Gần 400 năm kể từ ngày chữ quốc ngữ ra đời, thử nh́n lại bước
khởi đầu với bao khó khăn của những người tiên phong trong việc
chế tác ra chữ Việt mới bằng mẫu tự Latin du nhập.
TT - Làm nên chữ quốc ngữ từ mẫu tự Latin là một kỳ công khi
tiếng Việt từ lâu được kư âm bằng chữ Hán và tiếp theo là chữ
Hán Nôm.
• Vấn đề chờ trông các nhà nghiên cứu xác định: ai là người có
công đầu, đâu là nơi ở nước ta mở ra sự h́nh thành chữ quốc ngữ,
một ngày kỷ niệm chữ quốc ngữ mỗi năm vốn đang được nhiều người
đặt ra...
Nơi đặt bia di tích cư sở Nước Mặn (xă
Phước Quang, huyện Tuy Phước, B́nh Định). Cư sở này được
giáo sĩ Francesco Buzomi xây dựng năm 1618 - Ảnh: H.V.M.
Từ
nhu cầu cần thiết cho công việc, các giáo sĩ ḍng Tên của Công
giáo từ phương Tây sang nước ta truyền đạo hồi đầu thế kỷ 17 đă
nghĩ đến việc dùng mẫu tự Latin kư âm tiếng Việt để tiện cho đôi
bên học hỏi ngôn ngữ của nhau. Phác lại bước đầu của việc sáng
chế chữ quốc ngữ - mà lâu nay được gọi là chữ Việt - quả là lư
thú và cảm động...
Kiên tŕ ṃ mẫm
Theo linh mục Đỗ Quang Chính, S.J. - tác giả sách Lịch sử chữ
quốc ngữ (1620-1659), từ đầu thế kỷ thứ 17 các giáo sĩ ḍng Tên
đến Nhật Bản truyền đạo đă thành công trong việc dùng mẫu tự
Latin để kư âm và làm nên chữ Nhật mới romaji - chữ Nhật Latin
hóa - hồi cuối thế kỷ 16. Bởi vậy, khi đến Việt Nam, các giáo sĩ
ḍng Tên đă vận dụng cách làm này để kư âm tiếng Việt và làm nên
chữ Việt mới để thuận lợi cho sứ vụ truyền giáo của ḿnh.
Nhưng các giáo sĩ đến đây dù tất cả đều am hiểu một số ngôn ngữ
châu Âu, với họ lúc đầu tiếng Việt quả là rất khó học v́ đă đơn
âm lại có thanh điệu, rất khó trong việc phát âm, một âm chỉ cần
đọc nặng - nhẹ một tí là sẽ có nghĩa hoàn toàn khác nhau. “Khi
vừa đến Đàng Trong, nghe người Việt nói chuyện với nhau, nhất là
giữa nữ giới, tôi có cảm tưởng như ḿnh nghe chim hót và tôi đâm
thất vọng v́ nghĩ rằng không bao giờ học được tiếng Việt” - giáo
sĩ Alexandre de Rhodes (gọi tắt là Đắc Lộ), người đến Hội An,
Quảng Nam và ở lại cư sở Thanh Chiêm (cách cảng thị Hội An chừng
7km về hướng tây) vào cuối năm 1624 để truyền đạo, kể lại.
Nghe cũng như nói trọn một câu tiếng Việt có nhiều từ hẳn là khó,
nhưng với câu chỉ vài từ vẫn không dễ v́ cách phát âm theo đúng
thanh điệu rất tế nhị. Vẫn giáo sĩ Đắc Lộ kể: một giáo sĩ ở cùng
với ông đă nhờ người giúp việc đi chợ mua cá về dùng bữa, nhưng
v́ cách phát âm của vị giáo sĩ không chuẩn, bà giúp việc thay v́
mua cá lại mua về một thúng cà. Biết ḿnh đă nói sai từ “cá”
thành “cà”, vị giáo sĩ liền xin lỗi người giúp việc. C̣n một vị
giáo sĩ khác th́ lại làm đám trẻ trong nhà ḿnh hoảng sợ và bỏ
chạy tán loạn khi ông nhờ người trong nhà ḿnh đi chém (chặt,
đốn) tre nhưng ông lại đọc là đi “chém trẻ”!
Nhưng, vượt qua khó khăn bước đầu, rồi khám phá ra sự “du dương
ḥa điệu”, “giống như bản nhạc liên hồi” của tiếng Việt - như
các giáo sĩ Cristophoro Borri và Đắc Lộ nhận xét, ai có khiếu âm
nhạc th́ việc học tiếng Việt không khó. Nhờ vậy, qua miệt mài
học hỏi, luyện tập, nhiều giáo sĩ - trong đó có Francisco de
Pina (người Bồ Đào Nha), C. Borri (người Ư) và Đắc Lộ (người
Pháp) - đă nhanh học được tiếng Việt.
Những giai đoạn mở đầu
Vạn
sự khởi đầu nan. Và sự khởi đầu của một công tŕnh, một cuộc
cách mạng ngôn ngữ càng rất khó khăn. Linh mục Đỗ Quang Chính đă
trân trọng chia lịch sử buổi đầu của việc h́nh thành chữ quốc
ngữ từ năm 1620-1648 thành hai giai đoạn: 1620-1626 và
1631-1648.
Quả
là khá nhanh và sớm khi từ năm 1620-1626, nền móng “ngôi nhà”
quốc ngữ đă đặt được những viên đá tảng cơ bản, bởi các giáo sĩ
ḍng Tên chỉ mới đặt chân đến đất Quảng Nam (thuộc xứ Đàng
Trong) vào đầu năm 1615, trải qua nhiều lao đao trong việc lập
cư sở truyền đạo. Từ cư sở Hội An - 1615, rồi đến các cư sở Nước
Mặn (tỉnh B́nh Định) -1618 và cư sở Thanh Chiêm (Quảng Nam) -
1623, với nỗ lực học tiếng Việt bền bỉ, các giáo sĩ ở đây đă
từng bước Latin hóa được một số từ tiếng Việt về tên đất, tên
người cùng những danh từ bản xứ với chiều hướng ngày càng tiến
bộ.
Bằng chứng của tiến tŕnh này được rút ra từ những báo cáo
thường niên của các giáo sĩ ở các cư sở Hội An, Nước Mặn, Thanh
Chiêm gửi về vị giám mục bề trên cả ḍng Tên ở La Mă, hiện c̣n
lưu giữ ở các thư viện, văn khố các nước châu Âu. Đọc qua các từ
quốc ngữ được linh mục Đỗ Quang Chính rút ra từ bảy bản báo cáo
thường niên (1620-1626), thật xúc động trước công lao khó nhọc
của những người tiên phong làm ra loại chữ cực kỳ thông dụng và
khoa học này.
Annam (An Nam), Sinoa, Sinuua (Xứ Hóa/tức Thuận Hóa), Cacham,
Cacciam (Ca Chàm/tức Kẻ Chàm hay Thanh Chiêm), Unsai (ông săi),
Ungue, Ungué (ông nghè), Ontrũ (ông trùm), Oundelin (ông đề lĩnh),
Banco, Bancô, Banc̣ (Bàn Cổ), Nuocman (Nước Mặn), Ainam (Hải
Nam), Quanghia, Quamnguya (Quảng Nghĩa), Quignhin (Qui Nhơn),
Bafu (Bà Phủ/tức vợ quan phủ)... - những địa danh, những danh từ
Việt được Latin hóa tiên khởi ở những năm 1620-1621. Dễ nhận
thấy là các từ luôn được viết liền, hầu hết không có dấu thanh,
thi thoảng các dấu thanh huyền, sắc, ngă, ô được sử dụng.
Gia Định Báo - tờ báo đầu tiên được in
bằng chữ quốc ngữ - Ảnh tư liệu
B́a cuốn Tường tŕnh về khu truyền giáo
Đàng Trong được viết năm 1621-1622 bằng tiếng Ư, trong đó có
một số từ quốc ngữ được viết rời - Ảnh tư liệu
Bắt đầu viết rời các từ
Cũng ở những năm tháng xây nền đặt móng này, việc viết rời các
từ đă lác đác xuất hiện. Sayc Kim (sách kinh), Sayc Chiu (sách
chữ); Da, an, nua (đă ăn nửa), Da, an, het (đă ăn hết) - nói về
hiện tượng nguyện thực; scin mocaij (xin một cái); Dàdèn, Lùt,
Dàdèn Lùt (đă đến lụt), Tuijciam, Biet (tui/tôi chẳng biết),
Onsaij di Lay (ông săi đi lại/tức đi đi lại lại); Muon bau dau
christiam chiam (muốn vào đạo Christiang chăng?) được giáo sĩ C.
Borri viết trong bản tường tŕnh về khu truyền giáo Đàng Trong
(1621-1622) đệ lên đức giáo hoàng Urbanô VII là những bước tiến
quan trọng trong tạo lập chữ quốc ngữ, bởi đây là bước khởi đầu
việc viết rời các từ.
Từ
tiến bộ này, ở giai đoạn hai (1631-1648) trong các bản văn và
sách của ḿnh, giáo sĩ Đắc Lộ đă viết rời các từ và nhóm từ Việt,
phần lớn vẫn chưa có dấu, nhưng thi thoảng ông lại cũng viết
liền các từ về địa danh, nhân danh cũng như đánh dấu thanh cho
một vài từ. Đáng nói là việc đưa các dấu thanh Hi Lạp (huyền,
sắc, ngă) vào để tạo dần sự hoàn chỉnh âm vận cũng như thêm chữ
“đ” vào bộ mẫu tự Latin cho quốc ngữ của giáo sĩ Gaspar d’Amaral
(người Bồ Đào Nha).
Đàng tlaơ (Đàng Trong), Đàng ngoày (Đàng Ngoài), Đàng tlên (Đàng
Trên), nhà thượng đày (nhà thượng đài), nhà huỵen (nhà huyện),
oũ Khỏũ (ông Khổng/Khổng Tử), đức vương (đức vương), tế kỳ đạo (tế
kỳ đạo), chuá tũ, chuá dũ, chuá quành (chúa Tung, chúa Dũng,
chúa Quỳnh/tên các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài), Thíc ca (Thích Ca),
chợ thũi (chợ Thủy), Săy (săi/sư săi), thầy (thầy/thầy giảng),
đôủ thành (Đông Thành/tên một tu sinh)... Một ít trong số những
từ được linh mục Đỗ Quang Chính trích từ các tường tŕnh về hoạt
động truyền giáo ở Đàng Ngoài của giáo sĩ G. d’Amaral viết vào
những năm 1632, 1637 cho thấy vị giáo sĩ này đă đưa việc chế tác
chữ quốc ngữ tiến một bước rất dài chỉ trong thời gian rất ngắn.
TT - Người Việt Nam sử dụng được chữ quốc ngữ sớm
nhất ở thời điểm nào? Thật không dễ có đáp án chính
xác cho câu hỏi có vẻ đơn giản này nếu không có
những bản văn viết tay của hai người Việt được lưu
lại đến ngày nay.
Trang cuối lá thư của
Igesico Văn Tín viết ngày 12-9-1659 bằng chữ
quốc ngữ - Ảnh tư liệu
Đây được coi là những sản phẩm đầu
tiên mà người Việt gieo trồng và thu hoạch được trên
cánh đồng quốc ngữ vừa được khai mở...
Hai bức thư
Trong bài viết “Một vài văn kiện
bằng quốc âm tàng trữ ở Âu châu” đăng ở tập san Đại
Học số 10, tháng 7-1959 tại Sài G̣n, giáo sư Hoàng
Xuân Hăn đă viết về việc Viện bảo tàng ḍng Tên ở La
Mă (Ư) c̣n giữ được những tư liệu quan trọng. Đó là
bức thư và tập lịch sử của Bentô Thiện gửi cho giáo
sĩ G. Philippo de Marini đề ngày 25-10-1659 và bức
thư của Igesico Văn Tín cũng gửi cho vị giáo sĩ này,
đề ngày “mươy hay thánh chính D.C.J. ra đờy một
ngh́n sáu tram nam muoy chinh” (mười hai tháng chín
Đức Chúa Jesus ra đời một ngh́n sáu trăm năm mươi
chín).
Trong sách Lịch sử chữ quốc ngữ
(1620-1659), linh mục Đỗ Quang Chính, S.J. - người
tiếp cận nhiều tư liệu gốc cho việc nghiên cứu sự
h́nh thành chữ quốc ngữ ngay tại các bảo tàng và văn
khố ở châu Âu - đă chép lại toàn văn các văn bản của
Igesico Văn Tín và Bentô Thiện để người đọc có thể
thấy chữ quốc ngữ ở thời khởi nguyên được viết thế
nào.
Có thể nói những người học và sử
dụng chữ quốc ngữ sớm nhất ở nước ta là những tân
ṭng - người mới theo đạo (Công giáo) - trẻ tuổi và
ham học hỏi bởi họ gần gũi, tiếp xúc thường xuyên
với các vị giáo sĩ truyền đạo vốn là những người
đang sử dụng chữ quốc ngữ buổi đầu. Igesico Văn Tín
và Bentô Thiện đều là tân ṭng rồi dần trở thành
thầy giảng (đạo). Bức thư của Igesico Văn Tín được
viết ở vùng Kẻ Vó (Đàng Ngoài/tức miền Bắc). C̣n bức
thư của Bentô Thiện được viết tại Kẻ Chợ (tức Thăng
Long, cũng thuộc Đàng Ngoài).
Bức thư của Igesico Văn Tín gồm hai
trang, trang đầu viết trong khổ 17x25cm, có 27 ḍng
chữ cỡ trung b́nh, trang hai trong khổ 16x9cm có 11
ḍng. Thư của Bentô Thiện cũng gồm hai trang, cỡ chữ
nhỏ, viết trong khổ 21x31cm. Cả hai bức thư đều là
những lời thăm hỏi, kể về t́nh h́nh của những tân
ṭng, công việc truyền đạo trong vùng cũng như bày
tỏ ḷng tôn kính, nhớ mong của họ với giáo sĩ Marini.
“Ơn đức Chúa Blờy blả’ caơ cho thầi
đờy đờy. Bấi nhieu mlờy tôy chép tháng mươy ĩ Igreja
mà thư nầi thi ngài Lễ Bà Thánh Daria cũ ơn Thánh
Chrisanto tử v́ đạo, tôy lại ơn thầi là cha v́
thương đến con cũ tôy xin cha chớ quên làm chi. Từ
Đức Chúa Jesu ra đờy cho đến rài một ngh́n sáu trăm
năm mươy chín năm. Bentô Thiên tôy tá nhà Thầi (Ơn
đức Chúa Trời trả công cho thầy đời đời. Bấy nhiêu
lời tôi chép tháng mười Igreja, mà thư này th́ ngày
lễ bà thánh Daria cùng ông thánh Chrisanto tử v́ đạo.
Tôi lạy ơn thầy là cha th́ thương đến con cùng. Tôi
xin cha chớ quên làm chi. Từ Đức Chúa Jêsu ra đời
cho đến rày một ngh́n sáu trăm năm mươi chín năm.
Bentô Thiện tôi tá nhà thầy) - những câu cuối thư
của Bentô Thiện. Và câu cuối thư của Igesico Văn Tín
“D. C. Blờy blả’ cơn cho Thài đờy nài và đờy sau (Đức
Chúa Trời trả công cho thầy đời này và đời sau). Cả
hai cho thấy phần nào cách dùng từ, văn phong và
cách viết quốc ngữ ở giai đoạn tiên khởi.
B́a quyển Tự điển An
Nam-Bồ Đào Nha-Latin của giáo sĩ Đắc Lộ được
in ở La Mă năm 1651 - Ảnh tư liệu
Và tập lịch sử nước An Nam
Ngoài bức thư gửi giáo sĩ G. P. de
Marini, thầy giảng Bentô Thiện c̣n viết một tập Lịch
sử nước An Nam (LSNAN) gửi cho vị giáo sĩ này. (Tác
giả Bentô Thiện không đặt tên cho tập tư liệu lịch
sử của ḿnh, nhưng căn cứ vào nội dung tập tư liệu
của ông, linh mục Đỗ Quang Chính đă đặt tên là Lịch
sử nước An Nam).
Qua lời trong thư của Bentô Thiện
gửi giáo sĩ Marini, rơ là tập LSNAN được Bentô Thiện
viết gửi cho giáo sĩ Marini theo đề xuất của vị giáo
sĩ này. Căn cứ từ những dữ liệu xác tín, linh mục Đỗ
Quang Chính khẳng định tập tư liệu này được Bentô
Thiện viết ở khoảng đầu năm hoặc giữa năm 1659. Nhờ
đích thân Bentô Thiện viết cho một tư liệu lịch sử,
giáo sĩ Marini không chỉ nhắm đến năng lực chữ quốc
ngữ mà c̣n ở vốn kiến thức của người thầy giảng mà
giáo sĩ từng biết qua thời gian truyền đạo ở vùng Kẻ
Vó.
Với sáu tờ giấy viết chữ cỡ nhỏ ở
hai mặt, tức 12 trang, phần nhiều được viết trong
khổ 20x29cm, có thể nói tập LSNAN là văn bản quốc
ngữ “dài hơi” đầu tiên của người Việt được lưu lại.
Nhận thức rằng đây là “công tŕnh” có giá trị với
người nước ngoài, mà cụ thể là với vị giáo sĩ ḿnh
yêu kính, Bentô Thiện đă viết thành hai bản để gửi
đến giáo sĩ Marini qua hai chuyến tàu, mỗi chuyến
tàu một bản, để pḥng rủi bị thất lạc ở chuyến tàu
này th́ c̣n có bản gửi ở chuyến tàu kia. Bản gửi
theo chuyến tàu thứ nhất được tác giả ghi ở đầu thư
là 1a via, c̣n bản gửi theo chuyến tàu thứ hai được
ghi là 2a via. Và may mắn cho bảo tàng chữ quốc ngữ,
cả hai bản sử lược này đều đến tay giáo sĩ Marini,
tất cả đều c̣n được lưu giữ trọn vẹn ở văn khố ḍng
Tên tại La Mă.
Chỉ với 12 trang viết, LSNAN được
viết hết sức đại lược. Tuy vậy những sự kiện chính
yếu diễn ra ở các triều đại đều được tác giả kể ra,
cả các chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh, Trọng Thủy - Mỵ
Châu, Thánh Gióng cũng được ghi lại với những t́nh
tiết hấp dẫn. Ngoài phần lược sử các triều đại, cây
bút “viết quốc sử bằng chữ quốc ngữ đầu tiên” này
c̣n dành phần nói về văn hóa: phong tục tập quán,
việc hành chính, địa lư, điểm qua một số chùa chiền,
nhà thờ...
“Họ nhà Mạc th́ trốn lên Cao Bằng
hết, c̣n có ai ở đâu th́ Chúa (tức Chúa Trịnh) lại
bắt. Nước Annam đă an hết về làm một nhà Lê mà thôi.
C̣n ông Đoan là cha ông Thụy ở trong Hóa xưa, th́
Chúa Tiên đ̣i ra ở làm tôi, mà ông ấy thấy chúa
chẳng yêu đăi cho đủ bao nhiêu, th́ ông ấy lại trốn
vào ở Quảng, th́ Đức Chúa ngờ là về Thanh Hóa; chẳng
ngờ ông ấy đă vào Hóa, th́ Đức Chúa theo. Song le
chẳng theo kịp, th́ lại trở ra Kẻ Chợ mà trị cho đến
con cháu bây giờ. Rày lại đánh nhau cùng Kẻ Quảng.
Song le chửa biết đời trị loạn, th́ chửa có tra vào
sách” (trích).
Trong thời hoàng kim của chữ Việt -
quốc ngữ hôm nay, đọc hai bức thư của hai thầy giảng
Igesico Văn Tín và Bentô Thiện, nhất là bản LSNAN,
sẽ giúp chúng ta thấy được phần nào tiến tŕnh cùng
tài năng, công sức lao nhọc của những người dựng xây
ngôi nhà quốc ngữ buổi đầu.
HUỲNH VĂN MỸ - BẢO TRUNG
Hai sách quốc ngữ đầu tiên
Hai sách chữ quốc ngữ đầu tiên được
xuất bản là Tự điển An Nam - Bồ Đào Nha - Latin và
Phép giảng tám ngày. Được in và xuất bản tại La Mă
năm 1651, Tự điển Việt-Bồ-La và Phép giảng tám ngày,
theo linh mục Đỗ Quang Chính, được giáo sĩ Đắc Lộ
viết ở Áo Môn khoảng từ năm 1637-1645.
Nhận thấy ư nghĩa và giá trị của
hai quyển này, Ṭa thánh La Mă đă cho phép Bộ Truyền
giáo - vốn mới được thành lập từ giữa năm 1622 - in
ấn và xuất bản ngay. In ấn sách chữ Việt lần đầu là
một việc làm tốn nhiều công sức. Với các thanh điệu
mới, cách ghép vần khác hẳn với chữ viết của các
nước dùng mẫu tự Latin trong vùng vốn đă quen thuộc,
để có thể in được chữ quốc ngữ, xưởng in của Bộ
Truyền giáo đă phải đúc khuôn chữ in mới.
Với gần 500 trang, Tự điển
Việt-Bồ-La, lúc đầu giáo sĩ Đắc Lộ chỉ soạn bằng hai
loại chữ quốc ngữ và Bồ Đào Nha. Về sau, theo ư các
vị bề trên ở La Mă, ông soạn thêm phần chữ Latin vào
để tiện cho người Việt học tiếng Latin.
Phép giảng tám ngày - công tŕnh về
giảng dạy giáo lư - được Đắc Lộ viết bằng hai thứ
chữ quốc ngữ - Latin. Theo nhà nghiên cứu Vơ Long Tê
dẫn theo linh mục Nguyễn Khắc Xuyên, quyển sách nổi
danh về truyền dạy giáo lư này được Đắc Lộ biên soạn
hay khởi thảo từ những năm 1627-1629
Đây là vấn
đề được đặt ra từ vài chục năm nay bởi một
số nhà nghiên cứu cùng những người quan tâm
đến lịch sử buổi đầu chữ quốc ngữ. Những ai
đă tiên khởi mở ra việc tạo lập chữ quốc ngữ?
Với hai
quyển sách Tự điển An Nam – Bồ Đào Nha –
Latin (gọi tắt Tự điển Việt – Bồ – La) và
Phép giảng tám ngày bằng quốc ngữ được ṭa
thánh La Mă cho xuất bản năm 1651, giáo sĩ
Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) từ lâu được coi
là người có công lớn trong việc chế tác ra
chữ quốc ngữ.
Để tưởng nhớ
công lao của Đắc Lộ, năm 1941 một bia kỷ
niệm khắc tên ông đă được dựng bên hồ Hoàn
Kiếm ở Hà Nội; và ở Sài G̣n vào năm 1955
người ta đă lấy tên Alexandre de Rhodes đặt
cho một con đường ngay trung tâm thành phố
này, c̣n măi đến nay.
Nhà nghiên
cứu Vơ Long Tê nhận xét: “Đành rằng giáo sĩ
Alexandre de Rhodes không phải là người duy
nhất đă sáng chế và làm cho chữ quốc ngữ trở
nên hoàn hảo, nhưng lịch sử vẫn xem vị giáo
sĩ này là thủy tổ chữ quốc ngữ v́ đă có công
thử thách chữ quốc ngữ trong các lĩnh vực
soạn sách tự điển, văn phạm, giáo lư, và
nhất là phổ biến rộng răi chữ quốc ngữ bằng
những tác phẩm ấn loát tại nhà in của Thánh
bộ Truyền giáo tại La Mă”.
Đó là những
quyển sách được coi là công cụ bước đầu
trong việc phổ truyền việc dạy và học chữ
Việt, mở ra sự xuất hiện chữ Việt trên bản
đồ chữ viết của thế giới. Thủy tổ chữ quốc
ngữ là cụm từ do nhà nghiên cứu Phạm Đ́nh
Khiêm dành cho giáo sĩ Đắc Lộ, trong đó có
một số luận chứng giống như tác giả Vơ Long
Tê đă trích dẫn.
Quan điểm
cho rằng giáo sĩ Đắc Lộ là người có công đầu,
có công nhiều nhất trong việc làm ra chữ
quốc ngữ cũng đă được nhà nghiên cứu Hoàng
Tiến nhắc lại trong đề tài nghiên cứu Chữ
quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế
kỷ 20 của ḿnh được xuất bản năm 1994:
“…Và nhất là
cha cố người Pháp Alexandre de Rhodes là một
nhà bác học rất giỏi về khoa ngôn ngữ đă tới
Việt Nam và giảng đạo bằng tiếng Việt. Tất
nhiên việc này có công sức đóng góp của
nhiều người, nhưng ông là đại diện và giữ
công đầu”.
Tuy nhiên,
măi đến gần đây nhà nghiên cứu Nguyễn Phước
Tương đă phản bác quan điểm tồn tại lâu nay,
ông cho rằng Đắc Lộ không phải là người có
công đầu trong việc tạo tác chữ quốc ngữ.
Trong tham
luận “Hội An – Thanh Chiêm và sự ra đời chữ
quốc ngữ” tại tọa đàm khoa học “Danh xưng
Quảng Nam” ở Tam Kỳ hồi tháng 9-2001, tác
giả Nguyễn Phước Tương nhấn mạnh rằng
Francisco de Pina mới là nhà tiên phong sáng
tạo chữ quốc ngữ.
Luận cứ mang
tính khẳng định của nhà nghiên cứu Nguyễn
Phước Tương trước hết dựa vào tự bạch của
giáo sĩ Đắc Lộ trong “Lời nói đầu” ở Tự điển
Việt – Bồ – La rằng ông học tiếng Việt lúc
đầu với giáo sĩ F. de Pina, rằng ông đă sử
dụng các công tŕnh tự điển viết tay An Nam
– Bồ, Bồ – An Nam của các giáo sĩ Gaspar
d’Amaral và Antonio Barbosa – những điều mà
bất cứ ai tiếp cận Tự điển Việt – Bồ – La
đều biết rơ.
Bên cạnh một
số luận cứ khác nữa, đặc biệt, nhà nghiên
cứu này c̣n dựa vào phát hiện mới về công
tŕnh chữ quốc ngữ của F. de Pina của nhà
ngôn ngữ học Pháp Roland Jacques.
Đó là bức
thư viết dở dài bảy trang cùng cuốn Nhập môn
tiếng Đàng Ngoài dài 22 trang dạy cho người
mới học tiếng Việt của giáo sĩ F. de Pina
được R. Jacques t́m thấy ở Thư viện Quốc gia
tại Lisbon (Bồ Đào Nha).
Từ những tư
liệu mới t́m thấy này, R. Jacques đă viết
chuyên luận Công tŕnh của một số nhà tiên
phong Bồ Đào Nha trong lĩnh vực ngôn ngữ học
Việt Nam được ấn hành tại Paris năm 1995.
Tác giả này
viết: “Qua sự so sánh có hệ thống việc mô tả
bộ chữ cái Việt Nam thực hiện bởi văn bản
này và văn bản kia, như vậy sẽ trở nên có
thể nhận định được rơ ràng hơn rằng
Alexandre de Rhodes đă chịu ơn các vị tiền
bối của ḿnh và ngược lại, có sự đóng góp
tài năng của bản thân ông”.
Nhà in
Làng Sông được thành lập năm 1872 tại huyện
Tuy Phước, B́nh Định – một trong những nhà
in chữ quốc ngữ đầu tiên – Ảnh: H.V.M
Công
lao tập thể và vai tṛ của người Việt
Trong khi đó,
một quan điểm phổ quát hơn, từng được nhiều
nhà nghiên cứu cùng chấp nhận hơn là: chữ
quốc ngữ được h́nh thành bước đầu từ công
lao của một số giáo sĩ ḍng Tên.
Năm 1955,
trong cuốn sách về Công trạng của nước Pháp
ở Đông Dương của ḿnh, tác giả Pháp Georges
Taboulet cũng đă đưa luận điểm như trên khi
ông viết: “Việc phiên âm tiếng Việt bằng chữ
Latin điểm thêm các dấu quy ước, là một công
lao tập thể mà sự đóng góp chủ yếu của các
linh mục Francisco de Pina, Cristophoro
Borri, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, c̣n
linh mục Alexandre de Rhodes th́ có công hệ
thống hóa, chỉnh lư và phổ biến văn tự này…”.
Tác giả Vơ
Long Tê cũng cho rằng: “…Căn cứ vào những sử
liệu chắc chắn và những suy luận hợp lư,
chúng ta có thể quyết đoán rằng công cuộc
sáng chế chữ quốc ngữ là một công tŕnh tập
thể, nằm trong một khuôn khổ những nỗ lực
phiên âm các thứ tiếng có chữ tượng h́nh ở
Viễn Đông do các thừa sai châu Âu khởi xướng
từ thế kỷ thứ 16”.
Cũng nhắm
vào công lao tập thể trong việc tạo lập chữ
quốc ngữ, linh mục Đỗ Quang Chính đă dùng từ
“những ông tổ” để chỉ những giáo sĩ có công
trong việc Latin hóa tiếng Việt buổi đầu.
Dẫu vậy, vị
linh mục sớm đi vào nghiên cứu lịch sử chữ
quốc ngữ này cho rằng “ai là người có công
nhất trong việc sáng tác chữ quốc ngữ?” vẫn
c̣n là điều thắc mắc cần được làm sáng tỏ.
Về đóng góp
của người Việt, theo nhà nghiên cứu Vơ Ngọc
Liễn, có lẽ v́ đặt nặng vai tṛ chủ động của
các giáo sĩ ḍng Tên trong việc tạo tác nên
chữ Việt mới từ mẫu tự Latin do họ “mang tới”
vốn hoàn toàn xa lạ với người Việt, các nhà
nghiên cứu có phần chậm trễ khi nói đến vai
tṛ của người Việt.
Trong một số
tác phẩm được xuất bản từ những năm
1960-1970 của ḿnh, các tác giả Đỗ Quang
Chính, Vơ Long Tê đều đă đề cập sự đóng góp
của người Việt cho sự ra đời của chữ quốc
ngữ.
Đó là những
nho sĩ, những sư săi, những tân ṭng – người
mới theo đạo (Công giáo) mà đặc biệt là
những tân ṭng trở thành thầy giảng (đạo).
Nhưng tiếc
rằng đó đều là những đóng góp lặng thầm,
ch́m khuất, ít được các giáo sĩ thời đó nêu
danh tính hay ghi lại cụ thể, ngoại trừ
những ghi chép của các giáo sĩ F. de Pina,
Đắc Lộ, C. Borri về công lao của người Việt
trong việc bày vẽ cho họ học tiếng bản xứ.
“Các thầy
giảng Igesico Văn Tín, Bentô Thiện với những
tác phẩm quốc ngữ xuất sắc được lưu lại từ
năm 1659, đương nhiên họ đă cùng với các vị
giáo sĩ ở cư sở của ḿnh cùng nhau miệt mài
luyện tập chữ quốc ngữ cũng như học hỏi ngôn
ngữ của nhau” – nhiều nhà nghiên cứu đă nói.
Và, ngoài
tên tuổi của một ít các thầy giảng người
Việt được nói đến, chắc chắn c̣n nhiều người
Việt khác đă cộng tác đắc lực với các linh
mục ḍng Tên trong công cuộc kiến tạo chữ
quốc ngữ buổi đầu.
TT - Hiện một số nhà
nghiên cứu cũng như các
bậc nhân sĩ, thức giả đă
đặt vấn đề về nơi khai
sinh ra loại chữ viết
này.
Thầy Trần Đ́nh Trắc
(phải) và nhà nghiên
cứu Vơ Ngọc Liễn ở
B́nh Định - Ảnh:
H.V.M.
Những luận cứ
khác nhau bước
đầu đă được đưa
ra, nhưng câu
trả lời xác đáng
vẫn c̣n ở phía
trước...
Hội An - Thanh
Chiêm?
"Từ
những
năm
1960-1970,
khi nghĩ
về di
tích
Nước Mặn
với việc
h́nh
thành
chữ quốc
ngữ, một
số nhân
sĩ, trí
thức ở
B́nh
Định
chúng
tôi đă
nghĩ
việc làm
sao để
đánh
động nhà
chức
trách tổ
chức
ngày cả
nước kỷ
niệm chữ
quốc ngữ
hằng năm,
nhưng
vẫn chưa
làm được
v́ chiến
tranh.
Ḿnh sở
hữu được
loại chữ
viết vô
cùng
tiện
dụng,
khoa học
như vậy
mà không
có ngày
quốc ngữ
th́ thấy
thiếu
sót quá,
đáng
tiếc quá..."
Ông
TRẦN
Đ̀NH
TRẮC
Người mạnh dạn
cho rằng Hội An
và Thanh Chiêm
là nơi ra đời
của chữ quốc ngữ
là nhà nghiên
cứu Nguyễn Phước
Tương. Bản tham
luận mang tên
“Hội An - Thanh
Chiêm và sự ra
đời của chữ quốc
ngữ” của ông ở
tọa đàm khoa học
về danh xưng
Quảng Nam hồi
năm 2001 mặc
nhiên nói lên
điều đó.
Với luận cứ rằng
giáo sĩ
Francisco de
Pina là người mở
đầu việc Latin
hóa tiếng Việt
tại hai cư sở
Hội An (thành
lập năm 1615) và
Thanh Chiêm
(1623), nhà
nghiên cứu này
đă cho rằng đây
chính là nơi chữ
quốc ngữ được
làm ra. Giáo sĩ
F. de Pina đến
Đàng Trong - mà
cụ thể là Hội An
- vào năm 1617,
rồi đến Thanh
Chiêm năm 1623,
nhưng vẫn thường
đi lại giữa hai
nơi bởi hai cư
sở này cách nhau
chỉ mươi cây số,
theo tác giả
Nguyễn Phước
Tương, đây là
những nơi có
nhiều thuận lợi
để học hỏi,
nghiên cứu tiếng
Việt cho các nhà
truyền giáo lúc
ấy. Ông dẫn lời
của giáo sĩ F.
de Pina trong
bức thư viết dở
của ḿnh: “Đối
với tôi, việc
nghiên cứu tiếng
nói Kẻ Chiêm (tức
Thanh Chiêm) vẫn
là nơi tốt nhất
với tư cách là
trung tâm của
triều đ́nh: ở
đây người ta nói
rất hay, có sự
đổ dồn những
người trẻ tuổi
đến mà họ là
những cống sinh
và bên cạnh họ,
những ai bắt đầu
học tiếng có thể
t́m thấy sự giúp
đỡ”.
Nhà nghiên cứu
Nguyễn Thiếu
Dũng lại đặt
nặng vai tṛ của
Thanh Chiêm
trong sự ra đời
của chữ quốc ngữ
bởi đây là đô lỵ
của dinh trấn
Quảng Nam thời
đó. “Đây là nơi
hội đủ điều kiện
để các giáo sĩ
học hỏi ngôn ngữ
bản xứ, văn hóa
bản xứ, tâm lư
người bản xứ để
từ đó sáng chế
ra chữ quốc ngữ
theo mẫu tự
Latin... Chính
F. de Pina, bậc
tiên khởi có
công khai sinh
chữ quốc ngữ, đă
cho biết v́ sao
ông chọn Thanh
Chiêm là nơi
nghiên cứu chữ
quốc ngữ chỉ v́
một lư do đơn
giản ở đây quy
tụ nhiều văn
nhân thức giả có
thể giúp ông
nhiều hơn ở nơi
khác, đô thành
th́ bao giờ cũng
có người học
thức hơn là nơi
thị tứ chỉ có
thương nhân...”
- nhà nghiên cứu
Nguyễn Thiếu
Dũng viết.
Và tác giả
Nguyễn Phước
Tương đúc kết:
“Rơ ràng ở nước
ta trước hết là
cảng thị Hội An
rồi tiếp đến
dinh trấn Thanh
Chiêm là cái nôi
ra đời sớm nhất
và quan trọng
nhất của chữ
quốc ngữ so với
Nước Mặn - Quy
Nhơn và một địa
điểm nào đó ở
Nghệ An mà đến
nay chưa được
xác định cụ thể...
Đă đến lúc cần
tổ chức một cuộc
hội thảo khoa
học về lịch sử
ra đời chữ quốc
ngữ để trả lại
sự công bằng cho
Francisco de
Pina như là nhà
tiên phong sáng
tạo chữ quốc ngữ
chứ không phải
giáo sĩ Pháp
Alexandre de
Rhodes như lâu
nay chúng ta vẫn
lầm tưởng...”.
Hay Nước Mặn?
Với người B́nh
Định, có lẽ ư
niệm về “chiếc
nôi” của chữ
quốc ngữ đến với
họ sớm hơn. Cũng
căn cứ vào những
dữ liệu được họ
coi là xác tín
từ các thư tịch,
những báo cáo
mang tính biên
niên của các
giáo sĩ ḍng Tên
ở Đàng Trong vào
giai đoạn sơ
khai đầy ấn
tượng của chữ
quốc ngữ, từ
những năm
1969-1970 một số
nhân sĩ, trí
thức ở B́nh Định
đă nghĩ đến việc
“làm cái ǵ đó”
để ghi dấu việc
chữ quốc ngữ
được khai sinh ở
di chỉ Nước Mặn
(nay thuộc thôn
An Ḥa, xă Phước
Quang, huyện Tuy
Phước) của tỉnh
nhà.
“Làm cái ǵ đó”
- thầy Trần Đ́nh
Trắc, cựu giáo
viên Trường Sư
phạm Quy Nhơn (trước
năm 1975), hiện
ở tại TP Quy
Nhơn - kể năm
1972, qua bàn
bạc, nhóm nhân
sĩ, trí thức ở
B́nh Định, trong
đó có thầy Trắc,
đă chọn phương
án dựng tượng
Alexandre de
Rhodes ở ngă ba
Phú Tài bên quốc
lộ 1. “Hồ sơ về
vai tṛ của Nước
Mặn trong việc
mở đầu chữ quốc
ngữ, về công lao
giáo sĩ Đắc Lộ
chúng tôi nhờ
các nhà nghiên
cứu ở Sài G̣n
làm để tŕnh hội
đồng cố vấn giáo
dục của chính
phủ (Sài G̣n)
duyệt. Về kinh
phí để giải tỏa
29 gia đ́nh ở
ngă ba Phú Tài
đă được tỉnh
B́nh Định chuẩn
duyệt, nhưng rồi
v́ t́nh h́nh xă
hội bất ổn kéo
dài nên chúng
tôi chưa thể làm
kịp...”, thầy
Trắc nhớ lại.
Nhà nghiên cứu
Vơ Ngọc Liễn cho
rằng bởi vào năm
1617 chúa Nguyễn
trục xuất các
giáo sĩ ở cư sở
Hội An, họ buộc
phải quay về Áo
Môn. V́ tàu gặp
gió ngược, giáo
sĩ Francesco
Buzomi không đi
được phải quay
vào nương náu ở
băi biển, lại
lâm bệnh. Cũng
vào năm 1617, F.
de Pina vừa từ
Bồ Đào Nha đến
Hội An lần đầu,
phải liều lẩn
trốn ở nhà các
Nhật kiều tại
đây. May nhờ gặp
được quan khám
lư Trần Đức Ḥa
- tri phủ Hoài
Nhơn, nhân
chuyến ra kinh
đô Đàng Trong,
gặp giáo sĩ
Buzomi bị nạn,
trên đường trở
về Quy Nhơn đă
rước các giáo sĩ
F. Buzomi, F. de
Pina,
Cristophoro
Borri và thầy
giảng António
Dias đưa vào bên
cảng thị Nước
Mặn, giúp đỡ mọi
điều để lập ngay
cư sở ở đây vào
năm 1618. “Cũng
nhờ được quan
khám lư Trần Đức
Ḥa ưu đăi, các
giáo sĩ được có
cơ hội tiếp xúc
với các nho sĩ
địa phương, với
những người mới
vào đạo nhanh
nhạy, giỏi giang
nên Pina đă sớm
học được tiếng
Việt tại đây...”,
nhà nghiên cứu
Vơ Ngọc Liễn
giải thích.
Nhà nghiên cứu
Nguyễn Xuân Nhân
cũng nhấn mạnh
về vai tṛ
“chiếc nôi” quốc
ngữ của cư sở
Nước Mặn: “Nước
Mặn, với tư cách
là cảng thị, lại
có cư sở của các
giáo sĩ ḍng Tên,
thuở phồn vinh
không chỉ là một
trung tâm thương
mại, trung tâm
tôn giáo, trung
tâm thiên văn mà
c̣n là một trung
tâm dạy tiếng
Việt cho người
nước ngoài. Và
cũng là nơi
Latin hóa tiếng
Việt”.
Trích dẫn từ các
tư liệu có được,
linh mục Gioan
Vơ Đ́nh Đệ -
hiện ở tại ṭa
giám mục Quy
Nhơn - cho rằng
cư sở Nước Mặn
của các thừa sai
ḍng Tên chẳng
những là một
trung tâm truyền
giáo mà c̣n là
nơi các thừa sai
ḍng Tên nghiên
cứu và sáng chế
chữ quốc ngữ
trong giai đoạn
thô sơ nhất.
“Theo linh mục
Joaơ Roiz, năm
1620 đă có hai
thừa sai nói
thạo tiếng Việt
đó là cha
Francisco de
Pina và cha
Cristophoro
Borri. Trong đó
cha Borri chỉ
làm việc tại
Nước Mặn từ năm
1618 đến khi ra
khỏi Đàng Trong
vào năm 1622.
Cha Pina đến Hội
An năm 1617
trong thời kỳ bị
trục xuất, phải
lén lút, cha chỉ
tiếp xúc được
với người Việt
khi làm việc tự
do tại Nước Mặn
từ năm
1618-1620. Trong
khoảng thời gian
từ 1620-1623 cha
Pina đi về giữa
Nước Mặn và Hội
An, rồi năm 1623
cha lập cư sở
tại Thanh Chiêm.
Ngoài ra, cư sở
Nước Mặn cũng là
“trường quốc ngữ”
đầu tiên cho các
thừa sai đến sau
như linh mục
Emmanuel Borges
-1622, linh mục
Gaspar Luis,
linh mục
Girolamo
Majorica
-1624...