Anh đi súng ở tay ai
Sao không quay lại bắn loài thù chung
Anh xem bao kẻ anh hùng
Kìa ông đội Cấn đội Công thuở nào
Hô quân ra cứu đồng bào
Súng Tây ông lại bắn vào đầu Tây
Tiếng tăm lừng lẫy đó đây
Sử xanh ghi mãi những ngày vẻ vang
Anh ơi duyên phận lỡ làng
Xin anh để tiếng phi thường cho em
Ước gì kẻ lạ người quen
Gần xa nhắc đến chồng em anh hùng
Thu đông lệ nhỏ đôi dòng
Anh đi em ngỏ tấm lòng cùng anh
Hoàng triều Bảo Đại tứ niên
Đã ba cái lụt, lại liền cái keo (sâu keo)
Xã dân đâu đấy túng nghèo
Cho lên ngũ tỉnh phải theo đồn điền
Ông Tây lắm bạc, nhiều tiền
Bỏ ra sức giấy mộ liền cu ly.
Có chàng Công Tráng họ Đinh
Dựng lũy Ba Ðình chống đánh giặc Tây
Cơ mưu dũng lược ai tày
Chẳng quản đêm ngày vì nước lo toan
Dù cho vận nước chẳng còn
Danh nghĩa vẹn toàn, muôn thuở không phai
Ở bên ni Hàn ngó qua bên tê Hà Thân
Nước xanh như tàu lá
Ở bên tê Hà Thân ngó qua bên ni Hàn
Thấy phố xá nghênh ngang
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn
Đào sông Câu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu
Dặn tấm lòng ai dỗ đừng xiêu
Ở nuôi phụ mẫu sớm chiều có nhau.
Ai ơi! đi lính cho Tây
Con dại cả bầy bỏ lại ai nuôi?
Chuyện đâu có chuyện lạ đời
Quan đi theo giặc bắt người lành ngay
Nghìn năm nhớ mãi nhục này
Theo Tây được thả, đánh Tây bị tù. (*)
Nhờ ai cho gà đỏ đuôi
Nhờ ai mà được cưỡi voi, ngồi thuyền
Nhờ ai có bạc, có tiền
Nhờ ai mà có nàng tiên đứng hầu
Nhờ ai có ruộng, có trâu
Nhờ ai mà có mâm thau, đũa ngà
Nhờ ai có lụa, có là
Vợ gọi bằng bà, con gọi cậu, cô
Đến khi giặc Pháp tràn vô
Quan nhỏ tếch mất, quan to chạy dài
Ai ơi, có thế chăng ai?
Ai qua Đèo Cả nhớ chăng
Núi cao,biển rộng,mây giăng mịt mù
Dân nghèo đục đá làm phu
Tấm thân đổi lấy mười lăm xu mỗi ngày
Đá lăn hầm sập tan thây
Cuộc đời nô lệ tháng ngày tối tăm
Ai về nhắn với bà cai
Giã gạo cho trắng, đến mai dâu về
Dâu về dâu chẳng về không
Ngựa ô đi trước, ngựa hồng đi sau
Ngựa ô đi tới vườn cau
Ngựa hồng chậm rãi đi sau vườn dừa.
Sông Nha Trang cát vàng, nước lục,
Thảnh thơi con cá đục lội dọc lội ngang.
Đã nguyên cùng nhau hai chữ đá vàng,
Quý chi tách cà phê đen, ly sữa bò trắng
Anh nở phụ phàng nước non.
Triều đình còn chuộng thi thư
Khuyên anh đèn sách sớm trưa học hành.
May nhờ phận có công danh
Mà anh phú quý, ấy mình vẻ vang
Khuyên đừng trai gái loang toàng
Khuyên đừng chè rượu nữa mang tiếng người.
Cũng đừng cờ bạc đua chơi
Sao cho sự nghiệp ra người trượng phu.
Làm sao nên tiếng danh nho
Thần trung, tử hiếu để cho vang lừng!
Năm tiền một quả đậu xanh
Một cân đường cát đưa anh xuống tàu
lại nguyệt hoa
Tàu về có thuở tàu qua
Xin em ở lại nguyệt hoa thì đừng.
Xin em ở lại nguyệt hoa thì đừng.
Non xanh nước biếc hữu tình
Lúa đồng bát ngát rung rinh bốn mùa
Đền lăng thờ Đức vua Lê
Ngắm nhìn núi Côi khác chi con rồng
Vờn thêm một dải uốn cong
Kìa con thiên mã đang lồng về Nam
Một dòng nước nhỏ xanh lam
Một ngôi chùa nhỏ nằm ngang lưng đồi
Chẻ tre đan nón
Ta lí khăn xanh
Đánh giặc vùng Thanh
Những khe cùng núi
Những suối cùng đèo
Cách sông cũng lội
Cách núi cũng trèo
Phận lính thì nghèo
Tiền lương gạo hết
Người ngoan ở nhà
Có thấu cho chăng?
Tre già để mặc cho măng.
Lịch Sử,Phương Ngữ,Quê Hương, Đất Nước, Quân Sự, Núi Non
Ba đồn ở đất Châu Ô
Một đoàn vợ lính trãy vô thăm chồng
Gặp trộ mưa giông, Đàng trơn gánh nặng
Mặt trời đã lặn, Ðèo Ngang chưa trèo
Khớp hòn đá cheo leo, Chân trèo chân trợt
Gặp o gánh ló, Chộ chú chăn tâu
Ba Ðồn quan lính ở mô ?
Phi đế phi bá
Quyền khuynh thiên hạ
Nhị bách dư niên
Tiêu tường khởi vạ
(Chẳng đế, chẳng bá
Quyền khuynh thiên hạ
Hơn hai trăm năm
Trong nhà dấy vạ)
(Lịch sử)
Thùng thùng trống đánh quân sang
Chợ Già trước mặt, quán Nam bên đàng
Qua Chiêng thì sẽ sang Giàng
Qua quán Ðông Thổ vào làng Ðình Hương
Anh đi theo chúa Tây Sơn
Em về cày cuốc mà thương mẹ già
Cậu lính là cậu lính ơi
Tôi thương cậu lắm nắng nôi thương hàn
Lính này, có vua có quan
Nào ai bắt lính cho chàng phải đi
Trời ơi sinh giặc mà chi
Nay trẫy kim thì mai trẫy kim ngân
Lấy nhau chưa kịp ái ân
Chưa xe kim chỉ Tấn Tần như xưa
Trầu lộc em phong lá dừa
Chàng trẩy mười bốn em đưa hôm rằm
Rủ nhau ra chợ Quỳnh Lâm
Vai đỡ gánh nặng hỏi thăm tin chồng
Xót xa như muối bóp lòng
Nửa muốn theo chồng nửa bận con thơ
Ở đâu năm cửa, nàng ơi ! (Hỏi)
Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?
Sông nào bên đục bên trong ?
Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh ?
Ðền nào thiêng nhất tỉnh Thanh ?
Ở đâu lại có cái thành tiên xây ?
Ở đâu là chín từng mây ?
Ở đâu lắm nước, ở đâu nhiều vàng ?
Chùa nào mà lại có hang ?
Ở đâu lắm gỗ thời nàng biết không ?
Ai mà xin lấy túi đồng ?
Ở đâu lại có con sông Ngân-Hà ?
Nước nào dệt gấm thêu hoa ?
Ai mà sinh ra cửa, ra nhà, nàng ơi ?
Kìa ai đội đá vá trời ?
Kìa ai trợ thuỷ cho đời được yên ?
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời,
Xin em giảng rõ từng nơi từng người
- Thành Hà-nội năm cửa, chàng ơi !
Sông Lục-đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng.
Nước sông Thương bên đục bên trong,
Núi đức thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh.
Ðền Sòng thiêng nhất tỉnh Thanh,
Ở trên tỉnh Lạng, có thành tiên xây.
Trên trời có chín từng mây,
Dưới sông lắm nước, núi nay lắm vàng.
Chùa Hương-tích mà lại ở hang ;
Trên rừng lắm gỗ thời chàng biết không ?
Ông Nguyễn Minh-Không xin được túi đồng,
Trên trời lại có con sông Ngân-hà.
Nước Tàu dệt gấm thêu hoa;
Ông Hữu-Sào sinh ra cửa, ra nhà, chàng ơi !
Bà Nữ-Oa đội đá vá trời ;
Vua Ðại-Vũ trị thủy cho đời yên vui.
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời,
Em xin giảng rõ từng nơi từng người.
Giữa năm Đinh Dậu mới rồi
Sư Ông Chùa Lãng là người đảm đang
Viết tờ quyên giáo các làng
Lãng Đông, Năng Nhượng chuyển sang Trực Tầm
Chiều hôm còn ở Đòng Sâm
Rạng mai Đắc Chúng, tối tầm Dọ Dương
Cùng với nghĩa sĩ bốn phương
Phất cờ Thần Tướng mở đường Thiên Binh
Phá dinh công sứ Thái Bình
Sa cơ ông đã bỏ mình vì dân
Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thì canh điếm tối dồn việc quan
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc măng mai
Những gian cùng nứa lấy ai bạn cùng
Nước giếng trong con cá nó vẫy vùng
Ngang lưng thì thắt bao vàng,
Đầu đội nón đấu vai mang súng dài.
Một tay thì cắp hỏa mai,
Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền,
Thùng thùng trống đánh ngũ liên,
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
Thấy anh hay chữ, em hỏi thử đôi lời (10)
Thằng Tây nó giăng dây thép giữa trời làm chi?
- Tây giăng dây thép giữa trời,
Chờ anh có việc trao lời em hay
Nhà tôi mượn lấy trời che
Mua tranh lợp hè thiếu trước hụt sau
Tiền của ở tại nhà giàu
Mắm muối ngoài chợ củi rau ngoài đường
Nằm thời lấy đất làm giường
Lấy trời làm chiếu lấy sương làm mền
Xâu làng bắt xuống trì lên
Trầy da tróc thịt cái tên còn hoài
Không tiền tạm đỡ dĩa khoai
Bữa mô kiếm có thì vài miếng cơm
Ăn rồi ngủ thẳng đầu hôm
Canh hai thức dậy văn Nôm sử Kiều.
Em nhìn xuống Đông,
Ròng ròng nước mắt,
Em trông ra Bắc,
Nước mắt đòi cơn.
Ông cha mình gầy dựng giang sơn,
Biết bao nhiêu xương,
Biết bao nhiêu máu,
Bao nhiêu tủi, bao nhiêu hờn mới nên ?
Ơn nghĩa chất chồng
Con cháu sao nở đành quên
Để cho quân Hồ lỗ
Đặt nền đô hộ
Lên đất nước nhà.
Giống nòi lắm nỗi xót xa,
Tính năm nô lệ nay đà tám mươi..