-
|
-
- Ngôn ngữ tục
- Lời toà soạn:
-
- Trong bài “Ngôn ngữ ‘tục’” này, nhà nghiên cứu
Nguyễn Trọng Văn có đề cập đến bài
“Con cặc” của Nguyễn Hưng Quốc vốn được đăng tải trên
talawas cũng như Tiền Vệ từ cuối năm 2003. Bài viết này được NHQ sửa
lại thành chương “Văn hoá tục” in trong cuốn
Mấy vấn đề phê b́nh và lư thuyết văn học do Văn Mới xuất bản tại
California vào đầu năm 2007. Giữa hai bản có một số thay đổi. Chúng tôi
xin đăng lại chương “Văn hoá tục” này để bạn đọc tham khảo. Chúng tôi
thêm từ “bản mới” phía sau để phân biệt với bài
“Văn hoá tục”, đă được đăng trên Tiền Vệ vào tháng 5.2005, vốn là
một ư kiến ngắn, có thể xem như một phần trong bài
“Văn hoá tục” (bản mới)
và cho đến nay, bản mới này có lẽ cũng là
bản hoàn chỉnh nhất về đề tài này của NHQ.
- Xin bạn đọc xem phần hồi âm của NHQ về bài “Ngôn
ngữ ‘tục’” ở cuối bài viết này.
- Tiền Vệ
- ________
- NGÔN NGỮ “TỤC”
- Nguyễn Trọng Văn
- Trước Tết, trên diễn đàn
talawas (18.12.03) tôi được đọc một bài của anh Nguyễn Hưng Quốc với
cái tựa khá bắt mắt
“Con cặc”. Bài này đem lại cho tôi nhiều điều bất ngờ thú vị.Tôi
đang sưu tầm và so sánh ca dao “tục” ngữ liên
hệ tới vấn đề tính dục với hy vọng t́m ra sự khác biệt về triết lư tính
dục phương Đông và phương Tây. Bài của NHQ găi đúng chỗ ngứa. Một đề tài
rất hấp dẫn, ai cũng muốn t́m hiểu nhưng lại ngại nói ra, đành bằng ḷng
với mớ kiến thức mù mờ, thậm chí
mê tín về
sex của ḿnh. Tôi viết bài này nhằm cám ơn anh NHQ đă đặt, đúng ra phải
nói là dám đặt vấn đề một cách công khai và
rất trí tuệ, đồng thời cũng xin nêu ra một số “bức xúc” mong được trao
đổi với anh NHQ và các bạn đọc cùng quan tâm tới vấn đề.[*]
- Bài này gồm ba phần: phần một tóm tắt những ư chính trong
bài của NHQ, phần hai: những điều tôi tiếp thu và những điều tôi không
tiếp thu hoặc c̣n thắc mắc, phần ba: đề nghị một
phương pháp tiếp cận mới cho vấn đề.
- Phần một: Tóm tắt ư chính
- 1. Ngôn ngữ tục liên hệ tới bộ phận
sinh dục, bắt nguồn từ ngôn ngữ thân xác, lấy thân xác làm cơ sở:
- a) “Thân thể là một văn bản của văn hoá, là h́nh thức
biểu trưng trên đó ghi dấu các quy phạm và các thiết chế xă hội.” (Janet
Lee) (trang 1)
- b) Ở Việt Nam, các học thuyết lớn du nhập từ Trung Hoa,
Ấn Độ ít quan tâm đến thân thể nhưng cách nh́n truyền thống của người
Việt Nam lại coi trọng thân thể, được thể hiện bằng từ
người và ḿnh.
“Người là thân thể (người ướt đẫm mồ hôi) là cộng đồng (người Việt,
người Úc) là nhân loại (của người và chuột) Ḿnh là thân thể (ḿnh đau
như dần) là cá nhân cụ thể, ḿnh ngôi thứ nhất (ḿnh thấy rằng...) là
một tập thể, ngôi thứ nhất, số nhiều (ḿnh tính sao đây...)” (tr.1)
- c) “Trong cả hai hệ thống chuyển nghĩa, thân thể là trung
tâm. Trung tâm của thân thể là ǵ nếu không phải là bộ phận sinh dục.”
(tr.2)
- 2. Bộ phận sinh dục không chỉ có tính
sinh lư, vật thể nó c̣n có tính văn hoá, xă hội , liên quan tới văn
minh, quyền lực, chính trị...:
- d) “Đụng đến bộ phận sinh dục là đụng đến văn hoá, thậm
chí đụng đến phần sâu thẳm nhất của văn hoá.” (tr.2)
- e) “Khoái cảm sinh lư là nguyên nhân dẫn đến việc h́nh
thành nhân cách, các học thuyết về dục tính, dục vọng, chủ thể tính đều
dựa trên h́nh ảnh dương vật (hoặc sự thiếu vắng dương vật), lịch sử văn
minh nhân loại là tiến tŕnh đè nén và thăng hoa bản năng sinh lư gắn
liền với bộ phận sinh dục.” (Freud, Lacan) (tr.2)
- f) “Bộ phận sinh dục, thân thể con người là cái được tạo
thành hơn là có sẵn: nó được tạo thành bởi các hoạt động diễn ngôn và
các quy phạm văn hoá trong những hệ thống quyền lực nhất định.”
(Foucault) (tr.2)
- g) “Cặc không chỉ là một vật thể mà c̣n là một kư hiệu,
một ẩn dụ, một biểu tượng, nghĩa là vừa là nó, vừa không phải là nó
(...) Tính biểu tượng ấy làm cho “cặc” trở thành từ đa nghĩa, đa tầng;
nó thâu tóm trong nó cả lịch sử nhận thức và lịch sử thẩm mỹ của một
cộng đồng.” (tr.2)
- 3. Sự khác biệt và hơn hẳn giữa “cặc”
so với “lồn”:
- h. “Chửi tục và và văng tục của người Việt Nam có hai đặc
tính: thứ nhất, hay nhắc tới bộ phận sinh dục, thứ hai, phái nào th́
nhắc tới bộ phận sinh dục của phái ấy (nhờ đặc tính thứ hai mà ta biết
sự khác nhau trong cách nh́n của phái nam và nữ về bộ phận sinh dục của
họ)” (tr.2)
- i) Nam: tự hào, hiên ngang, ngạo nghễ, thách thức / của
quư, lo bảo vệ, sợ mất (thiến)/ phái nữ phải ghen tị, ao ước (penis
envy)/ yếu tố duy nhất xác định tính đực, đàn ông = con cặc. Nữ: Nằm sâu
bên trong, bí ẩn, có mặt mà như vô h́nh, khiếm khuyết / bị coi như cái
dơ dáy, xấu xa, nơi để đầy đoạ, sỉ nhục người khác / không có giá trị tự
tại để trở thành sự tự hào, thách thức / măi măi mang tính sinh lư,
không có tính văn hoá. (tr.3-4)
- k) Cặc là biểu tượng của quyền lực. Cặc nằm ở vị trí giao
điểm của tṛ chơi quyền lực, thói quen tự chủ, tự kiềm chế, không buông
thả theo bản năng, khả năng đâm thọc xuyên thấu, truyền chủng ḍng họ.
(tr.4)
- l) Văn minh phương Tây xây dựng trên một cột trụ chính:
dương vật, chủ nghĩa duy dương vật (phallocentrism) = quyền lực, trung
tâm, chuẩn mực, hệ quy chiếu, đo lường và đánh giá mọi sự vật hiện
tượng. Loài người là người v́ có dương vật, người ta nói mankind chứ
không nói womankind. Cấu trúc mở-cao trào- kết thúc của truyện, kịch
xuất phát từ kinh nghiệm tính dục nam giới, khi đạt tới t́nh trạng sướng
ngất là lúc kết thúc mọi xung đột, mọi vấn đề (tr.4)
- 4. Ư nghĩa của văng tục:
- m) “Văng tục là hành vi thách thức, khiêu khích mạnh mẽ
và táo bạo nhất, chúng khiêu khích với chính quyền lực. Văng tục là một
thái độ phản kháng,một sự nổi loạn” (tr.5)
- n) “Quy phạm văn hoá cũng là một thứ quyền lực. Nổi loạn
để chống lại các quy phạm văn hoá ấy là một hiện tượng thường xẩy ra,
trong đời sống cũng như trong văn học, đặc biệt ở những giai đoạn tính
chất cũ kỹ và sáo ṃn đă đè nặng đến mức gần như không thể chịu đựng
được nữa.
- o) Chính trong cái không khí ngột ngạt, nặng chĩu những
công thức và giáo điều, những sự mệt mỏi và sợ hăi như thế, một tiếng
cặc vang lên sang sảng, nghe rất đă (...)
- Phần hai: Tiếp nhận và hoài nghi
- 1) Những điều tôi tiếp nhận:
- I, 1: a + b + c.
- I, 2: d + f + g.
- I, 3: h + i + k + l. Mỗi yếu tố này, tôi đồng ư một nửa,
không tiếp thu một nửa, như sẽ tŕnh bầy sau.
- I, 4: m + n + o. Như trên , với các yếu tố này tôi nhất
trí một nửa c̣n một nửa không nhất trí.
- 2) Những điều tôi không tiếp nhận
hoặc c̣n thắc mắc:
- I, 2: e. Nơi con người, phần
con
(vật) có tính sinh vật, sinh lư, bản năng như các sinh vật khác (đói th́
ăn, khát th́ uống, con đực thấy con cái th́ xáp tới...) phần
người do văn hoá, giáo dục, xă hội tạo thành
(đói khát nhưng cho ăn uống một cách khinh bỉ th́ từ chối, thấy gái đẹp
th́ thèm nhưng biết tự chủ, tự kiềm chế). Không phải khoái cảm sinh lư
h́nh thành nhân cách, chính việc làm chủ đời sống sinh lư, bản năng mới
giúp h́nh thành nhân cách. Quan điểm phallocentric là một cách lư giải
chứ không phải là cách lư giải độc nhất, hợp lư nhất về lịch sử các nền
văn hoá, văn minh của nhân loại.
- I, 3: h. Văng tục chửi tục của người Việt có tới bốn đặc
tính chứ không phải hai đặc tính: thứ nhất, nhắc tới bộ phận sinh dục,
thứ hai: phái nào nhắc tới bộ phận sinh dục của phái ấy, thứ ba: lôi bố
mẹ,ông bà, tổ tiên người ta ra mà chửi. Người Mỹ chửi: Fuck you! (Đụ
mày!), người Việt chửi: Đụ
má mày!. Nâng cấp ḿnh lên hàng bố mẹ của đối
tượng để mắng mỏ, chửi bới chứ không thèm đứng ngang hàng với nó, thứ
tư: chửi thề, chửi tục được nâng cấp thành văn-hoá, thành thơ văn, có
vần có điệu bộ hẳn hoi, có thể gọi là văn hoá chửi (lộn lèo, lộn vèo,
nắng cực, đá đeo, đấm lại đeo)
- I, 3: i (1) Cặt và Cặc, thứ nào hiên
ngang, hùng dũng và đầy khí thế? Người bênh vực cho “cặt” viện lư
do đọc và nh́n chữ “t” thấy nó mạnh và hiên ngang hơn c̣n chữ “c” thấy
yếu x́u, không khí thế. Nếu nh́n mà
thấy được
một nét chữ là hùng dũng ngang tàng hay yếu x́u, xuội lơ th́ chắc là do
nh́n lại tâm lư, liên tưởng chủ quan
của ḿnh
chứ không phải nh́n vào nét chữ. “T” trông hiên ngang nhờ nét ngang đầy
khí thế và uy lực, “c” yếu x́u v́ luôn ở vị trí 6 giờ. Bạn cũng có thể
liên tưởng cách khác để nói “t” yếu kém
hơn.Ít ra v́ 3 lư do: nó gầy ốm, khẳng khiu so với “c” mập mạp, lực
lưỡng hơn; đầu nó gai góc, vướng víu bất tiện cho việc đi sâu đi sát,
đầu “c” tṛn tṛn, thuôn thuỗn, tiện lợi hơn, “đầu đội nón da loe chóp
đỏ”; “c” lực lưỡng, thần lẫn ra, chóp đỏ loe ra thành khấc càng tốt v́
chính sự nong nới co bóp này tạo cảm giác
đầy khí thế (khác với “t” nhỏ xíu như đuôi chuột ngoáy lọ mỡ!) Cũng nên lưu
ư việc đề cao dương vật, nói về tính hùng dũng, hiên ngang, khí thế...
giả định một mô h́nh dương vật dũng mănh,
luôn luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. Sự thưc không phải, có chiến
tranh và hoà b́nh, lao động và nghỉ ngơi, có mạnh khoẻ và đau yếu, có
ngang tàng và xuôi xị, 9 giờ và 6 giờ.
- i (2) Penis envy hay womb envy?
Freud có cái nh́n kỳ thị và khinh miệt đàn bà, đàn bà kém đàn ông về mọi
mặt v́ không có penis, họ luôn luôn ao ước có một penis như đàn ông. Về
lư luận cũng như thực tế, khó tưởng tượng nổi tại sao đàn bà lại muốn có
dương vật như đàn ông trong khi họ được phú bẩm cho một chức năng đặc
trưng của ḿnh là sinh đẻ, nuôi nấng con cái. Thay v́ nói đàn bà muốn có
dương vật phải nói đàn ông muốn có vú (womb envy) hiểu theo nghĩa đàn
ông ghen tị với những chức năng của đàn bà như mang bầu, sinh con, có
vú, nuôi con bằng sữa, cho con bú, t́nh mẫu tử, sự bao dung che chở...
Chúng ta hoàn toàn có thể nói ngược lại: đàn ông lao vào các hoạt động
khác là để bù trừ cho sự tự ti, thiếu thốn, khát khao một chức năng mà
họ không thể có được!
- i (3) Đàn ông = con
cặc? Công thức này có vẻ như đùa, trong phạm vi chửi tục và
phallocentrism có thể (miễn cưỡng) chấp nhận được nhưng trong phạm vi
lôgích b́nh thường, nó đặt ra một vấn đề rất cộm. Muốn định nghĩa một
khái niệm ta phải xếp nó vào hệ thống
loại và
hạng nhất định.
-
- Vạn vật
Loại
Thành Phố
- Vô Sinh Vật
Sinh Vật
Hạng/Loại
Quận
-
Động Vật Thực Vật
Hạng
Phường
-
- Loại và hạng của khái niệm phản ánh mối quan hệ cái chung
và cái riêng, loại lớn hơn hạng. Vạn vật là loại, sinh vật và vô sinh
vật là hạng; sinh vật chia ra động vật và thực vật, sinh vật là loại,
động vật và thực vật là hạng. Quan hệ giữa các khái niệm có tính tương
đối: sinh vật là hạng so với vạn vật là loại
nhưng sinh vật lại là loại so với động vật và
thực vật (hạng). Muốn định nghĩa một khái niệm ta dùng công thức sau:
Hạng = Loại + đặc tính riêng
- Con người = Sinh vật + có lư trí, có ngôn ngữ, chế tạo
công cụ...
- Con người, con khỉ, con chó, con cua, con gà...đều là
những động vật, làm sao phân biệt con người với các động vật khác? Áp
dụng công thức trên ta có con người là sinh vật như những động vật kia
nhưng nó có những đặc tính riêng có giúp phân biệt nó với các động vật
kia: có lư trí, có ngôn ngữ, biết chế tạo công cụ lao động v.v...
- Định nghĩa Đàn ông = con cặc khó chấp nhận được v́ con
cặc không phải là đặc tính riêng có của đàn ông, con khỉ (đực), con chó
(đực)ù, con dê (đực), con heo (nọc) đều có con cặc! Nếu nhận: Đàn ông =
con cặc th́ ta sẽ có Đàn ông = con cặc, Nhà phê b́nh X = đàn ông, vậy
nhà phê binh X = con cặc. Điều này vô lư!
- i (4) Bên trong, ần dấu, vô h́nh, vắng mặt... là xấu, là
kém? Chưa chắc. Xấu tốt hơn kém là tùy quan điểm.
Nếu bạn chon vị trí một người quan sát, ưa nh́n ngắm, thích sự rơ
ràng, sáng sủa, sự xuất hiện, oai vệ, hiên ngang th́ đồng ư là con cặc
hơn cái lồn v́ nó có những đặc tính mà đối tác của nó không có được. C̣n
nếu bạn chọn vị thế một người lao động, chỉ
chú ư tới quá tŕnh sản xuất và sản phẩm làm ra th́ vấn đề lại khác hẳn,
từ cái nh́n thẩm mỹ (h́nh dáng, đẹp xấu) ta chuyển sang cái nh́n thực
dụng (dùng làm ǵ, hoạt động ra sao, năng suất cao hay thấp, có đạt mục
đích không...) Khi đó cặc – lồn trở thành những bộ phận không thể tách
rời của một quá tŕnh sản xuất, sản xuất ra con người và sự khoái lạc
“Cha là sào, mẹ là thuyền, con cái là khách qua đ̣”. Tách rời cặc và lồn
th́ “lồn câm cặc điếc” nghĩa là cả hai đều trở thành vô dụng, tách biệt
để so b́ hơn kém th́ lại càng ngu xuẩn hơn.
- i (5) Đàn bà không văng, không
trỏ, mà chỉ dùng các từ
bú, liếm, chui, nhét? Không đúng, họ cũng văng (“Lồn!” “Mặt
lồn!”) cũng trỏ (“Lồn tao đây này!”) như đàn ông. Về những chữ
bú, liếm, chui, nhét..., phân tích của NHQ
chưa thoả đáng. Ư
nghĩa
của một câu chữ không nằm trong câu chữ mà nằm trong ư định của người
nói và hoàn cảnh nói. Đối với người nghe cũng vậy. Trong cảnh
chăn gối, thân mật các từ bú, liếm, chui, nhét
đều có ư nghĩa tích cực, và cặc-lồn đi theo những từ đó cũng đều có
nghĩa như của quư, đáng tự hào, đáng nâng niu, cưng chiều (“Bú (lồn) em
đi!”,”Liếm (cặc/lồn) nhè nhẹ thôi!” ) Trái lại, khi tức giận, văng tục,
chửi tục các từ bú, liếm, chui, nhét lại có ư
nghĩa tiêu cực, và cặc –lồn đi theo những từ đó cũng đều có ư nghĩa xấu
xa, đáng ghê tởm (“Bú cặc!” “Liếm lồn bà!” “Nhét cặc vào mồm mày!”) Đ̣i
nhét cặc vào mồm đối phương là cách chửi tục b́nh thường, khá phổ biến
chứ không phải là “khá hiếm hoi”, câu “Nhét cặc vào mồm” cũng tương
đương với câu “Iả vào mồm mày!”; mặt khác, cặc, trong trường hợp này,
phải hiểu là sự bẩn thỉu, ghê tởm, đáng khinh bỉ chứ tuyệt nhiên không
được hiểu là một thứ của qúy, niềm tự hào của đàn ông!
- i (6):Không có giá trị tự tại để trở thành niềm tự hào,
thách thức, măi măi mang tính sinh lư, không thể mang tính văn hoá? Xem
i (4), i (5)
- k. Cặc không chỉ có tính sinh lư vật thể, nó được nâng
lên hàng văn hoá, đa nghĩa, đa tầng, thâu tóm tất cả lịch sử nhận thức ,
thẩm mỹ của con người. C̣n người đàn bà, v́ chỉ có cái lồn mà không có
con cặc nên măi măi chỉ có tính sinh vật, không thể có tính chất văn
hoá? Lập luận trên cực kỳ sai lầm: con người nâng ḿnh từ đời sống tự
nhiên, sinh vật lên đời sống văn hoá, xă hội là nhờ
lao động và
ngôn ngữ chứ không phải
nhờ có một dương vật. Thói quen tự chủ, tự kiềm chế, không buông thả
theo bản năng không phải chỉ dành cho đàn ông, đàn bà cũng có những đặc
tính trên chứ!. Khi nói “đâm thọc xuyên thấu” chúng ta liên tưởng tới
mũi tên, mũi dao, mũi kiếm, đâm thọc để lại một cái lỗ, đâm vào th́ quan
trọng hơn rút ra. Bây giờ hăy liên tưởng ngược lại: có một cái lỗ, có
thể đâm vào và rút ra, rút ra lại quan trọng hơn đâm vào; trong trường
hợp này, tách rời để so b́, nh́n ngắm và hợp tác lao động để cùng sản
xuất và sướng ngất tới bẩy tầng trời thứ nào hay hơn?
- l. Đoạn này là một thí dụ điển h́nh cho phép
chứng minh và bác bỏ
trong lôgích học. Chứng minh là khẳng định tính đúng đắn của một phán
đoán, một kết luận, c̣n bác bỏ là phủ định tính đúng đắn của phán đoán
kia. Chứng minh và bác bỏ đều cần ba yếu tố: luận đề, luận cứ và luận
chứng nhưng bác bỏ lợi hại hơn v́ chỉ cần bác bỏ được một trong ba yếu
tố là đủ để đánh sập toàn bộ lư luận của đối phương.
- Chứng minh:
- Luận đề:
- Con cặc là biểu tượng của quyền lực, là trung tâm, hệ quy
chiếu, đo lường và đánh giá mọi sự vật, hiện tượng.
- Luận cứ:
- a. Loài người được dịch là MANKIND, chứng tỏ đàn ông, con
cặc tiêu biểu cho loài người.
- b. Cấu trúc mở-cao trào-kết thúc của kịch nghệ, tiểu
thuyết xuất phát từ kinh nghiệm dục tính của nam giới, khi đạt tới sướng
ngất là kết thúc mọi vấn đề.
- Luận chứng:
- Cách sắp xếp các lư lẽ, chứng cớ một cách hợp lư, thuyết
phục để người nghe chấp nhận luận đề của mính, “tâm phục khẩu phục”.
- Bác bỏ: (bác bỏ luận cứ)
- Luận đề:
- Con cặc không phải là biểu tượng của quyền lực cũng không
phải là trung tâm, hệ quy chiếu, đo lường và đánh giá mọi sự mọi vật.
- Luận cứ:
- a) Màng trinh, HYMEN, đặc trưng riêng có của đàn bà mới
tiêu biểu cho loài người. Trong mankind, man,
số ít, chỉ tiêu biểu cho một người, trong
hymen,
men, số nhiều, đây mới thực tiêu biểu cho loài người. [Xem phụ chú
[**]] (Ở phương Đông, đàn ông, dương, được
thể hiện bằng 1 vạch, số ít c̣n đàn bà, âm, được thể hiện bằng 2 vạch,
số nhiều)
- b) Cấu trúc mở-cao trào-kết thúc trong kịch, tiểu thuyết
xuất phát từ kinh nghiệm dục tính của
đàn bà
v́ về mặt này đàn bà hơn hẳn đàn ông: thứ
nhất, bộ phận sinh dục nữ tinh vi, hoàn chỉnh hơn (lỗ đái lỗ đẻ có lối
đi riêng, nơi đàn ông lỗ đái và lỗ dẫn tinh phải sử dụng chung một hành
lang), thứ hai, chức năng sinh nở đặc trưng của đàn bà, đàn ông có mơ
cũng không có được, thứ ba: về hoạt động tính dục , đàn bà mạnh hơn đàn
ông nhiều, họ có thể đạt
vô số lần sướng ngất
(orgasm) một đêm trong khi đàn ông quá lắm chỉ 3,4 lần là cùng!
- Luận chứng:
- T́m mọi cách để bác bỏ luận đề, luận cứ của đối phương,
buộc họ phải “tâm phục khẩu phục” chấp nhận lập luận của ḿnh.
- I, 4: m. “Khiêu khích mạnh mẽ và táo
bạo nhất: chúng khiêu khích với cả chính quyền. Văng cặc, do đó, trở
thành một thái độ phản kháng và một sự nổi loạn”. Chưa chắc, nếu
xét về mặt dụng pháp và về tính hữu hiệu.
- n, o: “Chính trong cái không khí ngột
ngạt, nặng trĩu những công thức và giáo điều những sự mệt mỏi và sợ hăi
như thế, một tiếng “cặc” vang lên sang sảng nghe rất đă.” Câu
này, rất tiếc, đă phá vỡ toàn bộ giá trị của bài văn, nó cho thấy NHQ
chẳng hiểu ǵ về ư nghĩa thực sự của văng
tục, nhất là những câu văng tục cực ngắn. Tôi có một kinh nghiệm sống
thực được / bị nghe câu chửi tục cực kỳ ngắn gọn kiểu trên , xin kể tặng
bạn NHQ nghe cho nó đ...ă. Hôm đó là buổi ôn thi môn Lôgich, tôi dặn vài
bí kíp làm bài trắc nghiệm, cả lớp im phăng phắc chăm chú ghi chép, bỗng
“Đụ má!”, một tiếng chửi rất lớn, vang lên ngoài hành lang. Một anh thợ
hồ, đang bực tức căi cự với đám bạn đă chửi toáng lên như vậy, mấy người
kia lảng đi không thèm trả lời, chưa hả giận anh bồi thêm một câu nữa
“Con c...ặ...c!” lần này câu chửi c̣n lớn hơn nữa,
vang lên sang sảng. Một lúc sau nhân viên nhà trường tới mời anh
vào văn pḥng. Điều đáng nói trong vụ này là sinh viên, ngay cả những em
ngồi gâàn cửa sổ, đă tỏ ra rất điềm tĩnh: không cười hô hố hưởng ứng
theo, không nhổm lên xem cái ǵ xẩy ra bên ngoài , không nh́n tôi với ư
phân bua, chê trách người chửi tục, sự trầm tĩnh mang vẻ ái ngại, tha
thứ hơn là chê trách. Rồi thầy tṛ lại tiếp tục ôn thi,
coi như không có chuyện ǵ xẩy ra. Một câu
chửi, dù tục tĩu tới đâu nhưng
tách khỏi khung cảnh
muốn chửi sẽ mất hết ư nghĩa và phản tác dụng, nó chẳng nói lên được
điều ǵ ngoài việc tự tố cáo sự thiếu văn hoá của chính người chửi.
- Phần ba: Một phương pháp tiếp cận mới
- 1) Giới thiệu
- Một vấn đề thường có nhiều cách tiếp cận. Phương pháp
tiếp cận mà tôi muốn giới thiệu với các bạn dựa trên ba khoa học: công
nghệ thông tin, ngữ nghĩa học và phép biện chứng. Ở công nghệ thông tin,
tôi lấy được một ư: các nền văn hoá, văn minh, tôn giáo, triết học, giáo
dục, văn học nghệ thuật v.v... đều là những dạng thông tin (nghĩa là
phát-nhận-phản hồi các kư hiệu thông tin, chữ nghĩa,
ngôn ngữ từ thế hệ này qua thế hệ khác, cá nhân này qua cá nhân
khác). Ở ngôn ngữ học, tôi chú ư về mặt dụng pháp (nói,viết
để làm ǵ) trong ba ngành của ngôn ngữ học
(ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa) tôi chỉ chú ư tới ngữ nghĩa học, trong môn
học này tôi chỉ quan tâm một điều:
ư nghĩa của một
câu chữ (một văn bản, tác phẩm) nằm ở đâu? Đối với phép biện
chứng, tôi dùng được hai ư: a) Mọi sự vật đều biến chuyển, không phải
theo đường thẳng (luôn luôn đổi mới, không
gặp lại những vấn đề cũ, có khởi điểm có tận cùng) hay
đường tṛn (đời đáng chán, nhân loại quay đi
quay lại những vấn đề đă được đặt ra từ hàng ngàn năm nay như sinh lăo
bệnh tử; thờ kính thần linh, lao động sản xuất, chiến đấu bảo vệ đất
nước, không có ǵ mới dưới ánh mặt trời...) mà theo
đường xoáy ốc (trở lại những vấn đề cũ nhưng ở một tŕnh độ cao
hơn, một bản chất mới hơn; thí dụ: so với đấu tranh bất bạo động của
Gandhi, cách đấu tranh của Thích Quảng Đức tính chất đại hùng đại lực
đại từ bi cao hơn nhiều) b) Biện chứng của tư duy quan trọng hơn biện
chứng tự nhiên, tự nhiên không có ư nghĩa ǵ
cả, chính biện chứng của tư duy
đem lại ư nghĩa
cho biện chứng tự nhiên. Cần suy nghĩ độc lập, sáng tạo, nhất là liêm
khiết trí thức (không nói có thành không, nói không thành có, đủ dũng
khí để bảo vệ điều ḿnh tin là đúng là tốt đồng thời đấu tranh với điều
ḿnh nghĩ là sai, là xấu , xuất phát trước nhất từ chính ḷng ḿnh)
- Từ đó tôi đi tới 4 tiền giả định
có tính phương pháp luận như sau:
- 1. Cuộc đời nói chung, tôn giáo, triết học, sinh hoạt văn
học nghệ thuật nói riêng là một quá tŕnh
thông
tin-phản hồi liên tục.
- 2. Hết ṿng này tới ṿng khác, từ thấp lên cao, quá tŕnh
thông tin luôn luôn có những yếu tố mới xuất
hiện, trong thời gian và hoàn cảnh mới.
- 3. Văn hoá, văn minh thể hiện qua ngôn ngữ, chữ viết.
Hiểu được ư nghĩa của ngôn ngữ chữ viết th́
có thể lư giải được những vấn đề lư thuyết và thực tiễn.
- 4. Ư nghĩa, niềm tin và giá trị
liên hệ chặt chẽ với nhau. (Anh
tin rằng
ư nghĩa anh phát hiện ra là
đúng nhất, hay nhất nên anh mới nói ra, viết
ra hoặc hành động như vậy). Tuy nhiên ư nghĩa này có thể được phát hiện
dần dần, niềm tin có thể đúng hay sai, giá trị có thể thay đổi.
- Ta có thể mô tả quá tŕnh thông tin xoáy ốc qua 4 bước
như sau:
- Ghi chú:
- 1. Quá tŕnh liên tục, xoay tṛn và nâng cao dần dần, tri
thức và hành động ở (1+2+3) là
phương tiện để
thực hiện mục đích cuối cùng (4) là hạnh phúc
của con người, sự phát triển toàn vẹn nhân cách v.v... Lẫn lộn phương
tiện và cứu cánh là ngây thơ, gian lận hoặc một tội ác.
- 2. Bước 1 là tiếp nhận thông tin từ kho tàng tri thức của
xă hội, của nhân loại (tôn giáo, triết học,
văn hoá tư tưởng...) bước 2: chế biến tri thức chung đó thành tài sản
riêng , tin tưởng và tự hào về vốn liếng tinh thần
của ḿnh. Nhờ vậy cái chung tồn tại trong cái riêng và bất cứ cái
riêng nào cũng là cái chung. Bước 2 bộc lộ tính độc lập, sáng tạo và
tinh thần trách nhiệm của người tiếp nhận thông tin. Bước 3: bằng sản
phẩm vật chất hay tinh thần lại dâng hiến đóng góp của ḿnh cho xă hội,
cho nhân loại. Bước 4: vay trả, trả vay theo ṿng quay của cuộc đời, với
hy vọng đóng góp phần nhỏ bé cho hạnh phúc của con người.
- 3. Tới bước 4 lại quay trở lại bước 1 (thông tin mới mẻ,
cập nhật hơn...) bước 2 (xử lư khôn khéo, sáng tạo hơn...) bước 3 (hành
động hữu hiệu hơn...) bước 4 (con người phát triển hơn về mọi mặt...)
v.v... cứ như vậy măi măi. Cuộc đời là nhận-phát, nhận-phát, mă hoá-giải
mă vô tận. Cuộc đời luôn sáng tạo những giá trị mới. Không có ư nghĩa
đầu tiên, cũng không có ư nghĩa sau cùng.
- 4. Chuẩn mực đánh giá căn cứ trên chính 4 yếu tố của quá
tŕnh thông tin: Thông tin: lượng thông tin
mới hay cũ, đúng hay sai, khách quan hay thành kiến, trọn vẹn hay cắt
xén v.v... Xử lư /Tin: Biến tri thức chung
thành tài sản riêng, có phê b́nh, sáng tạo hay chỉ biết nhai lại như ḅ
hoặc biến ḿnh thành giai cấp “thông ngôn mới” (chữ latinh, chữ Nho, chữ
Nhật, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nga v.v...). Niềm tin đúng
hay sai, tiến bộ hay lạc hậu, cởi mở khoan dung hay cố chấp, giáo điều
v.v... Hành động: nhằm
mục đích ǵ, biến những lư tưởng tôn giáo, triết học thành hiện
thực hay coi tất cả những thứ đó (thông tin, tôn giáo, chủ nghĩa, triết
học, lư thuyết văn học nghệ thuật) chỉ là phương tiện giúp đạt cứu cánh
cuối cùng là phục vụ hạnh phúc con người?
Cứu cánh: Được coi là đúng, là tốt những tư tưởng, hành động
nào khẳng định địa vị con người, giúp con người tạo dựng hạnh phúc, phát
triển nhân cách; bị coi là sai, là xấu, là có vấn đề những tư tưởng,
hành động nào coi con người là phương tiện để phục vụ những cứu cánh giả
tạo bên ngoài, bên trên con người (có thể t́m thấy những dấu vết đó
trong các tôn giáo hoặc chủ nghĩa đang trở thành giáo điều, lỗi thời).
- Trong phạm vi lư luận, phê b́nh, ngoài các chuẩn mực
trên, có thể thêm một số chuẩn mực thiết thực hơn: a) Những tiêu chuẩn
cần khách quan, được sự nhất trí của những nhà chuyên môn và của số
đông, b) Khả năng lư giải sâu rộng hơn, c) đặt trở lại toàn cảnh, giúp
vấn đề trở nên sáng tỏ hơn
- 2) Trở lại vấn đề ngôn ngữ tục
- Hăy lấy ngôn ngữ tục như một
đề tài minh hoạ cho phương pháp tiếp cận trên . Bốn bước phải làm được
thể hiện cụ thể như sau:
- 1) Những thông tin tổng quát về vấn đề ngôn ngữ tục.
- 2) Xử lư tin và tin. Các thông tin rất
tổng quát (văn hoá phương Đông, phương Tây, giao thoa giữa các nền văn
minh...) và riêng lẻ (bài báo, sách vở, tài liệu của các tác giả trong
và ngoài nước) đă được xử lư, lựa chọn và chế biến thành tài sản riêng.
Nói và viết không phải là thể hiện tri thức nói
chung nữa mà là thể hiện
niềm tin vào tri
thức được tư hữu hoá
của ḿnh, nếu
niềm tin này sai th́ mớ tri thức được nói hoặc viết ra cũng sai.
- 3) Hành động. Biến niềm tin thành hành
động nói-viết-làm cụ thể.
- 4) Mục đích. Mọi hoạt động tôn giáo,
chính trị, xă hội, văn học nghệ thuật đều trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm
đề cao địa vị con người, tạo điều kiện kiến tạo hạnh phúc, phát triển
nhân cách v.v... Xét tới mục đích cũng là xét tới chuẩn mực đánh giá; v́
là những chuẩn mực khách quan có thể kiểm
chứng được nên những chuẩn mực này hoàn toàn có thể dùng để đáng giá
sáng tác của người khác và của chính ḿnh. Không có chuyện chủ quan,
thiên lệch, “mèo khen mèo dài đuôi”.
- Bước 1: Thông tin về
vấn đề
- Chúng ta có những thông tin rất phong
phú, từ nhiều nguồn về vấn đề, có thể khái quát dưới cái nh́n so sánh
như sau:
- Bước 2: Xử lư tin/Tin
- Nhờ đối chiếu điểm mạnh điểm yếu của hai bảng A và B, với
óc phê b́nh và sáng tạo tôi loại bỏ những thông tin sai lầm (tổng quát
và cá nhân) và củng cố, phát triển những thông tin đúng đắn, hợp lư,
biến chúng thành hệ thống riêng có của ḿnh. Tôi tin mănh liệt vào hệ
thống này (có thể đúng hoặc sai) và bắt tay vào việc nói – viết- hành
động.
- Bước 3: Hành động
- i) Triết học âm dương tương phản
tương hợp phương Đông chú ư về mối tương quan giữa các sự vật hơn
là tới từng sự vật riêng lẻ. Vị trí con người trong quan hệ Thiên- Địa
–Nhân, vị trí của cái bụng trong thân thể con người, ta có bảng đối
chiếu các mối quan hệ như sau:
- Con người là trung gian giữa Trời và Đất, giới tự nhiên
sinh vật và giới văn hoá, tư tưởng; nơi con người th́ bụng là trung gian
giữa đầu và chân (chứ không phải là bộ phận sinh dục nam hay nữ). Các
học giả nước ngoài thường nói người Việt suy nghĩ bằng cái
bụng v́ thấy nói
sáng dạ,
tối dạ chứ không thấy nói thông minh hay ngu dốt. Thật ra vấn đề
quan trọng và thú vị hơn nhiều:
- Bụng liên hệ tới đầu, trí khôn, tư
tưởng: sáng dạ, tối dạ, lớp vỡ ḷng, học thuộc ḷng, nhớ nằm
ḷng, ghi ḷng tạc dạ, sáng mắt sáng ḷng, lú gan lú ruột (vợ Cuội bị
cướp giết moi hết ruột gan, phải thay bằng ruột chó nên thường lơ đễnh,
dặn đâu quên đó, lú gan lú ruột), nhớ canh cánh bên ḷng, binh giáp tàng
hung trung, to đầu mà dại bé dái mà khôn...
- Bụng liên hệ tới t́nh cảm, cảm xúc,
đam mê: tốt bụng, xấu bụng, ḷng tốt, ḷng nham hiểm, nói để
bụng, giận tím gan tím ruột, rầu thúi ruột, nghe hả dạ, một ḷng một dạ,
ḷng thành với trời Phật, Chúa ḷng lành, gan cóc tiá, những người có
ḷng, cả gan, nóng ruột, nóng ḷng, mát ruột, thề ăn gan uống máu, miệng
Nam mô bụng bồ dao găm, ḷng mẹ thương con, ḷng lang dạ thú, tức lộn
ruột, tức ḿnh, cười bể (vỡ)bụng, gỡ rối tơ ḷng, máu chẩy ruột mềm,
ḷng vả cũng như ḷng sung, bấm bụng mà chịu...
- Bụng liên hệ tới bản năng, dục vọng,
tính dục : ăn nằm, phải ḷng, con lợn
ḷng, ngọn lửa ḷng, nén ḷng dục, ḷng tham làm mờ con mắt, khơi ngọn
lửa ḷng, dạ con, thèm chẩy dăi, nuốt nước miếng, no bụng đói con mắt,
nhất lưỡi nh́ râu tam đầu tứ củ...
- Bụng liên hệ tới thần linh, giới tự
nhiên, văn hoá...: Trời giầu ḷng nhân hậu, thần Xương Cuồng ḷng
dạ độc ác, ḷng sông, vùng ḷng chảo, an nghỉ trong ḷng đất, chôn nhau
cắt rốn, bụng làm dạ chịu, được ḷng ta xót xa ḷng người; thuyền ơi có
nhớ bến chăng, bến th́ một
dạ khăng khăng đợi
thuyền; tḥ tay mà bứt lá ng̣, thương anh
đứt ruột
giả đ̣ ngó ngơ...
- ii) Bộ phận sinh dục
- Cách gọi tên, đặc tính, chức năng của bộ phận sinh dục
nam và nữ thể hiện triết lư âm dương tương phản tương hợp. Âm-dương,
trên-dưới, trong-ngoài, sáng- tối, rỗng-đặc, lồi lơm- đầy vơi... Qua cái
nh́n của triết lư phồn thực, bộ phận sinh dục nam –nữ không phải chỉ để
nh́n ngắm (voyeurisme) mà phải phối hợp với nhau nhằm hoàn thành một
chức năng nào đó (truyền chủng+ tạo khoái lạc) Vô thức tập thể và cá
nhân đều thể hiện cách nh́n trên .
- Ở những nhân vật thần thoại, bộ phận sinh dục cũng có
kích cỡ rất thần
thoại:
Lồn bà Nữ Oa bằng ba mẫu ruộng,
Cặc ông Tứ tượng bằng hăm bốn (băm bốn, năm
bốn...) con sào. Đám cưới của họ lại càng
thần thoại
hơn:
- Khi họ nhà trai đến nhà gái, th́ trời bỗng nhiên
tối sẫm lại, v́ bà Nữ Oa vô t́nh thả váy bà xuống, úp chụp mặt đất, che
kín mặt trời. Để đến được nhà gái phải qua một con sông. Tối ṃ ṃ lại
không có thuyền làm cách nào để qua sông được đây? Mọi người đang lúng
túng th́ Tứ Tượng bèn nghĩ ra một cách. Chàng lấy
dương vật của ḿnh vắt ngang qua sông
làm cầu cho mọi người đi. Họ nhà trai đang đi trên cầu th́ cụ già cầm
hương vô ư để tàn lửa rơi xuống cầu. Bị bỏng, Tứ Tượng co dương vật lại.
Cầu đột ngột co lại như thế làm cho cả họ nhà trai rớt ṭm xuống sông.
Nữ Oa vội vén váy lên, thế là trời lại sáng. Thấy họ nhà trai ngă xuống
sông, Nữ Oa bèn lấy tay vốc cả bọn ở dưới nước lên, thấy họ đều bị ngấm
nước, rét run cầm cập, Nữ Oa bèn sưởi cho họ bằng cách
nhét tất cả vào âm hộ của ḿnh... Hơi ấm
của Nữ Oa làm cho tất cả đều hồi sức.Nữ Oa lại
móc họ ra khỏi âm hộ của ḿnh. Tuy gặp sự cố nhưng cuối cùng đám
cưới cũng kết thúc tốt đẹp (...) Về sau Nữ Oa
bày cho nam nữ cách giao cấu để sinh con đẻ cái (...)
- Từ những h́nh ảnh trên , chúng ta hiểu tại sao Hồ Xuân
Hương lại nói Cán cân tạo hoá rơi đâu mất,
miệng túi càn khôn khép lại rồi;
mát mặt anh hùng khi tắt gió,
che đầu quân tử lúc sa mưa; một bên con khóc
một bên chồng, bố cu lỏm ngỏm ḅ trên bụng, thằng bé hu hơ khóc dưới
hông...
- Đực: Bố, cha, chồng, trống,
trai, giai, cồ (Đại Cồ Việt, trứng có cồ) gồ, buồi, cặc, dái, cu, cu tí,
chim, con cặc, dương vật, ông Lậc Cậc bà Lậc Cậc (ông Lậc Cậc có liên hệ
ǵ với cặc, bà Lậc cậc có liên hệ với bà cộc?)
- Cái: Mẹ, u, má, mái, cái, gái,
vợ, mẹ đĩ, lồn, hĩm, trôn, chim, âm vật, cửa ḿnh, ông Cồ bà Cộc. Gọi là
thằng cu, cu tí, con hĩm, cái hĩm chứ không
gọi là thằng hĩm, cu hĩm. Chim hiểu như danh
từ có thể dùng để chỉ bộ phận sinh dục bé trai hoặc bé gái (ông bà
thường nựng nịu hôn má, hôn chim cháu (trai/gái) và khen nức nở: Thơm
quá!) Chim hiểu như động từ dùng chỉ sự ve văn, tán tỉnh, con trai tán
tỉnh con gái gọi là chim gái, con gái cũng ve văn con trai: gái đâu có
gái lạ đời, chỉ c̣n thiếu một ông trời không
chim)
- Rỗng –Đặc: Mồm, miệng, răng,
bụng, ruột, ḷng, dạ, dạ dầy (bọc chứa thức ăn) dạ con (bocï chứa đứa
con) lỗ mồm, lỗ ỉa, lỗ đái, lỗ đít, lỗ lồn. Ḷng và lồn h́nh như liên hệ
với nhau (rỗng, luồn lỏi, len lách, lú ra, lộ ra), ở các lỗ kia: tiếp
nhận dữ liệu, xử lư, chế biến dữ liệu, rồi tới đầu ra là đồ phế thải,
trái lại lồn có đặc tính khác hẳn: input là nguyên vật liệu chưa thành
phẩm, sau khi chế biến nhào nặn output trở thành sản phẩm chất lượng
cao. Dạ, dạ con liên hệ tới cái túi, cái bao (túi càn khôn, tuí hồ lô,
bourse, đàn ông như giỏ, đàn bà như hom) do
đó tới b́u, dái, buồi. Nẩy mầm, nứt mộng, hé mở, nứt, hẻm, hơm,
hĩm, nứt ra một
lỗ
hỏm ḥm hom, tối om om... Liên hệ tới dạ con, có một từ rất quan trọng
là từ nhau: ống dẫn truyền máu, sự sống từ mẹ
sang con, từ ư nghĩa sinh vật học (đă ra hết nhau , cắt rốn,)
nhau mang ư nghĩa văn hoá xă hội (nơi chôn
nhau cắt rốn) và sau cùng dùng để chỉ mối quan hệ qua lại giữa con người
với con người và sự vật (ăn nằm với nhau, yêu nhau, tù ti với nhau, làm
quen với nhau, ghét nhau, chửi nhau, đánh nhau, con người và thiên nhiên
có mối quan hệ với nhau ...)
Thân, ḿnh th́ cô đơn, độc lập,
nhau chỉ sự hỗ tương, liên lập.
- Lồi - lơm: G̣ má gồ lên, u,
mu, mu rùa, mu lồn, mái nhà, mả, trống mái, mẹ. Ông Cồ: gồ lên một cục,
một quả, một củ, củ cặc; ngổ ngáo, ngông,
ngang tàng, tồng ngồng, ngẩng lên, ngửng,
nứng,
nựng, nhẩy cẫng, cứng, cửng. Bà Cộc: cụt (áo
cộc tay, cụt tay) hụt (hơi), thụt (két), thọt (chân), thiếu (tiền), thâm
lạm (công quỹ), lẹm (cằm), lơm (sâu, thụt vào) hẹp ( nhỏ hẹp) hẻm (đường
nhỏ, hẹp) kiệt (đường nhỏ, hẹp, kẹt giữa hai dẫy nhà)
hĩm (lỗ nhỏ, hẹp, giữa hai cánh cửa nhỏ hẹp -
cửa ḿnh). Lồn có liên hệ ǵ với Yoni không?
- Đầy – Vơi: Động tác âm dương
giao hoà là đắp cho đầy, chồng cho kín, thừa thiếu bù qua đáp lại. Vợ là
vơ vào, kéo lại, chồng là chồng lên, phủ cho kín? Làm đặc cái rỗng, làm
rỗng cái đặc, làm đầy cái vơi, làm vơi cái đầy tương tự như thần thoại
Androgyne của Platon với cặp tương phản thừa và thiếu. Đắp đầy, lắp đít,
đụ, đéo, địt, đĩ, đút, đếch, lẹo tẹo tù ti (liền tù t́, dính lại với
nhau) Kết quả: có bầu, có thai, có chửa (rỗng thành đặc) rồi sinh đẻ,
khai hoa nở nhụy (đặc thành rỗng – hoa là lồn của cây) đưá trẻ như nụ,
nhụy, nhú, nhô ra. Nó bú, mút, nút vú (vú, nhũ, nhô lên, đựng sữa) vú
sữa căng đầy th́ đưa trẻ bụ bẫm, mập mập, mũm mĩm, từ nhỏ, nhỡ, nhớn
dần. Với cặp tương phản mặt (trên, trước) và
đít
(dưới, sau) ta có trung giới là miệng, bụng, trôn: lấy trôn nuôi
miệng, trên răng dưới dái. Trai gái gần nhau sinh chuyện th́ dân gian
gọi là lửa gần rơm lâu ngày phải bén tức là
phải
ḷng nhau, ăn nằm với nhau; nếu lâu
ngày mà không bén th́ gọi là lồn câm cặc điếc,
cả hai trở thành đồ vô dụng, không hoàn thành chức năng của chúng!
- iii) Ngôn ngữ tục
- a) Con người là trung gian giữa tự nhiên và văn hoá, yếu
tố con cho thấy con người có đời sống vật
chất, bản năng, sinh vật như những động vật khác, yếu tố
người chứng tỏ con người nâng ḿnh từ nếp
sống sinh vật, tự nhiên lên nếp sống văn hoá, tư tưởng. Yếu tố giúp con
người chuyển từ tự nhiên sang văn hoá chính là
lao
động và ngôn ngữ. Trước khi có con
người biết lao động, nói năng, viết lách, giới tự nhiên có đấy nhưng
hoàn toàn không có tên gọi, không có một ư nghĩa ǵ. Nhờ ngôn ngữ, chữ
viết con người gán ư nghĩa cho mọi sự mọi vật, khả năng mă hoá và giải
mă, gán nghĩa và giải nghĩa là một khả năng đặc biệt của con người:
chính nhờ khả năng này con người tự nâng ḿnh lên hàng chủ thể văn hoá
đồng thời giúp mọi sự vật trong giới vật chất, tự nhiên tham dự vào nếp
sống văn hoá của ḿnh. Bằng cách đăït tên và gán cho chúng một ư nghĩa.
Vấn đề là các chữ, các khái niệm của ngôn ngữ, trong đó có ngôn ngữ tục
đă được thành h́nh như thế nào.
- Lưu ư:
- - Tại sao các từ chỉ động tác sinh lư thường bắt đầu bằng
phụ âm đ ? Trong số những từ này có một từ
đồng âm lưỡng nghĩa: địt (tiếng Bắc là động
tác sinh lư, cođter, faire l’ amour (P) to fuck,to make love (A)
địt, tiếng Nam: đánh rắm, x́ hơi – péter (P),
to fart (A)
- - Các từ đụ, đéo, địt được
hiểu theo hai nghĩa: truyền chủng + tạo khoái lạc, c̣n từ
chơi nặng về t́m kiếm khoái lạc hơn. Tương
đương với đụ, đéo, địt tiếng ta có faire
l’amour (P), to make love (A) hai từ này rất ư nghĩa, động tác sinh lư
là một thứ lao động, hoặc sản xuất ra đứa trẻ
hoặc sản xuất ra sự khoái lạc, c̣n chữ
play
th́ coi như tương đương với chữ
chơi: chủ yếu
là t́m khoái lạc. Người ta ưa dùng chữ
dân chơi,
playboy, playgirl hơn gái chơi, làng chơi.
- Xuất phát từ những h́nh ảnh vô thức tập thể và cá nhân vô
cùng mung lung, huyền hoặc của các dân tộc (tạo dựng trời đất, đội đá vá
trời, cột trụ trời, đếm sao, đào sông xây rú...) tôi tự hỏi những con
người thần thoại đầu tiên đó làm nghề ǵ mà nói tới
lao động, sản xuất? Không thể là
nhà văn, nhà
thơ v́ với chữ nghĩa làm sao xây cột trụ trời (thần thoại Việt,
Mường, Mèo, Thái, Ba Na...) cũng không thể là nhà
thiết kế thời trang v́ hồi đó ông Adam và bà Eve ở truồng đâu
biết tới quần áo, tôi nghi rất có thể họ là
công
nhân xây lắp của một xí nghiệp lớn liên lục địa. Nghề của họ,
bằng những động tác mạnh mẽ,
đục đẽo, đóng
khớp, đóng ngàm, kết nối các nguyên vật liệu
là làm đặc cái rỗng, rỗng cái
đặc, đầy cái vơi, vơi cái
đầy nhằm tạo ra được một công tŕnh đồ sộ, hữu ích cho nhân loại
(Ai vác dùi đục đi hỏi vợ/ hay ăn đi ở vú,
hay đú đi làm nàng hầu / đêm đông đốt đèn đi
đụ đĩ / đỏng đảnh, đú đởn, đắp đít, đắp đập)
Từ những liên tưởng miên man trên tôi hiểu được tại sao các động tác
đụ, đéo, địt , đếch, đút giữa người nam và
người nữ lại có thể tạo ra những tiểu phẩm kháu khỉnh ngộ nghĩnh (truyền
chủng) hoặc những khoái cảm sướng ngất đưa con người lên tận chín tầng
mây xanh (tạo khoái lạc). Thế nhưng
đánh rắm
(tiếng Bắc) và địt (đánh địt, tiếng Nam) có
liên quan ǵ với chức năng truyền chủng hay tạo khoái lạc đâu?
Đánh rắm và
đánh
địt đều là đánh nghĩa là dùng một sức mạnh
tác động lên một sự vật (kênh xáng,
xáng cho
một cái bạt tai / mẹ tôi xáng cái địt, cha
tôi cưỡi ngựa chạy như hít, chạy đi chạy lại địt mẹ chưa khít...) Cả hai
đều đùn đẩy một sự vật ǵ từ
trong ra ngoài,
gây mùi khó chịu (văi rắm, văi địt, văi cứt / trong hang trong hốc lốc
nhốc ḅ ra, cả huyện cùng nha không ai bắt được / trông ra nào thấy đâu
nào, hương thừa dường hăy ra vào nơi đây) Cái được đẩy ra ngoài là
đồ phế thải (pet honteux = rắm ngầm, pet de
maçon = rắm văi cứt) Tuy nhiên, địt (đánh địt) và đụ rất khác nhau: ï
một đằng thuộc chức năng bài tiết, một đằng thuộc chức năng truyền chủng
và tạo khoái lạc. Dĩ nhiên người ta cũng hay nói
ăn,
ngủ, đụ, ỉa nhưng cái khoái do bài tiết không thể so sánh với cái
cực khoái kia được. Khi coi địt
hoặc
đánh địt có nghĩa là
đánh
rắm th́ ta chú ư tới đặc tính gây tiếng và gây mùi (đánh rắm
ngầm, bỏ bom, cây thối địt / bủm - chỉ túm miệng túi ǵ đó, bủm - là
tiếng “ắm” thối theo gió, càng nín - lại càng nổ tiếng to, chó cũng giật
ḿnh - vẫy đuôi gió) khi coi địt
là
đụ, đéo th́ chúng ta chú ư tới mặt chức năng
và mục đích của thao tác.
- b) Ở một tŕnh độ cao hơn, ngôn ngữ tục để chỉ cơ quan
sinh dục và bài tiết hoặc động tác của chúng đều có một ư nghĩa văn hoá,
tách khỏi ư nghĩa vật chất, sinh lư. Để vui đùa, giải trí / để mô tả
những t́nh cảm tâm lư, xă hội để chửi tục một cách văn hoá (văn hoá
chửi)
- -Dán bùa lồn mèo: việc làm khó khăn, vô ích
- -Đĩ cái, đĩ đực, đĩ ngựa, gái đĩ trăm thằng, ngủ
với trai
- -Phá trinh, chữ trinh c̣n một chút này, hoa tàn
nhụy rữa
- -Thối địt, thối dái, thối mồm, thối ruột
- -Chó đẻ/ chó đéo, chó chết, dái chó, cả ngày lông
nhông ngoài đường như chó dái / (nói chó đéo nhưng không nói chó đụ hoặc
chó địt.)
- -Đừng có đụng vô dái ngựa
- -Mười con gái không bằng ḥn dái con trái
- -Trăm con trai không bằng lỗ tai (chim) con gái
- -Ăn độc chốc đít / Tối bẩy ngày ba vào ra không kể
- -Trai có vợ như giỏ có hom
- -Trai có vợ như lỗ tiền trôn
- -Tào Tháo đuổi, chạy văi cứt / văi rắm, văi địt
- -Vợ chồng sống gửi thịt, chết gửi xương
- -Vừa đéo vừa run / sướng bỏ mẹ/ sướng chết được
(...)
- Tạm kết
- Về ngôn ngữ tục ta có thể tạm kết luận:
- 1. Phương Tây: (một số nhà biên khảo, nhà văn) coi trọng
dương vật, xem như trung tâm quyền lực, văn hoá, văn minh, mọi giá
trị... Phương Đông: quan niệm khác, Âm Dương tương sinh tương hợp, lao
động và ngôn ngữ mới góp phần h́nh thành các giá trị văn hoá văn minh.
- 2. Phương Tây (do ảnh hưởng tôn giáo) có thái độ né
tránh, đạo đức giả đối với vấn đề sex, số người c̣n mù mờ về chức năng
truyền chủng và chức năng tạo khoái lạc không phải là ít. Phương Đông,
vấn đề khác hẳn (Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam...)
- 3. Cần phân biệt những đ̣i hỏi sâu thẳm, chính đáng của
con người với những g̣ bó, phép tắc của xă hội, tôn giáo, đó là hai cái
khác nhau. (Phần tạm kết mới được viết hồi tháng 9/2007)
-
- Nguyễn Trọng Văn
- viết xong, Noel 2003, đọc lại lần 1, 9/ 2007.
-
-
- VÀI LỜI CỦA NGUYỄN HƯNG QUỐC VỀ BÀI
“NGÔN NGỮ ‘TỤC’”
-
- Tôi rất thích tính chất hoà nhă trong ngôn ngữ tranh luận
của Nguyễn Trọng Văn. Tiếc, tôi không đồng ư với anh được nhiều điều.
Tôi không nghĩ là anh hiểu đúng cái ư đồ chiến lược mà tôi đặt ra trong
bài viết của ḿnh. Nguyên nhân có thể do tôi thất bại trong việc diễn
đạt tư tưởng của ḿnh. Cách khắc phục: viết lại bài viết khác. Cũng có
thể đó là một điều tự nhiên trong nghiên cứu: chỉ cần chênh tầm nh́n
hoặc lệch góc nh́n, người ta sẽ thấy những điều khác hẳn nhau. Cách khắc
phục: kiên nhẫn. Hơn nữa, đó cũng có thể là điều tự nhiên trong văn
chương: vốn có tính liên văn bản, văn chương bao giờ cũng đa nghĩa và
cũng khá hàm hồ, lúc nào cũng có khả năng dẫn đến những cách diễn dịch
khác với ư định ban đầu của tác giả hay với những người đọc khác. Cách
khắc phục: bất khả!
- Chấp nhận tính đa nghĩa và sự hàm hồ của văn chương cũng
có nghĩa là phải chấp nhận, trong những chừng mực nhất định, sự tự do
diễn dịch và phát hiện của người khác. Do đó, tuy không đồng ư, tôi vẫn
hoan nghênh những nỗ lực t́m ṭi “một phương pháp tiếp cận mới” về ngôn
ngữ tục của Nguyễn Trọng Văn. Biết đâu, từ đó, anh sẽ có được những phát
hiện thú vị và bổ ích trong một đề tài c̣n khá mới mẻ và c̣n khiến nhiều
người ngại ngần này.
- Bản thân tôi, sau khi viết xong bài
“Con cặc” vào cuối năm 2003, vẫn tiếp tục bị ám ảnh bởi đề tài văn
hoá tục, ở đó, cái tục được nh́n như một văn bản, một biểu tượng, một
thứ địa-chính trị và đồng thời cũng là một thứ mỹ học. Chính v́ vậy, tôi
vẫn tiếp tục sửa và bổ sung bài viết của ḿnh. Chương
“Văn hoá tục” (bản mới)
in trong cuốn Mấy vấn đề
phê b́nh và lư thuyết văn học do Văn Mới xuất bản đầu năm nay
(2007) – và được đăng lại trên Tiền Vệ hôm nay - chắc không phải là ấn
bản cuối cùng.
- NHQ
-
- _________________________
-
[*]Trong năm qua, hai bài
tiểu luận có giá trị của NHQ là
"Tính đại chúng, kẻ thù của văn học" và
"Con cặc". Tôi ngần ngừ, lẽ nào ôm cả 2 em Vân lẫn em Kiều? Cuối
cùng tôi viết 2 tờ giấy bỏ vào thùng phiếu (như đảng Dân chủ với Cộng
hoà ở Mỹ ấy) tôi xóc và oái oăm thay, tôi vớ ngay: “Con cặc” (Trần Wũ
Khang,
Một năm “top ten” văn chương, Tiền Vệ, 2004).
-
[**][Phụ chú của Tiền Vệ]
Nguyễn Trọng Văn đă nhầm lẫn ở điểm này. Ông tưởng rằng chữ HYMEN (màng
trinh) là tiếng Anh thuần tuư, nên ông cho rằng MEN ở đây là số nhiều
của MAN. Thực ra, chữ HYMEN xuất phát từ tiếng Hy-lạp Ὑμέναιος (HYMENAIOS)
tức là tên vị thần của hôn lễ (theo thần thoại Hy-lạp). HYMENAIOS thường
đến dự tất cả các cuộc hôn lễ. Nếu ông không dự cuộc hôn lễ nào, th́
cuộc hôn lễ ấy sẽ trở thành tai hoạ. V́ thế, trong các cuộc hôn lễ ở
Hy-lạp, người ta có phong tục chạy ṿng quanh và gọi thật lớn tên thần
HYMENAIOS.
-
- Xem thêm bài: Con Cặc
|