Về phương diện ngôn ngữ, h́nh như trên cơ thể con người chỗ nào cũng
thoang thoảng mùi... các loài vật: thú vật, súc vật, côn trùng, chim
cá, và cả các giống vật chỉ có trong huyền thoại. Này nhé, đầu th́
có đầu hổ, đầu trâu, đầu chó, đầu rồng, đầu hươu, đầu rái cá, đầu
voi, đầu rắn...; mặt th́ có mặt chuột, mặt dơi, mặt khỉ, mặt ngựa,
mặt gà mái; mắt th́ có mắt lươn, mắt cú vọ, mắt phượng, mắt bồ câu,
mắt nai, mắt ếch, mắt ốc bươu; mũi th́ có mũi kéc, mũi trâu, mũi kỳ
lân; râu th́ có râu hùm, râu dê hay râu cá trê; miệng th́ có miệng
hùm, miệng cá ngao, miệng lằn (lưỡi mối); lưng th́ có lưng ong, lưng
tôm; chân th́ có chân voi, chân le, chân vịt; c̣n trong nội tạng th́
nào là phổi ḅ, gan sứa, gan thỏ hay gan cóc tía, nào là máu dê,
ruột ngựa, dạ sói, ḷng lang, v.v...
Sự xuất hiện của tên gọi các loài động vật trong các từ ghép kể trên
không cho thấy quan niệm của người Việt Nam về con người nói chung
mà chủ yếu cho thấy cách nh́n của họ về các loài động vật ấy: trong
quá tŕnh ẩn dụ hoá, động vật không c̣n là những con thú, những con
vật cụ thể nữa mà đă trở thành những biểu tượng, những đặc điểm
chung nhất có thể chia sẻ được với loài người. Từ chức năng định
danh, chúng biến thành định tính. Sự chuyển hướng ấy không những làm
mở rộng ư nghĩa của các danh từ chỉ động vật mà c̣n làm chuyển cả từ
loại của chúng: từ danh từ biến thành tính từ, trạng từ hay động từ.
Điều thú vị là mức độ chuyển nghĩa và chuyển từ loại ở mỗi loài vật
rất khác nhau. Không phải con thú nào được đặt nhiều tên cũng đều có
khả năng chuyển nghĩa và chuyển từ loại rộng răi. Như cọp, chẳng hạn.
Trong rất nhiều tên gọi khác nhau của giống cọp, chỉ có hai tên hổ
và hùm là được sử dụng như một h́nh dung từ, chỉ sự dữ và độc, trong
các từ ghép: rắn hổ, nhện hắc hổ hay nhện hùm, v.v… Riêng chữ cọp,
từ lâu, đă biến thành một ẩn dụ: cọp cái, chỉ những người đàn bà
hung hăn. "Cọp", khi được dùng như một trạng từ, chỉ hành động xài
ḅn, lợi dụng, thiếu ṣng phẳng. Trong
Việt Nam Tự Điển của
Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, các ví dụ của chữ "cọp" này được nêu lên
là: đi xe cọp, chơi cọp, hút cọp, đọc báo cọp, coi hát cọp. Theo sự
hiểu biết của tôi, h́nh như chỉ có nhóm từ "đọc báo cọp" và "coi hát
cọp" là phổ biến. Trong các trường hợp khác, h́nh như người Việt Nam
thường dùng chữ "chùa" hơn là "cọp": ăn chùa, ở chùa, đi chơi chùa,
hút thuốc lá chùa, v.v… Hơn nữa, chữ "cọp" này h́nh như ra đời khá
muộn và chỉ thông dụng ở miền Nam: hầu hết các từ điển xuất bản ở
miền Bắc đều không có từ này. Trong
Đại Nam quốc âm tự vị của
Huỳnh Tịnh Của cũng chưa thấy có.
Kể ra, quá tŕnh chuyển nghĩa từ một cái ǵ độc dữ hay hung hăn (rắn
hổ / cọp cái) đến h́nh ảnh những kẻ xài ḅn, chỉ thích đọc ké, đọc
chùa, chứ không chịu mua và trả tiền đàng hoàng rơ ràng là một
chuyển biến thú vị, ở đó, uy thế và hào quang của loài chúa tể sơn
lâm dường như không c̣n nữa. Cọp bị truất ngôi.
Tương tự là trường hợp của con c̣. Trong ca dao Việt Nam, con c̣ là
một trong những con vật xuất hiện nhiều nhất, và nói chung, với
nhiều ưu ái nhất. C̣ được xem là h́nh ảnh của những người dân quê
thật thà, chất phác, hay lam hay làm và chịu thương chịu khó, thỉnh
thoảng, c̣n bị oan khuất nữa. Trong lănh vực ngôn ngữ, c̣ là một
trong những chữ có khả năng chuyển nghĩa rộng răi và đa dạng nhất
trong các từ chỉ động vật. Trước hết, c̣ có nhiều loại: c̣ bợ, c̣
dang, c̣ đen, c̣ đĩa, c̣ độc, c̣ hương, c̣ lửa, c̣ ma, c̣ ngà, c̣
trâu, c̣ quăm, v.v… Không phải c̣ nào cũng trắng nhưng dù sao màu
trắng cũng là màu chủ đạo của giống c̣; do đó, c̣ trở thành từ đồng
nghĩa với trắng. Ở Nam Bộ, người ta gọi vịt trắng là vịt c̣, chó
trắng là chó c̣, và trâu trắng cũng là trâu c̣… H́nh ảnh mảnh mai và
gầy guộc của c̣ thâm nhập vào h́nh ảnh của con người với cổ c̣ và
thân c̣ (nhớ h́nh ảnh bà vợ của Tú Xương: "Lặn lội thân c̣ khi quăng
vắng"). H́nh ảnh có "cái cổ cong cong" và "cái cẳng cao cao" ấy cũng
trở thành tên gọi của một số vật dụng: chiếc bẫy c̣ ke và cái c̣
trong các khẩu súng hiện đại. Đi lóm thóm, chúng ta nói: c̣ ṛ. Đứng
hay ngồi thu ḿnh lại, chúng ta nói: co ro, hẳn là biến âm của chữ
c̣ ṛ vừa kể. Tính cần cù, hiền lành và từ tốn của c̣ làm nảy ra các
tính từ "c̣ con" và "c̣ rỉa" chỉ những việc làm có quy mô nho nhỏ,
lợi lộc nho nhỏ, với những tính toán và những ước mơ nho nhỏ. C̣ kè
th́ mang âm hưởng xấu hơn, không chừng do ảnh hưởng của
Truyện
Kiều với h́nh ảnh của Mă Giám Sinh, nhất là lúc mua Thuư Kiều "C̣
kè bớt một thêm hai…" Dù sao, điều thấy rơ nhất là càng ngày chữ c̣
càng nghiêng về những h́nh ảnh tiêu cực. Ở Việt Nam hiện nay, chữ c̣
được sử dụng rất rộng răi: c̣ đĩ điếm, c̣ bến xe, c̣ bệnh viện, c̣
nhà đất, c̣ thi cử, c̣ lao động xuất khẩu, v.v… Ở đâu c̣ cũng ám chỉ
những người mối lái, mánh mung, chụp giật, chuyên làm những điều bất
chính và bất hảo.
[1]
Từ h́nh ảnh những người lam lũ trong "cái c̣ đi đón cơn mưa" và
những người chịu oan khuất trong "không, không, tôi đứng trên bờ /
mẹ con cái vạc đổ ngờ cho tôi", c̣ hiện đại lại là những kẻ đi lừa
gạt người khác. Cũng là một thoái bộ. Y như cọp.
H́nh như trong tiếng Việt, và từ đó, trong tâm thức người Việt, con
heo chưa bao giờ là biểu tượng của cái ǵ tốt đẹp cả. Nghĩ đến heo,
người ta thường nghĩ đến thói tham ăn, lười biếng, dơ dáy và ngu
ngốc: lười như heo, dơ như heo, ngu như heo, v.v… Sau này, có lẽ do
ảnh hưởng của phương Tây, heo c̣n tồi tệ hơn nữa: nó trở thành biểu
tượng của nhục dục, thậm chí, dâm dục: con lợn ḷng hay phim con heo,
v.v…
Các con vật khác ít thay đổi hơn. Voi và trâu được xem là biểu tượng
của sự to lớn, dềnh dàng, do đó, chúng ta có sâu voi, châu chấu voi,
cá voi, chân voi... ruồi trâu, đỉa trâu, hổ trâu… Có thai quá ngày
mà không sinh được, người ta gọi là chửa trâu hay nghén trâu... Để
tả tính cách của con người, nói đến rùa là nói đến sự chậm chạp; nói
đến gấu là nói đến sự dữ dằn; nói đến cáo hay rắn là nói đến những
mưu mô thâm độc; nói đến ruột ngựa là nói đến sự ngay thẳng nhưng
nói đến tính ngựa th́ lại nói đến sự dâm đăng ở phụ nữ, tương tự như
chữ dê xồm dành cho nam giới. Ngoài ra, một số tên động vật cũng trở
thành h́nh dung từ miêu tả một trạng thái nào đó của con người hay
liên hệ đến con người: bơi bướm, tin vịt, học vẹt, nảy đom đóm, ngủ
gà (ngủ gật), chim chuột, nhảy (ḷ) c̣, v.v…
Liên quan đến việc chuyển nghĩa và chuyển từ loại, có vài chữ thật
thú vị. Như chữ khỉ, chẳng hạn.
Trong tiếng Việt có nhiều từ để chỉ khỉ: hầu, khỉ, khởi, khẹc, khọn,
[2] tườu, nỡm, bú
dù, đười ươi, vượn và nghề.
[3]
Mười một từ. Như vậy, số lượng từ vựng chỉ khỉ bằng, thậm chí, c̣n
nhiều hơn cọp và chó. Mà kể cũng có lư. Ngày xưa, ruộng đồng c̣n gần
rừng núi, khỉ hay xuất hiện phá hoa màu, do đó, người dân hay bị khỉ
ám ảnh. Nghe kể, người ta tin là khỉ có thể hiểu được tiếng người
cho nên mỗi lần nhắc đến chúng, nhất là để than thở hay oán trách,
người ta thường gọi chệch tên chúng đi. Danh sách tên gọi của khỉ,
do đó, cứ dài ra măi. Nhưng có điều lạ là, dù bị phá hoại mùa màng,
h́nh như người Việt Nam không sợ và cũng không ghét khỉ lắm. Trong
tiếng Việt, chữ khỉ chỉ gợi lên ấn tượng về thói láu táu, phét lác,
nghịch ngợm và phá phách. Những lời mắng liên quan đến khỉ khá nhiều
nhưng hầu hết đều có ư nghĩa khá nhẹ, có khi chỉ là mắng yêu, và
thường th́ thoáng chút bỡn cợt: "Đồ con tườu!", "Đồ con khẹc!", "Đồ
nỡm!", "Đồ bú dù!" hay "Đồ khỉ gió!", "Đồ khỉ đột, thấy mà ghét!", "Khỉ
mốc, đừng tưởng bở!", "Chẳng ra cái khỉ khô ǵ cả!", v.v... Những
chữ như khỉ cùi, khỉ độc, khỉ đột, khỉ gió, khỉ khô, khỉ mốc... nghe,
thoạt tưởng nặng, ngẫm lại, thấy cứ nhẹ thênh thênh.
Những con vật khác th́ không có âm hưởng nhẹ nhàng như thế.
Đồ
cáo già, đồ rắn độc, đồ trâu ḅ, đồ đĩ ngựa, đồ dê xồm, đồ sâu mọt,
đồ mèo mả gà đồng, v.v... đều nặng nề. Nhưng nặng nhất là những
lời mắng có từ tố chó. Lời mắng với những con vật khác nhằm lên án
một khía cạnh nào đó trong tính cách của người bị mắng: hoặc quỷ
quyệt, hoặc độc ác, hoặc ngu xuẩn, hoặc dâm đăng, v.v... C̣n lời
mắng có từ tố chó, từ "chó" đến "chó má", "chó chết", 'chó ghẻ"...
đều nhằm phủ nhận toàn bộ tư cách làm người của người đó. Một sự phủ
định toàn diện và tuyệt đối.
Chữ 'cóc" cũng là một từ phủ định, nhưng ư hướng phủ định th́ khác
hẳn. Đó là sự phủ định kèm theo hàm ư thách thức. Phủ định và thách
thức. "Cóc cần" là không cần, hơn nữa, dù thế nào đi nữa cũng không
cần. "Cóc ngán" là không ngán, hơn nữa, dù thế nào đi nữa th́ cũng
vẫn không ngán. Kết hợp phủ định với chữ "cóc", do đó, mạnh mẽ và
dứt khoát hơn hẳn kết hợp phủ định với từ "không" hay "chẳng" hay "chả"
quen thuộc.
Trong hầu hết các trường hợp, những chữ cóc mang ư nghĩa phủ định ấy
đều có thể được thay thế bằng một trong ba chữ khác: nơ, đách và
đếch:
cóc cần, nơ cần,
[4]
đách cần, đếch cần;
cóc thèm, nơ thèm, đách thèm, đếch thèm;
cóc sợ, nơ sợ, đách sợ, đếch sợ;
cóc ngán, nơ ngán, đách ngán, đếch ngán, v.v...
Nhưng nơ, đách hay đếch nghĩa là ǵ?
Theo
Từ điển Tiếng Việt của Văn Tân: "Nơ: Bộ phận sinh dục
ngoài của đàn ông";
[5]
"Đách: Cơ quan sinh dục của đàn bà". Trong
Việt Nam Tự Điển,
Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ giải thích chữ "đếch" ("đách") hơi khác:
"Đếch: Đách, chất nhờn, dơ trong âm hộ." Định nghĩa này có vẻ gần
với cách hiểu của Alexandre de Rhodes trong
Từ điển Việt Bồ La:
"Đếch: tinh khí con người". Khác, hơi khác, nhưng dù sao nó cũng
liên quan đến bộ phận sinh dục của phụ nữ. Và như vậy, thực chất của
những cách nói quen thuộc như "nơ sợ", "đếch sợ" hay "đách sợ" là
ǵ? Là, xin lỗi, nói một cách nôm na, "Sợ cái con c." hay "sợ cái
l."
Tục tĩu quá chăng? Trước khi đánh giá, xin lưu ư bạn đọc một điều:
Trong tiếng Anh hiện nay, chữ
Testament sang trọng biết chừng
nào. Nó là tên của thánh kinh đấy:
Old Testament = Cựu Ước;
New Testament = Tân Ước. Chữ
Testament có động từ là
testify có nghĩa là khai, tuyên thệ hay làm chứng. Nhưng từ
nguyên của
testify là ǵ? Có nhiều giả thuyết khác nhau,
nhưng một trong các giả thuyết ấy là: chữ
testify bắt nguồn
từ
testis nghĩa là... ḥn dái. Theo giả thuyết này, ngày xưa,
dĩ nhiên là xưa lắm lắm, ở La Mă, mỗi lần ra trước toà án, người ta
thường đặt tay lên bộ phận sinh dục của ḿnh mà... thề.
[6] Th́, có ǵ đáng
ngạc nhiên đâu? Thời ấy, lâu rồi, với tín ngưỡng phồn thực,
[7] người ta từng
xem các bộ phận sinh dục là những vật linh thiêng. Người ta phong
thần cho chúng. Người ta tạc tượng chúng. Người ta bày chúng ở những
nơi trang trọng nhất để thờ. Thờ được th́ dùng để thề cũng được, sao
lại không?
Theo chỗ tôi biết, trong khi có vô số bằng chứng về sự hiện hữu của
tín ngưỡng phồn thực tại Việt Nam,
[8] chưa có bất cứ chứng cớ ǵ, dù xa dù gần, cho
thấy người Việt Nam từng đặt tay lên bộ phận sinh dục để thề thốt
cả. Thề, chúng ta chỉ tay lên trời hoặc xuống đất mà thề. Bộ phận
sinh dục, chúng ta chỉ gọi tên hay vỗ vào đó khi cần chửi nhau mà
thôi. Hồi nhỏ, ở Việt Nam, tôi đă từng thấy rất nhiều lần trong làng
xóm hoặc những nơi tôi t́nh cờ đi qua, h́nh ảnh những phụ nữ đứng
dạng chân, trước hằng trăm cặp mắt chăm chú ngó, vỗ tay đồm độp vào
giữa háng của ḿnh, đ̣i đối thủ phải bú, phải liếm hay nhét đầu vào
đó. Tôi cứ nghĩ đó là cách hành xử của những người ít học. Mà h́nh
như không hẳn thế. Cách đây mấy năm, đọc cuốn
Ghi của Trần
Dần, tôi bắt gặp một câu văn mà tôi rất thích. Trong một đoạn nhật
kư viết rải rác từ ngày 20 tháng 9 đến ngày 1 tháng 10 năm 1954,
nhân nhắc đến các chủ trương bắt mọi người phải học tập chính trị
liên tục của chính quyền miền Bắc ngay sau hiệp định Geneva, Trần
Dần viết:
"Tôi muốn tả được những chiến sĩ cố nông lấy thân ḿnh lấp lỗ
châu mai. Và cũng người chiến sĩ cố nông chỉ muốn lấy thân ḿnh
làm túi cơm giá áo. Những người chiến sĩ xô vào lửa quên ḿnh và
những chiến sĩ sĩ chùn về sau xó bếp, cháy quần v́ rang ngô.
Người anh hùng và người dút dát. Người đang dút dát thành anh
hùng. Người đang anh hùng tụt xuống dút dát. Người lấy súng bắn
địch và người lại lấy súng tự thương. Những người chiến sĩ lầm
ĺ và những người chiến sĩ ba hoa. Người thuần, người ngổ ngáo.
Người chỉ biết phục tùng, người hay căi bướng. Và đa số là ngại
học tập, ngại nghe đả thông. Ngại nghe cán bộ nói nhiều. Ngại bị
'nắm tư tưởng'. Nắm, nắm con cặc."
[9]
Tôi thích cái câu cuối cùng ấy. Nó hiên ngang. Nó hùng dũng. Nó đầy
khí lực và khí thế. Và tôi tin là tôi hiểu được tại sao Trần Dần lại
hạ bút viết như vậy. Cũng như tôi hiểu tại sao ngày xưa Nguyễn Công
Trứ từng hạ bút làm thơ "Đéo mẹ nhân t́nh đă biết rồi".
Sống trong một xă hội như xă hội Việt Nam, chỉ có thánh may ra mới
không biết chửi tục.
Melbourne 20.11.2003
© 2003 talawas
[1]Ví dụ, trên báo Công An thành phố Hồ Chí
Minh số ra ngày 1.12.1998, có một bài viết nhan đề là "Một loại
c̣... cao cấp" viết về những người tổ chức mua bán hàng lậu với các
tàu hàng nước ngoài. Mở đầu bài viết, tác giả định nghĩa chữ c̣ mới
này như sau:
"Trong nền kinh tế thị trường luôn xuất hiện một lớp người vô
công rồi nghề làm ăn không chính đáng, chuyên đi rủ rê, thậm chí
chụp giật mà chúng ta quen gọi là c̣. C̣ có đủ loại, đủ mọi
thành phần tuổi tác, nghề nghiệp: c̣ bệnh viện, c̣ bến tàu, bến
xe, c̣ ăn chơi mại dâm, c̣ nhà đất, v.v..."
[2]Đại Nam quốc âm
tự vị của Huỳnh Tịnh Của nêu ví dụ: "Làm con khọn: làm chẳng nên sự
ǵ (tiếng mắng).
[3]Trong Việt Nam
Tự Điển, Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ định nghĩa "nghề" là: "Con khỉ:
Bộ dạng như con nghề." (tr. 1056). Ngoài ra, Lê Văn Đức và Lê Ngọc
Trụ cũng ghi thêm một chữ nữa, chữ "may" với lời giải thích là: "Tiếng
gọi khỉ: May! May!" (tr. 879). Tôi phân vân không biết có thể xem
"may" là một tên gọi khác của khỉ hay không.
[4]Cách dùng chữ "nơ"
như thế này h́nh như không c̣n thông dụng lắm th́ phải. Tuy nhiên,
nó cũng đă được ghi nhận trong từ điển. Các kết hợp với "nơ" được Lê
Văn Đức và Lê Ngọc Trụ nêu ra: nơ cần = đâu cần; nơ là = chẳng cứ là;
nơ lo = không lo, chẳng cần lo. Huỳnh Tịnh Của cũng ghi nhận một số
kết hợp tương tự trong phần chữ "nơ": nơ lo = chả lo, chẳng thèm lo;
nơ sợ = chẳng sợ; nơ thèm = chả thèm.
[5]Cả Huỳnh Tịnh
Của lẫn Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ đều không ghi nghĩa nơ là dương
vật. Tuy nhiên, ư nghĩa ấy khá hiển nhiên, không có ǵ phải hoài
nghi cả: trong lễ hội "nơ nường" ở Vĩnh Phú, nường là cái mo cau,
tương trưng cho âm hộ và nơ là cái chày bằng gỗ vông tượng trưng cho
dương vật.
[6]Xem, ví dụ,
trong The American Heritage, Dictionary of the English Language, ấn
bản lần thứ tư, 2000, mục từ "Testis", hay bài "Chín nẻo thuyền
quyên" của Nguyễn Hoàng Văn trên tạp chí Việt số 4 (đầu năm 2000) (
http://tienve.org)
[7]H́nh thức tín
ngưỡng dân gian, thờ sinh thực khí (bộ phận sinh dục) và hành vi
tính giao.
[8]Xem Đỗ Lai Thuư
(1999), Hồ Xuân Hương, hoài niệm phồn thực, Hà Nội: nxb Văn hoá
Thông tin, tr. 55-104.
[9]Trần Dần (2001),
Ghi (Phạm Thị Hoài biên tập và hiệu đính), Paris: td mémoire, tr.
47-8