
Ắt phải luỵ về sau
Bớ trẻ già bé lớn đâu đâu
Kíp bội ám đầu minh tua gắng
Chiếu phụng dầu ta lãnh đặng
Nương lòng trời cứu lũ sanh linh
Phải cạn lời tỏ hết chơn tình
Cho con trẻ dân đen đều biết
Kẻ nào còn vi ngược trợ Kiệt
Mũi thiên oai nhất quyết không dung.
(Vè đánh Tây )
Quê Hương, Địa Danh, So Sánh, Tương Đồng, Chợ Búa,
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè cái chợ
Sáng mơi xách rổ
Đi giáp một vòng
Hàng hóa mênh mông
Kêu bằng Chợ Lớn
Thiên hạ phát ớn
Là chợ Bình Đông
Ấm bụng no lòng
Kêu bằng Chợ Gạo
Thiệt là huyên náo
Là chợ Bến Thành5
Xúm nhau giựt giành
Là chợ Bến Tranh
Ăn ở hiền lành
Đi chợ Thủ Đức
Tối mò như mực
Là chợ Gò Đen
Cẳng bước không quen
Là chợ Gò Vấp
Khỏi lo đèn tắt
Đi chợ Gò Dầu
Sợ má đợi lâu
Đi chợ Bà Quẹo
Không trì cũng kéo
Là chợ Bến Tre
Chợ gì vắng hoe
Kêu bằng chợ Đũi
Ăn mặn như muối
Là chợ Cầu Kho
Nấu nướng khỏi lo
Là chợ Xóm Củi
Coi chừng lửa khói
Là chợ Lái Thiêu
Vắng mẹ nó kêu
Là chợ Bến Nghé
Ai mà đau khổ
Đi chợ sầu riêng18
Gục xuống gục lên
Kêu bằng chợ ế
Đạp nhằm quỵ té
Là chợ Cần Chông
Rượt chạy lòng vòng
Là chợ chồm hổm
Làm ăn yên ổn
Là chợ Biên Hòa
Hay hát dân ca
Là chợ Phước Lý
Toàn là thi sĩ
Là chợ Cần Thơ
Nó cắn ơ hờ
Là chợ Rạch Kiến
Vừa nói vừa nghiến
Là chợ Cái Răng
Ăn uống lăng xăng
Đâu bằng chợ Quán
Người ưa bàn tán
Ra chợ Bùng Binh
Không dính trong mình
Là chợ Cần Giuộc
Muốn gặp Trời Phật
Đi chợ Long Hoa
Phơi lúa mau khô
Thì đi chợ Đệm
Rờ êm như nệm
Là chợ Sài Gòn
Đàn bà chết chồng
Xuống chợ Rạch Giá
Không ăn thịt cá
Ra chợ Hà Tiên
Cho người tới biên
Là chợ Bến Thuế
Tướng sĩ xe pháo
Là chợ Bàn Cờ
Vợ bỏ bơ vơ
Chợ Cầu Ông Lãnh
Người nào cũng bảnh
Là chợ Cái Cơm
Khỏi lo bần cùng
Đi chợ Phú Quới
Chưa đi đã tới
Là chợ Cà Mau
Chẳng được ngọt ngào
Là chợ Đà Lạt
Ngứa gãi sột soạt
Là chợ Hóc Môn
Nghe kêu hết hồn
Là chợ Trà Cú
Xe chạy ngắc ngứ
Là chợ Gò Công
Đi giáp một vòng
Cũng chưa hết chợ
Thiệt là đáng sợ
Là cái chợ trời
Ai biết xin mời
Tiếp theo vè chợ.
Nghe vẻ nghe ve,
Nghe vè bài tới
Cơm chưa lập xới
Trầu chửa kịp têm
Tao đánh ba đêm
Thua ba tiền rưỡi
Về nhà chống chửi:
Thằng Móc, thằng Quăn,
Đánh sao không ăn
Mà thua lắm bấy?
Tui lấy tiền cấy
Cho đủ mươi ngày
Bảy Thưa, Bảy Dày
Cùng là Ngạt kéo
Chị em khéo léo,
Dễ mượn dễ vay
Thân tui ngày rày
Dầm mưa dãi nắng
Chị em có mắng
Tôi cũng ngồi đây
Nó là tuồng dày
Nó cũng a dua
Ăn thì tôi vùa
Thua thì tôi chịu
(Vè bài tới)
Ai mua chiếu hông
Chiếu bông chiếu trắng
Chiếu vắn chiếu dài
Chiếu dệt lầu đài
Cổ đồ bát bửu
Chiếu tây hột lựu
Da lợn bông bao
Chiếu rộng màu cau
Con cờ, mặt võng
Dệt bông chong chóng
Ngũ sắc, bá huê
Đẹp hết chỗ chê
Ngôi sao, tùng lộc
Chiếu trải giường hộc
Chiếu trải giường Tàu
Chiếu trải giường trước
Chiếu trải giường sau
Chiếu nào cũng có đủ
Trong gia chủ ai muốn mua thì mua
(Vè bán chiếu)