Một yêu em cố tăng gia
Hai yêu em có đàn gà đầy sân
Ba yêu làm cỏ bỏ phân
Bốn yêu sớm tối chuyên cần tưới rau
Năm yêu chăm chỉ bắt sâu
Sáu yêu nương sắn, gàn bầu chuồng chim
Bảy yêu đàn lợn mới thêm
Tám yêu dãy chuối lại kèm rặng khoai
Chín yêu khóm mía cao cao
Mười yêu cần kiệm, dân giàu nước sang
Con chim xanh ăn quanh bãi cát,
Thiếp nạp cho chàng mỗi năm ba đồng, sáu giác công ngân
Chàng ơi! ngồi lại thiếp phân :
Chàng nhịn ăn, thiếp nhịn mặc, đóng công ngân cho chàng.
Nạp rồi lòng dạ chưa an,
Lại nghe mõ đánh ngoài làng kêu xâu
Cá sống kho với lá gừng,
Bà con mình đó, xin đừng quên nhau
Càng ngày xâu nặng thuế cao,
Mất mùa nên phải lao đao, nhọc nhằn.
Xóm làng nhẫn chịu cắn răng,
Bán đìa nộp thuế cho bằng lòng quan.
Quan trên ơi hõi quan trên,
Hiếp dân, ăn chặn, chỉ biết tiền mà thôi !
Bấy lâu ta ở với ta
Bây giờ có Phú-lang-sa lọt vào
Bây giờ đất thấp trời cao
An Nam, Quảng Tống phải vào lụy Tây
Bây giờ khố bẹ đi giày
Bờ lau nên phố, đĩ nay lên bà
Mấy đời con đĩ nên bà
Thau rau đắc thế, bà già thất kinh
Bấy lâu vua trị một mình
Bây giờ Nhà nước đã rành chia đôi
Văn nhân khoa mục ở rồi
Những phường dốt nát lên ngồi làm quan
Những anh phơ phất loàng xoàng
Làm bồi làm bếp ra ràng cậu chiêu
Các quan trung nghĩa trong triều
Về nhà ngồi xó liệu chiều thủ thân
Những quân vô nghĩa, nịnh thần
Tìm thày, tìm cách lần lần thăng quan
Trị dân lắm sự tham tàn
Kiếm tiền kiếm bạc mới toan bằng lòng
Muốn cho bể lặng, sông trong
Cách hết lũ ấy mới mong thái bình.
Bên Tây có chiếc tàu sang
Sinh ra khố đỏ, quần vàng, áo thâm
Cho nên anh chịu âm thầm
Vai vác khẩu súng, tay cầm bình toong
Ra đi sông cạn đá mòn
Ra đi thương nhớ vợ con ở nhà
Việc Tây anh phải trẩy xa
Khi ở Hà Nội khi ra Hải Phòng
Nói ra đau đớn trong lòng
Vợ con nào biết Vân Mòng là đâu!
Đầu con, đầu vợ,
Đứa lớn, đứa bé, đứa bế, đứa nằm,
Đứa lên một, đứa lên ba, đứa lên năm, đứa lên bảy.
Tao biểu mày quảy, mày không quảy,
Mày để tao quảy về cái đất Phú Ơn, (Phú Yên).
Nặng nề gánh vác giang sơn,
Đầu con, đầu vợ, cái đất Phú Ơn ta lại về.
Nhìn trông đỉnh núi tứ bề .
Cành mai chớm nở, ta về xứ ta!
Có quan tổng đốc Hà Ninh
Hiệu là Quan Viễn, trung trinh ai bằng
Lâm nguy lý hiểm đã từng
Vâng ra trọng trấn mới chừng ba năm
Thôn Hồ dạ vốn, nhăm nhăm
Ngoài tuy giao tiếp trong căm những là
Vừa năm Nhâm Ngọ, tháng ba
Sáng mai mồng tám, bước qua giờ thìn
Biết cơ trước đã giữ gìn
Hơn trăm vũ sĩ, vài nghìn tinh binh
Tiên nghiêm lên đóng trên thành
Thệ sư rót chén rượu quỳnh, đầy vơi
Văn quan, vũ tướng nghe lời
Hầm hầm xin quyết một bài tận trung
Ra oai xuống lệnh vừa xong
Bỗng nghe ngoài đã ầm ầm pháo ran
Tiêm cừu nổi giận xung quan
Quyết rằng chẳng để chi đoàn chó dê
Lửa phun, súng phát bốn bề
Khiến loài bạch quỷ hồn lìa phách siêu
Bắn ra nghe chết cũng nhiều
Phố phường trông thấy tiếng reo ầm ầm
Quan quân đắc chí bình tâm
Cửa Đông, cửa Bắc vẫn cầm vững binh
Chém cha cái lũ hôi tanh!
Phen này quét sạch sành sanh mới là
Nào ngờ thấu ý tại ta
Vẫn rằng thắng trạng, hóa mà thua cơ
Nội công phải những bao giờ
Thấy kho thuốc cháy, ngọn cờ ngả theo
Quan quân sợ chết thảy đều
Thằng Tây, bạch quỷ đánh liều trèo lên
Nào ai cơm áo dốc đền?
Nào ai cầm vững cho bền ba quân?
Nào ai còn chí kinh luân?
Nào ai nghĩ đến thánh quân trên đầu?
Một cơn gió thảm mưa sầu
Nấu nung gan sắt, dãi dầu lòng son
Chữ trung còn chút con con
Quyết đem gửi cái tàn hồn gốc cây
Trời cao, biển rộng, đất dày
Núi Nùng, sông Nhị, chốn này làm ghi…
Ba ông là bậc anh hiền,
Gọi "Khánh Hòa Tam kiệt"
Người người đều biết,
Đều thương, đều tiếc
Chưa thỏa nguyền núi sông
Tâm thân xem nhẹ như lông hồng
Hỏi anh còn nhớ
"Quảng Phước tam hùng là ai"?
Chiều tà bóng ngả nương dâu,
Vin cành bẻ lá em sầu duyên tơ.
Tiếc công tháng đợi năm chờ,
Tưởng chàng có nghĩa, ai ngờ theo Tây.
Vùi thân trong đám bùn lầy,
Nước nào rửa sạch nhục này chàng ơi !
Nhớ xưa liệt sĩ bốn người
Ở trong ban lính đóng nơi La Thành
Đôi phen trận mạc tập tành
Thấy người xe ngựa, tủi mình non sông
- Nay tôi có chước lập công
Ở trong tôi đã ám thông với bồi
Chờ khi nó trúng độc rồi
Thẳng lên kho súng giết người lính canh
Lấy được súng, kéo vào thành
Ba tòa chiếm thủ, chi binh ba đường
Đất bằng nổi tiếng sấm vang
Ông Đề xuống lấy Bắc Giang tỉnh thành
Tuyên Quang, Thái, Lạng, Nghệ, Thanh
Bốn phương hưởng ứng dẹp bình như chơi.
Ông Bình nói chửa hết lời
Hai bên đứng dậy, người người vỗ tay
Tức thì ba đạo chia ngay
Hữu kia Nguyễn Cốc, tả này Đặng Nhân
Ông Bình là chủ trong quân
Ông Nga làm phó ba quân cứ lời
Cùng nhau bộ thự vừa rồi
Mở ra sáp huyết làm lời ước minh
Ngày hai mươi chín bình minh
Nghe nó trúng độc thì mình động ngay
Lạ thay không cánh mà bay
Cơ mưu nó biết, ngày ngày nó trông
Hai mươi chín, bẩy điểm chung
Nó ăn phải độc chưa xong nửa phần
Vô tình phải đứa bất nhân
Đem tin báo với Pháp quân tức thì
Thôi thôi còn có kíp gì
Hùm kia đến lúc xa ki cũng hèn
Pháp doanh nghe động tiếng kèn
Trong thành bốn mặt bổ liền quân vây
Chẳng qua một rủi, một may
Chậm cho mươi phút sự này hẳn xong
Thương thay thất bại anh hùng
Tấm lòng đối với non sông thẹn gì
Gan vàng, dạ đá tri tri
Ông Bình đến chết coi thì như không
Vừa cười vừa nói ung dung
Bên đường trông thấy ai không sụt sùi
Ông Nga vừa bắt đến nơi
Pháp quân dò hỏi mấy lời thủy chung
Rằng: - Anh là kẻ có công
Và ơn Nhà nước cũng không bạc gì
Cớ sao mưu phản làm chi?
Những ai đồng đảng nói thì tha ngay!
Nghe lời nghiến lợi cau mày
Mắng rằng: - Pháp tặc nói hay làm gì
Mấy nghìn vạn ức mày thì nhớ không?
Tao ăn một tháng mười đồng
Cũng là da thịt của trong toàn kỳ
Cơm thừa canh cặn ra chi
Hãy còn khéo nói, kể gì làm ơn
Dựa Nam nhân, giết Nam nhân
Một năm lương thuế toàn kỳ
Mấy nghìn vạn ức mày thì nhớ không?
Tao ăn một tháng mười đồng
Cũng là da thịt của trong toàn kỳ
Cơm thừa canh cặn ra chi
Hãy còn khéo nói, kể gì làm ơn
Dựa Nam nhân, giết Nam nhân
Gọi to một tiếng “Đồng bào!”
Hồn thiêng theo trận gió ào lên mây
Ôi thương thay! Ôi thương thay!
Kể sao cho xiết chết lây những người
Văn minh thật đã lạ đời
Đàn bà giết cả đến người hàng cơm
Thôi thôi trâu béo cỏ rơm
Trăm nghìn phó một mũi gươm là rồi
Khen cho liệt sĩ bốn người
Một lòng vì nước muôn đời tiếng thơm…
(Vè Liệt sĩ 4 người)
Lía ta nổi tiếng anh hào
Sơn hà một góc thiếu nào người hay
Bạc tiền thừa đủ một hai
Chiêu binh mãi mã càng ngày càng đông
Làm cho bốn biển anh hùng
Mến danh đều tới phục tùng chân tay.
Kẻ nào tàn ác lâu nay
Lía sai cướp của đoạt tài chẳng dung
Nhà giàu mấy tỉnh trong vùng
Thảy đều kinh sợ vô cùng lo toan
Nhất nhì những bực nhà quan
Nghe chàng Lía doạ kinh hoàng như điên
Nhà nào nhiều bạc dư tiền
Mà vô ân đức, Lía bèn đoạt thâu.
Tuy chàng ở chốn non đầu
Nhưng mà lương thực vật nào lại không
Lâu la ngày một tụ đông
Vỡ rừng làm rẫy, vun trồng bắp khoai
Mọi người trên dưới trong ngoài
Thảy đều no đủ sớm trưa an nhàn
Tiếng tăm về đến trào đàng
Làm cho văn võ bàng hoàng chẳng an.
Nam triều chúa ngự ngai vàng
Bá quan chầu chực hai hàng tung hô
Có quan ngự sử bày phô
Tâu lên vua rõ lai do sự tình
Đem việc chàng Lía chiêu binh
Trình lên cặn kẽ phân minh mọi đàng
Nào khi Lía phá xóm làng
Đến khi lên núi dọc ngang thế nào
Kể tên những bậc phú hào
Từng bị quân Lía đoạt thâu gia tài
Vua ngồi nghe rõ một hai,
Đập bàn, vỗ án giận rày thét la:
– Dè đâu có đứa gian tà
Giết người, đoạt của thiệt là khó dung
Truyền cho mười vạn binh hùng
Dưới cờ đại tướng binh nhung lên đàng
Đại quân vâng lệnh Nam hoàng
Hành quân tức khắc thẳng đàng ruổi dong
Gập ghềnh bao quản núi non
Dậy trời sát khí quân bon lên rừng. …
(Vè chàng Lía)
Ở nhà cơm hẩm, muối rang,
Bữa ăn có thiếp có chàng vẫn vui.
Con thơ nó khóc ngùi ngùi thảm chưa ?
Anh ra đi trống đánh cờ đưa,
Con thơ, vợ dại nói chưa hết lời.
Khoan khoan chân bước lên voi,
Thương cha nhớ mẹ, quan đòi phải đi.
Kể từ ngày mộ lính đi Tây,
Tiền Tây em không chuộng,
Bạc Tây em không màng.
Ở nhà cơm hẩm, muối rang
Bữa ăn có thiếp có chàng vẫn vui.
Anh đi bỏ mẹ ai nuôi,
Con thơ nó khóc ngùi ngùi thảm chưa ?
Anh ra đi trống đánh cờ đưa,
Con thơ, vợ dại nói chưa hết lời.
Anh ra đi mặt biển chân trời
Biết rồi có đặng sống đời cùng nhau !
Làm quan phải xét cho dân,
Không tin ngài xuống, ngài mần (1), ngài coi.
Làm trai cho đáng nên trai,
Thanh gươm, yên ngựa, dặm dài lướt xông.
Vẫy vùng nam, bắc, tây, đông,
Lấy thân che chở non sông nước cần.
Lấy chi mà trả ái ân,
Lấy chi mà nộp công ngân cho chàng ?
Phần thì quan bắt đắp đàngl Đào sông Câu Nhí, bòn vàng Bông Miêu.
Ái Quốc,Lịch Sử,Chống Ngoại Xâm,Chính Trị, Hành Chính, Hành Chánh
Nghĩ xem cái nước Nam mình
Tây sang bảo hộ tài tình đến đâu?
Nghĩ xem tiền của ở đâu
Đưa ra mà bắc được cầu qua sông
Chả hay tiền của của chung
Đưa ra mà bắc qua sông Bồ Đề
Bắc cho thiện hạ đi về
Những cột dây thép khác gì nhện chăng
Tưởng rằng anh Pháp nghĩa nhân
Chả hay lấy của dân Nam làm giàu
Tưởng rằng bảo hộ cho nhau
Chả hay đánh mắng ra màn coi khinh
Cũng giang sơn cũng triều đình
Thế mà nước mất dân tình lầm than
Lo sưu, lo thuế đã cam
Nay kinh, mai lính, gian nan mịt mù
Dân thì phải thợ, phải thu
Tỉnh thành đặt chốn lao tù cấm ngăn
Một năm biết mấy lần liền
Nay thuế quốc trái, mai thu quốc phòng
Những quân vui thú nức lòng
Đua nhau ăn bẩn như muông khác gì…
Nước khô rồi nước lại hồi
Còn trời, còn đất, còn nòi giống ta.
Biển Đông có lúc vơi đầy,
Mối thù đế quốc biết ngày nào quên.
Cá bống kho với lá gừng,
Bà con mình đó, xin đừng quên nhau !
Càng ngày xâu nặng thuế cao,
Mất mùa nên phải lao đao, nhọc nhằn.
Xóm làng nhẫn chịu cắn răng,
Bán đìa nộp thuế cho bằng lòng quan.
Quan trên ơi hỡi quan trên,
Hiếp dân, ăn chặn, chỉ biết tiên mà thôi !
Quy Nhơn eo (có) biển có cầu,
Có phố chú Chả, có lầu ông Tây.
Thông ngôn, ký lục lắm thầy,
Chân thì giày ống, tay thì ba toong,
Vợ thì đánh phấn thoa son,
Nước non còn mất, mất còn không hay.
(Có bản khác: Có phố chú Chệt có lầu ông Tây)
Chẳng thơm cũng ngát hoa chanh
Chẳng giỏi cũng gái ngoại thành Thủ đô.
Ra tay chẳng phải tay vừa
Làm chiêm chiêm vượt, làm mùa mùa hơn.
Chăn nuôi vừa khéo vừa khôn
Quanh năm gà lợn xuất chuồng quanh năm.
Thao trường cũng gắng cũng chăm
Veo veo đường đạn thằng băng vòng mười.
Việc quân nào chịu thua người
Cũng tay súng thép giữ trời quê hương.
Điện về điện sáng làng thôn
Cũng tay điều khiển máy bơm máy nghiền.
Siêng làm thì học cũng siêng
Người vào lớp bảy, người lên lớp mười.
Mấy kỳ đấu kiếm, thi bơi
Chưa tài mà cũng khối người vỗ tay.
Đêm chèo giọng hát chưa hay
Vẳng qua sông Đuống đã say sông Hồng.
Bốn mùa tươi áo nâu sồng
Việc nhà việc nước gánh gồng đôi vai.
Trai tài gái đã kém ai
Chẳng thơm cũng ngát hoa nhài hoa chanh.
Chẳng giỏi cũng gái ngoại thành
Gái mà như thế, khối anh giật mình!
Thơm Vạn Giã ngọt đà quá ngọt,
Mía Phú Ân cái đọt cũng ngon
Hởi người chưa vợ chưa con
Vào đây chung gánh nước non với mình.
Quản bao lên thác xuống ghềnh,
Mía ngon, thơm ngọt đượm tình quê hương.
Cho hay nhất quỷ nhì ma
Bây giờ mới biết thứ ba thế nào
Căm thù giặc nước từ bao
Tấm lòng công phẫn ào ào như sôi
Đứng đầu Khóa Ngọc, Tú Nhồi
Kế bày tội ác rạch ròi tên Kim.
Ai ơi! giữ phép nước ta
Ai ơi thương lấy dân nhà một tông,
Có hậu dưỡng mới phú phong
Kẻ cày người cấy, sống trong thái bình
Kẻ, nho lo việc học hành
Mai sau chiếm bảng, nức danh trên trời
Kẻ buôn thì được lắm lời
Tàng vương chi thị tứ thời bán mua
Kẻ công ai cũng tranh đua
Làm nghề chạm vẽ: phượng rùa, long, ly
Tứ dân mỗi nghiệp mỗi nghề
Nhờ trời đều được, gặp khi thái hòa
Toàn dân vang khúc dao ca
Hết Hòn Vay đến Hòn Trả,
Hết Hòn Trả, lại đến Hòn Hành.
Tấc dạ cam đành,
Dắt con cùng vợ.
Biết bao giờ trả nợ dương trần ?
Nợ dương trần, tay lần tay vác,
Tay vịn, chân trèo,
Ta về xứ ta!
Biết bao giờ trở lại quê nhà ?
Anh ra đi mặt biển chân trời
Biết rồi có đặng sống đời cùng nhau !
Làm quan phải xét cho dân,
Không tin ngài xuống, ngài mần (1), ngài coi.
Làm trai cho đáng nên trai,
Thanh gươm, yên ngựa, dặm dài lướt xông.
Vẫy vùng nam, bắc, tây, đông,
Lấy thân che chở non sông nước nhà.
Nằm thời lấy đất làm giường,
Lấy trời làm chiếu, lấy sương làm màn.
Xâu làng bắt xuống, gọi lên,
Trầy da, tróc thịt cái tên vẫn hoài.
Ăn thì những củ cùng khoai
Bửa mô kiếm được thì vài miếng cơm.
Tháp trải nắng sương, cau nương sắt đá,
Dẫu người thiên hạ tiếng ngả lời nghiêng.
Cao thâm đã chứng lòng nguyền,
Còn cầu, còn tháp, còn duyên đôi đứa mình.
Non sông nặng gánh chung tình.
Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm (7)
Rượu hồng đào chưa nhấm đà say.
Lòng ta như chén rượu cay
Lời thề nhớ chén rượu này bạn ơi
Câu hò từ thuở xa xôi
Bao năm còn vọng đậm lời nước non.
Đá mòn, nhưng dạ chẳng mòn,
Tình dân nghĩa nước một lòng sắt non.
Đẹp gì súng giặc anh mang,
Mà đi đốt phá xóm làng hồi anh ?
Hòn Sương không thấp không cao,
Đã từng là chốn anh hào lập thân.
Kìa ai áo vải cứu dân,
Kìa ai ba thước gươm trần chống Tây ?
Chuyện đời thành bại, rủi may,
Hòn Sương cây trải, đá xây bao sờn
Tiếng anh người có học,
Sao anh chẳng nghĩ suy.
Tây bang, anh đi lính làm chi,
Xa cha lìa mẹ, còn gì chữ ân !
Anh ơi ! Nghe lấy lời phân,
Đừng đi lính mộ bỏ thân xứ người.
Tiếng đồn anh hay chữ (2)
Lại đây em hỏi thử
Đôi câu lịch sử Khánh Hòa :
Từ ngày Tây cướp nước ta,
Những ông nào dựng cờ khởi nghĩa
Anh hãy nói ra cho em tường.
- Nghe lời em hỏi mà thương,
Thương người nghĩa liệt tơ vương vấn lòng.
Vì thù non sông,
Họ thề không đội trời chung với giặc ác
Từ Nam chí Bắc,
Thiếu chi gan sắt đá đồng.
Ở Khánh Hòa thì có ba ông :
Ông Trần Đường giữ đèo Dốc Thị,
Ông Trịnh Phong trấn nơi Biển Cù (l)
Ông Nguyễn Khanh lo việc quấn nhu,
Ba ông một dạ, nghìn thu danh truyền,
Một lòng theo ngọn cờ đào,
Thề cùng bạch quỷ (1) có tao không mày:
Muốn xây Độc lập, Tự do,
Phải góp đảm phụ (2) phải lo quốc phòng.
Giàu góp của, khó góp công,
Máu xương không tiếc, năm đồng (3) tiếc chi!
Rau Lĩnh Nam nấu suông mà ngọt
Bưng bát cơm đơm một muốn hai
Trưa nay vừa bức vừa oi
Hái nhanh cho kịp gửi nơi trận tiền
Cà muối xổi, rau dền, cải trắng
Tuy đơn sơ nhưng thắm tình dân
Sớm chiều em tưới em chăm
Cho rau mượt lá, anh ăn mát lòng
Anh giữ súng phòng không vững chắc
Em trồng rau xanh ngắt trên đồng
Rau tiếp luống, đạn lên nòng
Giặc nào thoát khỏi trong vòng tay ta.
Kể từ quân Pháp sang đây
Hại người cướp của bấy nay đã nhiều
Dân tình đồ thán đủ điều
Căm gan tức chí phải liều ra tay
Anh hùng đã tỏ tài trai
Nữ nhi cũng chẳng kém loài bồng tang
Nhớ xưa phất ngọn cờ vàng
Bà Trưng, Bà Triệu chiến trường xông pha
Cai Vàng lại có bà Ba
Tây Sơn bà Phó cũng là anh thư
Xúm tay xoay lại cơ đồ
Dân yên quốc thịnh phất cờ Việt Nam
Từ ngày quân Pháp kéo sang
Chợ Tràng cô Tám cũng gan anh hùng
Dưới trướng cụ Phan Đình Phùng
Bắt quân lính tập vào tròng trăm tên
Lại như vợ lẽ Đội Quyên
Nam trang cải dạng tìm lên núi rừng
Đúc súng đúc đạn, giúp chồng
Đánh cho quân Pháp hãi hùng đảo điên
Bà Ba Đề Thám truân chuyên
Non sông đã trải mấy phen thác ghềnh
Hồng quần nhẹ bước rừng xanh
Trận tiền giáp chiến đao binh vẫy vùng
Hồng nhan nhẹ bước thong dong
Chính bà cũng dự quân trung luận bàn
Bà Lang Seo mở ngôi hàng
Giả đò hương khói đèn nhang bấy chầy
Hà Nội, Nam Định, Sơn Tây
Nghĩa Hưng đảng ấy nay ngày một to
Chuyện năm Canh Ngọ mới vừa
Việt Nam dân đảng bấy giờ lập ra
Chương trình định liệu gần xa
Trước là dân tộc sau ra đại đồng
Cô Giang cũng bực anh hùng
Dốc tâm thề Đảng một lòng trung trinh
Cùng ai thề chữ tử sinh
Chưa chăn gối cũng vẹn tình sắt son
Chia nhau việc Đảng lo tròn
Tài chính cổ động lại còn giao thông
Thất cơ sự đến khi cùng
Tím gan Yên Bái, đau lòng xiết bao
Thế gian mặc chuyện ra vào
Lòng chung xin nguyện trời cao soi cùng
Chàng theo nước, thiếp theo chồng
Tuồng khi dơ dáng sống cùng hôi tanh
Khen chê phó mặc sử xanh
Treo gương đất nghĩa trời Kinh đời đời.
(Vè cô Giang)
Trách vua Tự Đức hai lòng
Đi về bên đạo, bỏ công bên đời
Mần quan ra rồi
Vượt lòng không cạn
Tây sang buôn bán
Viện lấy giữ nhà
Ai biết sự là
Tây sang cướp nước
Khi mới sang, đánh được
Răng không đánh đi cho
Những bậc quan to
Đều cáo quan về lão
Quan huấn, quan giáo
Gánh của về mần giàu
Mần quan lớp sau
Ra tuồng đã khổ
Mần quan hậu thổ
Phải ăn lương nhà
Xuất thân xông pha
Cức mình biết mấy
Tây sang hắn quấy
Hư hại nước Nam
Trở ra mà làm
Nhờ vua ái ngại
Ăn lương vua mãi
Trở lại mần quan với Tây
Đi ra không nhớ nghĩa thầy
Cũng đòi ôm quyển sách
Ba năm vua hạch
Học trò đi thi
Đỗ được ông chi
Cũng nhờ cái phận
Ra trữa chiến trận
Thiên hạ chết nhiều
Mần quan bên triều
Trở lại mần quan bên giáo
Nó thà cáo lão
Cũng như không đi
Như ông quan lĩnh tác vi
Cũng đòi làm quan trữa tỉnh,
Đem Tây đem lính
Đốt biết mấy ngày
Khói lửa chất đầy
Một trời đỏ đậm.
Nhờ quan cậu ấm
Bọc lại bên sông
Đốt phá hại đồng
Nhất là quan lĩnh.
Mần quan trữa tỉnh
Ai được cậy nhờ?
Xuân Liễu, Xuân Hồ
Mần giặc ở mô?
Tây biết hắn vô
Cắn răng mà chịu
Mần đồn Xuân Liễu
Các quan ta kép về Tây
Sức phu chặt cây
Tre gai rào bên đạo
Ông tra, bà lão
Đời thủa mô như ri
Kiếp người năm ni
Mần dân đã khổ
Nho Lâm, Lò Cổ
Đốt biết mấy ngày
Bỏ nhà mà đi
Quyên sắt về rèn đồ hoả mại
Rèn đồ khí giới
Súng ống cho nhiều
Cho đủ phạng, siêu
Tháng năm chưa dễ
Thúc thành đội vệ
Tuyển lại tinh binh
Để chờ triều đình
Viện Tàu về đã
Bỏ mành bỏ giã
Vượt biển sang Tàu
Cho khá mau mau
Sang đến năm sau
Tháng mô không định
Ba mươi sáu tỉnh
Tây giữ nẻo đàng
Tàu không thể sang
Bình Tây giúp nước
Ba mươi năm còn được
Nữa là năm sau
Quyên hết nhà giàu
Khẩn đồn điền cày ruộng
Cối xay ba họng
Đổ biết khi mô cho đầy
Trên trời hết mây
Ta đây mới hết tiền, hết bạc
Hồi buổi loạn lạc
Quấy chắc cho hay
Bên giáo có Tây
Ta đây không có
Tàu sang đã chộ
Ăn hết lương tiền
Giừ phải về cho dân yên
Chứ không mần chi được
Quân ông Lưu lớp trước
Nỏ đánh lại Tây
Huống chi là ta
Lưa ba gian nhà
Đừng còn hăm hở
Đi ra cũng lỡ
Ở nhà không đành
Những kẻ học hành
Thúc thành chưa vội
Dân sự ở túp
Thần thánh ở đền
Tại cả hai bên
Ra rồi quấy chắc
Ai sinh ra giặc?
Ai rước Tây về?
Đốt phá hai xã lưa chi
Từng mô dưới tỉnh cu ly
Từng mô đồn binh thế?
Mần quan trữa tỉnh Nghệ
Cức biết mấy phần
Nỏ lẽ về mần dân
Như các quan văn thân
Ra mần mới phải
Đêm nằm nghĩ lại
Nhớ đến đền chùa
Nghĩ rằng như vua
Đang còn phải chạy
Hồi giừ bay nhảy
Giáo múa, gươm khua
Đặt bõ nhờ vua
Một hồi đã sướng
Như ông quan thượng
Ở trữa tỉnh với Tây
Thi đỗ khoa này
Ra mần như rứa
(Vè trách vua Tự Đức hai lòng)
Hò… lơ… Sông Cửu Long xuôi dòng rẽ nhánh
Thành sông Tiền, sông Hậu có trước có sau
Mặc cho thuỷ triều lên xuống, gợn sóng lao xao
Tình người Mỹ Tho sâu thẩm như đáy sông…ơ… hò
Hò… lơ… Em mua lúa Hồng Đào bán ra chợ Gạo
Ven sông tần tảo nuôi bậu học hành
Bậu mần quan mần Trạng
Rạng danh thành “Dân Biểu Bến Tranh”…ơ…hò
Hò…lơ… ai ngờ vận nước tanh bành…!
Con chim Uyên Ương lẽ bạn
Con chim Nhạn lạc bầy đàn
Ai bày, ai vẽ nên Sư Đoàn Tiền Giang …ơ…hò?
Hò…lơ… nước phù sa Tiền Giang đỏ thắm!
Vì có máu người Trung Lương pha lẫn nước sông
Dòng Tiền Giang cuồng nộ, làm sạt lỡ đôi bờ…
Chứa bao nhiêu xương trắng sông Tiền lạnh không…ơ …hò!
Hôm qua gánh lúa nhập kho
Em vui quá đỗi mà lo quá chừng
Làm sao gìn giữ của chung
Đừng để rơi rớt đau lòng nhân dân
Lúa này tiếp tục nuôi quân
Để anh du kích chống phường xâm lăng.
Nhắm ai hoa thắm lòng tay
Ngát hương Hữu Tiệp mà say Ngọc Hà.
Hoa thơm dải áo sẻ tà
Thơm thơm lá phiếu của ta của mình.
Nhắn ai ươm ngọn dâu xanh
Tơ vàng Tầm Xá uốn quanh sông Hồng.
Ví dù con bế con bồng
Phiếu tươi nét chữ đẹp lòng cả đôi.
Nhắn ai chèo lái ngược xuôi
Thuyền qua Thái Thủy dừng nơi bến Chèm.
Cắm sào quen lại thêm quen
Hẹn năm ba hẹn: chờ quên phiếu bầu.
Nhắn ai se chỉ bấy lâu
Tây Hồ vấn vít trăm mầu tơ vương.
Có đi chung lối chung đường
Chờ chung lá phiếu mà vương chỉ hồng.
Nhắn ai quê ở bên sông
Phú Viên cau thắm trầu không mấy mùa.
Phiếu bầu buổi sớm hay trưa
Để trầu cau gửi cho vừa lòng ai.
Nhắn lời xin giữ lấy lời
Mừng ngày bầu cử thêm vui xóm làng
Ước gì nắng đỡ hanh vàng
Để ai nghiêng nón qua làng cùng đi…