Home T́m Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
  Cung cấp: Tieuboingoan

Thăng long Hà Nội trong ca dao ngạn ngữ - 5

Nhà xuất bản Hà Nội - 2002

Giang Quân sưu tầm, biên soạn
(In lần thứ hai có bổ sung, sửa chữa)


Phần 4 - Ca Dao

200. Bao giờ hết chủ Hồ Tây
Vét sông Tô Lịch có ngày ấm no.

201. Thứ nhất là tội đeo gông
Thứ nh́ đất Gưởi nằm không có màn.

202. Làng Ṿng bán lợn, bán gà
Làng Thụy nấu rượu la đà cả đêm.

203. Yên Phụ buôn bán dưới thuyền
Xuống đ̣ Phố Mới bán than quạt trà.

204. Giếng Yên Thái vừa trong vừa mát
Đường Yên Thái gạch lát dễ đi
Em về bên ấy làm chi
Nước giếng th́ đục, đường đi th́ lầy.

205. Yên Thái có giếng trong xanh
Có đôi cá sấu ngồi canh đầu làng
Ai qua nhắn nhủ cô nàng
Yêu nhau xin chớ phũ phàng đổi thay.

206. Nước Hồ Tây vừa trong vừa mát
Đường chợ Bưởi lắm cát dễ đi
Cô kia bóng bẩy làm chi
Để cho anh ấy đi đi về về.

207. Chợ Bưởi một tháng sáu phiên
Rủ nhau đi chợ nên duyên đèo ḅng
Ngày tư, ngày chín em mong
Buồng cau, con lợn bận ḷng anh lo.

208. Chợ Bưởi ngày chín, ngày tư
Riêng một tháng tám lại dư phiên rằm
Ai ơi nhớ lấy kẻo nhầm
Đi mua hoa quả chơi rằm trung thu.

209. Nhất vui là chợ Ma Phường
Lắm hàng mọi chốn t́m đường đến mua
Hàng cau, hàng quít, hàng dừa
Hàng mơ, hàng mận, hàng dưa, hàng hồng.
Ai lên Yên Thái mà trông
Trẻ già trai gái vợ chồng dắt nhau.

210. Làng Nghè lập được trống quân
Ngoài Bưởi seo giấy cho dân học hành.

211. Đêm qua bóc uốn một ḿnh
Nghe hơi sương xuống nhớ t́nh nhân xưa
T́nh nhân xưa bây giờ xa vắng
Nỗi mong chờ cay đắng riêng em
Than ôi tăm cá, bóng chim
Biết đâu đường lối mà t́m hỡi ai!

212. Tàu seo nước giá như đồng
Tay đưa liềm giấy mà ḷng nhớ ai
Nhớ người tuổi ngoại đôi mươi
Da xanh mai mái miệng cười đưa duyên.

213. Mong cho chóng đến vụ hè
Tàu seo nghỉ việc em về với anh
Cùng nhau gánh đá xây thành
Trăm năm ǵn giư xmối t́nh đôi ta.

214. Mong cho chóng đến vụ hè
Tàu seo nghỉ việc anh về với em
Cùng nhau xe chỉ mài kim
T́nh kia khâu lại cho thêm chắc bền.

215. Người ta bán vạn, buôn ngàn
Em đây làm giấy cơ hàn vẫn tươi
Dám xin nho sĩ chớ cười
Công em khó nhọc, giấy người viết thơ.

216. Người ta đúc tượng làm chùa
C̣n em làm giấy bốn mùa chẳng ngơi
Dám xin sư bác chớ cười
V́ em làm giấy cho người chép kinh.

217. Giă nay rồi lại gia xmai
Đôi chân tê mỏi, đó ơi v́ mày
Seo đêm rồi lại seo ngày
Đôi tay nhức buốt v́ mày giấy ơi!

218. Ai ơi đứng lại mà trông
Ḱa vạc nấu đó, ḱa sông đăi b́a
Ḱa giấy Yên Thái như kia
Giếng sâu chín trượng nước th́ trong xanh
Đầu chợ Bưởi có điếm cầm canh
Người đi kẻ lại như tranh họa đồ
Cổng chợ có miếu thờ vua
Đường cái chính xứ lên chùa Thiên Niên
Chùa Thiên Niên có cậy vọng cách
Chùa Bà Sách có cây đa lông
Cổng làng Đông có cây khế ngọt
Con gái Kẻ Cót th́ đi buôn xề
Con trai làng Nghè dệt cửi kéo hoa
An Phú nấu kẹo mạch nha
Làng Ṿng làm cốm để mà tiến vua.
Họ Lại làm giấy sắc vua
Làng Láng mở hội kéo cờ hùng ghê.

219. Tiếng đồn con gái Nghĩa Đô
Quanh năm làm giấy cho vua được nhờ.

220. Ai ơi mua đó khó ḷng
Không đi lên ẻn th́ mong mỗi ǵ!

221. Trèo lên cây gạo cao cao
Ḱa vạc nấu đó, ḱa ao dặm b́a.

222. Nàng về buôn bán cho ngoan
Để anh giă giấy lấy quan tiền dài.

223. Anh về đi học cho ngoan
Để em cửi vải kiếm quan tiền dài.

224. Nhịp chày giă đó nhặt thưa
Đèn le lói sáng ḷng ngơ ngẩn buồn
Nhớ ai mê mẩn tâm hồn
Thương ai mong đợi mỏi ṃn tháng năm.

225. Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về Cầu Giấy với anh th́ về
Làng Giấy có lịch có lề
Có sông tắm mát, có nghề xeo, can...
Tay can ḷng những nhủ ḷng
ở đây ấm áp lạnh lùng thương ai
Đường trần nay ngược mai xuôi
Gió hôm sương sớm ngậm ngùi một thân.

226. Thương người dăi nắng dầm mưa
Cho em cây đó, em đưa miếng trầu
Trầu này đệm với vôi tầu
Ăn dăm ba miếng kẻo rầu ḷng em.

227. Rủ nhau mua nứa trên Trừm
Bơi qua băi cát mới đem về nhà
Đem về mới đến băi ta
Rỡ xong mới vác về nhà mới cưa
Mồ hôi lă chă như mưa
Cưa rồi mới thiến, thiến rồi mới pha
Ngồi rồi lại vót nan ra
Tính xem vốn lại được là bao nhiêu.

228. Phủ Hoài Đức có làng Tây Mỗ
Đất ph́ nhiêu dân số cũng đông
Tám trăm tám tám đàn ông
Sáu trăm tám sáu mẫu đồng tốt tươi
Kiểu danh thắng lắm nơi đáng kể
Trước sóng đào sau kế ao sen
Bồ Đề, Cống Hạnh, Cầu Tiên
Đ́nh trên lưng cá nằm nghiêng giữa làng.
Đồng cao thấy miên man g̣ đống
Làng tṛn xoe, đất rộng của nhiều
Bán buôn thịnh nhất nghề thêu
Học hành ai cũng có điều đáng khen.

229. Đi đâu mà chẳng biết ta
Ta ở kẻ Láng vốn nhà trồng rau
Rau thơm, rau húng, rau mùi
Th́ là, cải cúc, đủ mùi hành hoa.
Mồng tơi, mướp đắng, ớt, cà
Bí đao, đậu ván vốn nhà trồng nên
Anh giúp em đôi quang tám dẻ cho bền
Mượn người lịch sự gánh lên kinh kỳ
Gánh lên chợ Mới một khi
Mong cho đến chợ em th́ nghỉ ngơi
Cậu cai phát vé vừa rồi
Một lúc lại thấy cậu bồi ra mua
Củ hành em bán một xu
Củ cải hai rưỡi, tính xu lấy tiền
Người hiền ra bán của hiền
Nào em có dám cửa quyền cậu đâu
Bán hàng mắt trước mắt sau
Ḱa thằng đội xếp đứng đầu Hàng Ngang.

230. Đầm Đại Từ hoa sen thơm ngát
Giếng Đại Từ nước mát trong xanh
Ḍng Tô uốn khúc lượn quanh
Đất nuôi trẻ nhỏ lừng danh trong ngoài.

231. Sông Tô nước chảy quanh co
Phạm Công hiển hóa, âm pḥ quốc vương.

232. Hỡi cô đội nón quai thao
Đi qua Thanh Liệt th́ vào làng anh
Làng anh Tô Lịch trong xanh
Có nhiều vải, nhăn ngon lành em ăn.

233. Hỡi cô mà thắt bao xanh
Có về Kim Lũ với anh th́ về
Kim Lũ có hai cây đề
Cây cao bóng mát gần kề đôi ta
T́nh sâu không quản đường xa
Nhà anh cao rộng cũng là nhà em
Nhà anh có con sông êm
Cho em tắm mát những đêm mùa hè.

234. Ḿnh từ làng kẹo mà ra
Nên ḿnh nói ngọt cho ta phải ḷng.

235. Vua Ngô ba mươi sáu tàn vàng
Chết xuống âm phủ chẳng mang được ǵ
Chúa Chổm uống rượu t́ t́
Chết xuống âm phủ khác ǵ vua Ngô.

236. Nhật tŕnh từ Ráy đến ô
Bây giờ ta kể duyên do các làng
Tứ Kỷ đó rơ ràng
Trông lên lại thấy một làng Pháp Vân
Trông xa rồi lại trông gần
Đại Từ trước mặt, sau lưng Linh Đường
Vang lừng chợ Sét một bên
Qua cầu lại thấy bên trên có chùa
Kẻ đi người lại như đua
Kẻ đi ghé nón, người vô cúi đầu
Nhác trông làng Tám càng màu
Thiên thanh con lục, địa đầu Tam Giang.

237. Đồn rằng Văn Điển vui thay
Ngoài phố chợ họp năm ngày một phiên
Tàu qua phố dưới, phố trên
Đ́nh th́ ở giữa hai bên rặng bàng.
Làng Mơ cất rượu khê nồng
Làng Vọng dệt gối, chăn tằm làng Mui
Kẻ Giả th́ bán bùi nhùi
Làng Lê bán phấn cho người tốt da
Kẻ Vọng khéo ngọc, khéo ngà
Đưa đem đi bán cho nhà kẻ sang
Kẻ Lủ th́ bán bỏng rang
Trên Ô hàng Đậu lắm hàng nhiều thay
Ngâu, Tựu th́ bán dao phay
Dù đem chặt nứa gẫy cây lại liền
Trong kho lắm bạc nhiều tiền
Để cho giấy lại chạy liền với dây.

238. Làng Quang dưa, vải khắp đồng
Ngô khoai khắp ruộng, nhăn lồng xóm Văn

239. ớt cay là ớt Định Công
Nhăn ngon là loại nhăn lồng làng Quang.

240. Làng anh rặt thợ kim hoàn
Để anh đánh nhẫn cho nàng đeo tay.

241. Ai về Khương Hạ, Đ́nh Gừng
Dưa chua, cà muối, xin đừng quên nhau
Dù ai buôn đâu bán đâu
Cũng không bỏ được cống Ngâu chợ Chùa.

242. Vải ngon th́ nhất làng Bằng
Khắp thành Hà Nội hỏi rằng đâu hơn
Củ đậu Bằng Thượng thiếu ǵ
Dưa hấu Bằng Hạ đâu b́ được chăng.

243. Thanh Tŕ có bánh cuốn ngon
Có g̣ Ngũ Nhạc có con sông Hồng
Thanh Tŕ cảnh đẹp người đông
Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh.

244. Làng Đam bán mắm tôm xanh
Làng Họa đan dó, làng Tranh quay guồng
Đông Phù cắp thúng đi buôn
Đông Trạch bán thịt, làng Om văn thừng
Tương Trúc th́ giỏi buôn sừng
Tự Khoát đan thúng, Vẹt từng làm quan.

245. Làng Đam th́ bán mắm tôm
Làng Họa đan dó, làng Om quấn thừng
Tương Trúc làm nghề lược sừng
Tự Khoát đan thúng, Vĩnh Trung làm giành.

246. Nôi Am là chính quê em
Bện thừng, đẽo guốc đă quen lắm rồi
Lại c̣n nổi tiếng khắp nơi
Làm bánh mứt kẹo ăn chơi tết, rằm.

247. Đất ta là đất làm thừng
Trăm chắp ngh́n nối xin đừng quên nhau.

248. Đẹp nhất con gái làng Tranh
Chua ngoa Kẻ Nhót, ba vành Kẻ Om.

249. Quê hương nghĩa nặng t́nh sâu
Thấy hoa gạo đỏ rủ nhau cùng về.

250. Anh về Hạ Thái, Đông Phù
Ghé vô B́nh Vọng th́ cho em về
Xa xôi đường sá chẳng nề
Yêu anh tài sắc v́ nghề thợ sơn.

251. Đông Phù có sông Tô Lịch
Có con người lịch họa phượng, họa rồng
Yêu nhau chẳng quản đèo ḅng
Cách mười sông, chín núi cũng một ḷng theo anh.

252. Ai về chợ Nhót mua tranh
Mua hàng quả hộp, mua hoành sơn son
Mua con người lịch đẹp gịn
Múa tay thảo nét trúc vờn, điều bay.

253. Trèo lên cây gạo cao cao
Lệ cheo làng Nhót độ bao nhiêu tiền?
Cheo thời có bảy quan hai
Lệ làng khảo rể trăm hai mươi vồ.
Thôi thôi tôi giă ơn cô
Tiền cheo cũng nặng, trăm vồ cũng đau.

254. Em c̣n đi cấy làm chi
Có nón có áo cắp đi theo thuyền
Ông trời đă kết nhân duyên
Em ơi về Hữu xuống thuyền với anh.

255. Nhuệ giang nước chảy quanh co
Nào ai xuôi ngược con đ̣ em đưa

256. Nhất ngon là mía Lam Điền
Trai khôn kẻ Tó, gái hiền Từ Trung

257. Em là con gái Kẻ Ngâu
Em đi buôn chỉ dăi dầu sớm hôm
Cái khăn vuông thâm nửa đội, nửa cầm
Khăn đội rơi mất, khăn thân lập lờ
Anh ơi nhặt giúp em nhờ
Công anh nhặt giúp bao giờ cho quên
Anh quên, em chẳng cho quên
Anh nhớ, em nhớ mới nên vợ chồng.

258. Bún ngon bún mát Tứ Kỳ
Pháp Vân cua ốc đồn th́ chẳng ngoa.

259. Muốn ăn chiêm quưt mùa ri
Đem con mà gả nhân ngh́ Huỳnh Cung.

260. Yên Ngưu đất thực là ương
Kẻ nấu rượu lậu, người tương đó mà.

261. Rượu ngon xưa vốn nghề nhà
Hoàng Mai, Vọng Thủy không qua rượu Vồi.

262. Em là con gái Kẻ Mơ
Em đi bán rượu t́nh cờ gặp anh
Rượu ngon chẳng quản be sành
áo rách khéo vá hơn lành vụng may
Rượu lạt uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm hết hay hóa nhàm.

263. Làng Mui th́ bán củi đồng
Nam Dư mía mật giầu ḷng ăn chơi
Thanh Tŕ buôn bán mọi nơi
Đồng Nhân, Thúy ái là nơi chăn tằm
Làng Mơ th́ bán rượu tăm
Sở Lờ cua ốc quanh năm đủ đời.

264. Sở Mui chẳng khác Sở Lờ
Quanh năm cua ốc, be bờ, đắp mương
Sống ngâm thịt chết ngâm xương
Trời ơi có biết trăm đường cực không!

265. Kẻ Mui anh đă biết chưa
Đàn ông vác nặng be bờ, đắp truông
Mẹ em đẻ em trong buồng
Về sau em lớn quay guồng ươm tơ.

266. Huyện Thanh Tŕ kia làng Thịnh Liệt
Đồn cá rô Đầm Sét là ngon
Bấy lâu cạn nước trơ bùn
Biết rằng hương vị có c̣n như xưa.

267. Nhất trong là nước giếng Hồi
Nhất béo nhất bùi cá rô Đầm Sét.

268. Kẻ chơi một huyện Thanh ?Tŕ
Mọc th́ gạo xáo, Láng th́ trồng rau
Đ́nh Gừng bán cá đội đầu
Định Công đan gối, Lủ Cầu bánh trong.

269. Mỗi năm vào dịp xuân sang
Em về Triều Khúc xem làng hội xuân
Múa cờ, múa trống, múa lân
Nhớ ai trong hội có lần gọi em...

270. ở giữa Văn Quán, Phùng Khoang
Có làng công nghệ là làng Đơ Thao
Tơ thanh, sợi óng, chỉ màu
Nón thúng đă đẹp, quai thao lại bền.

271. Ai mang chiếc nón quai thao
Để anh thương nhớ ra vào khôn nguôi.

272. Nón em đang đội trên đầu
Anh mà giật mất dạ sầu em thay
Lấy ǵ mà đội hôm nay
Anh mua nón khác, nón này em xin
Nón em chả đáng đồng tiền
Chưa kết được bạn chưa yên cửa nhà
Nón em mua ở tỉnh xa
Mua ở Hà Nội quan ba mươi đồng
Trở về gặp khách má hồng
Sao anh ăn ở ra ḷng thờ ơ
Mua nón, em phải mua tua
Nón này thày mẹ em mua rành rành
Nhẽ đâu em để cho anh
Về nhà mẹ mắng, em đành bảo sao.

273. Nón này Hà Nội làm ra
Mang lên tỉnh Bắc thêu hoa rơ ràng
Vợ chồng đồng tịch đồng sàng
Mà chàng bắt nón em ngang giữa đường
Để mà nắng gió hôm nay
Má hồng em nhạt thế này chàng ơi
Bây giờ chàng giả nón tôi
Tôi đội cái nón che đôi má hồng
Bao giờ kết nghĩa vợ chồng
Th́ chàng lại được má hồng tốt tươi.

274. Nghĩ cảnh sống làng ta mà chán
Nợ bề bề, ruộng bán không trôi
Năm nay tết đến nơi rồi
Chủ Hàng Bồ sắp cho người về thăm
Người năm chục kẻ một trăm
Bấm tay nợ phải đến dăm ba ngh́n...

275. Làng tôi công nghệ đâu bằng
Là làng Triều Khúc ở gần Thanh Xuân
Quai thao tết khéo vô ngần
Là nghề của Vũ sứ thần dạy cho
Tóc rối, lông vịt, mă c̣
Bán ra ngoại quốc cũng to mối lời
Khăn san kiểu lối tân thời
Cấy tua chân chỉ mọi người đều tinh
Tua cờ nhà đạo, nhà binh
Bán ra Hà Nội, Huế, Vinh, Sài G̣n
Chân chỉ hạt bột y môn
Chỉ tơ, chỉ gốc, lại c̣n chỉ thêu
Dây đàn, dây rút thật nhiều
Chỉ quả chữ thọ có điều tinh thông
Khéo thay những dải kim ṭng
Được bằng thưởng nhất Hà Đông bảo tàng
Phu-la, tơ lụa, đăng ten,
Tiêu thụ các xứ bán buôn thật nhiều
Buồng chơi dùng đệm lông cừu
Hỏi thăm Triều Khúc có nhiều tài hoa
Thắng đai ngựa, chổi lông gà
Thắt lưng, khăn mặt người ta thường dùng
Len đan mũ trẻ ít công
“Tích-cô” dệt máy dùng trong mùa hè
Hoa bằng lông vịt mới kỳ
Giỏ đựng ấm tích bằng tre khéo làm
Nghề kẹo mạ, thợ kim hoàn
Nghề nào cũng giỏi khôn ngoan ai tày
Quai úi dết, sợi giày tây
Vẽ tranh sơn thủy dùng bày pḥng chơi
Hơn ba mươi nghệ tân thời
Sĩ, nông, công, cổ mọi người đều hay
Nghề nào cũng khéo chân tay
Nhất thân vinh hiển buổi này cạnh tranh
Đơ thao Triều Khúc rành rành
Tiếng khen công nghệ nổi danh Bắc Kỳ.

276. Ai về Yên Xá th́ về
Có ao tắm mát có nghề thêu ren

277. Mấy ông quan huyện Thanh Tŕ
Khéo khôn: mỡ lấy, xương b́ ông không
Lỗ lăi ông đắn sâu nông
Được lời ông lấy, lỗ không thèm nh́n
Kiện cáo vài lạng làm tin
Của cải ông vét ông t́m ở đâu...

278. Ông quan ở huyện Thanh Tŕ
Miếng mỡ th́ lấy, miếng b́ th́ chê.

279. Gia Lâm có đất Cổ Bi
Muôn đời cảnh đẹp c̣n ghi rành rành
Chín mươi chín núi chung quanh
ở giữa hồ tả, bên thành hồ sen
Cửa tả, cửa hữu, cửa tiền
Ngũ hồ, tam đảo ở trên Trầu Quỳ
Cầu Ḷn đường cái quan đi
Hậu miếu, hậu phủ c̣n ghi rơ truyền
Này điện Cần Chánh, Kính Thiên
Voi đá, sấu đá hai bên sân rồng
Lại thêm hổ đá ngự pḥng
Đủ nền dinh thự khắp trong nội thành
Tương truyền đây đất đế kinh
Bao nhiêu cảnh đẹp lừng danh trong ngoài.

280. Trên trời có đám mây xanh
ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ước ǵ anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân
Có rửa th́ rửa chân tay
Chớ rửa lông mày chết cá ao anh.

281. Hồ sen xây gạch Bát Tràng
Pḥng khi nóng nực thiếp chàng nghỉ ngơi.

282. Xưa kia mộc mạc mao từ
Nay thời ngói lợp chu vi trang hoàng
Xưa kia tre trúc tầm thường
Nay thời tứ thiết vững vàng biết bao
Bát Tràng có mái đ́nh cong.

283. Giang Cao buôn gạo chợ Keo
Buôn khoai chợ Nhiễm bán rao đường làng
Ngày ngày cắp thúng lên đàng
Kiếm củi rồi mót khoai lang đem về.

284. Giao Tự lắm băi nhiều soi
Lắm con gái đẹp nhiều nơi phải ḷng
Giao Tự gần giếng, gần sông
Nước trong tắm mát má hồng thêm xinh.

285. Tay cầm bán nguyệt xênh xang
Một thăm thức cỏ lai hàng tay ta.

286. Trời mưa róc rách băi cây
Cá rô rạch ngược cá ngày lên hương
Đừng thấy chúng bạn coi thường
Dân đất Hàn Lạc chẳng phường ăn chơi
Thông manh đứng lại mà coi
Ḱa như châu chấu đá voi găy ngà.
Trăm năm nơi đất phù sa
Lấy ǵ mà được vinh hoa bằng người
Bực ḿnh chẳng được ăn chơi
Trăm năm vẫn chịu là người lầm than
Chị đây vốn thực đất Hàn
Quanh năm có được vinh hàn ǵ đâu.

287. Nhớ ngày hăm ba tháng ba
Dân trại ta vượt Nhị Hà thăm quê
Kinh quán, cựu quán đề huề
Hồ Tây cá nhảy đi về trong mây

288. Trung Màu chuột nhắt xáo dưa
Kỳ Lân nấu cháo cả cua lẫn càng
Đổng Viên mặc ục khoai lang
Phù Đổng cơm tấm giần sàng khỏe ghê
Đổng Xuyên mỗi người mỗi nghề
Lớn th́ đánh xiếc, bé th́ ṃ tôm
Phù Dực đi bán vải non
Chửa đi đến chợ mía don đầy lồng
Tấm gốc, tấm ngọn phần chồng
C̣n bao tấm giữa để vào ḷng mà ăn.
Công Đ́nh cưa xẻ đă quen
Tế Xuyên bắt rẽ lấy tiền mua nhiêu...
Nhân Lễ th́ đúc lưỡi cày
To Khê Viên Ngoại th́ hay hàn nồi
Xa Long lắm chuối ḿnh ơi
Phù Ninh dệt vải người người thâu đêm.

289. Bao giờ mồng sáu tháng ba
Để làng mở hội em ra lấy chồng.

290. Mồng sáu đi hội Bồ Đề
Mồng bảy trở về đi hội Đống cao

291.Dù ai đi ở nơi đâu
Tháng giêng mười tám bảo nhau mà về
Dù ai lâu đă xa quê
Nhớ lấy mà về mười tám tháng giêng.

292. Dù ai bốc thuốc nơi đâu
Tháng giêng mười tám rủ nhau mà về.
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày lễ hội th́ về quê hương

293. Chăm sao cho lá dâu dày
Để khi kéo kén cho đầy nong tơ
Dâu non em để tằm tơ
Dâu già đến cữ em chờ tằm khôn
đă mang lấy cái thân tằm
Không vuơng tơ nữa vẫn nằm trong tơ.

294. Chợ Keo ngày một, ngày ba
Ngày sáu, ngày tám quả là vui chưa
Hôm nay sau buổi chợ trưa
Người bán đă đoạn người mua đă rồi
Con sông Thiên Đức hẹp ḥi
Làm sao cho nước trên thoi đổ về.

295. Chợ Keo một tháng mười hai phiên
Gặp cô hàng xóm kết duyên vừa rồi
Gánh hàng em những quế cùng hồi
Có mẹt bồ kết lại nồi phèn chua
Bó nhang thơm xếp ở cạnh bồ
Táo tầu, ư nhĩ, sài hồ, hoắc hương
ống diêm đánh lửa cho chàng
Lược thưa, ống thuốc em mang cạnh ḷng
Phẩm lam, phẩm lục, phẩm hồng
Bao kim, gói cúc, chín đồng lưỡi câu.

296. Chợ Gióng một tháng sáu phiên
Bắt cô hàng xén kết duyên châu trần
Xa xôi dịch lại cho gần
Cách sông cách núi cũng lần cũng sang
Người ơi tôi dặn người rằng
Đâu hơn hăy lấy, đâu bằng đợi tôi.

297. Tục truyền mồng tám tháng tư
Không xem hội Gióng cũng hư một đời.

298. Ai ơi mồng chín tháng tư
Không đi hội Gióng cũng hư mất đời

299. Hàng năm cứ tháng tư mồng chín
Hội Gióng là nức tiếng khắp nơi
Nước Nam các tỉnh trong ngoài
Gần xa nô nức mọi người đến xem
Xă Phù Đổng sơn xuyên anh đục
Dăy núi Hằng, sông Đức tứ chung
Vườn hoa vạn cổ anh phong
Là nơi cố trạch, anh hùng giáng sinh
Ngôi miếu đền uy linh rạng rỡ
Đủ tứ thời hương lửa phụng thờ
Nguy nga lầu các sùng tu
Danh lam thắng cảnh từ xưa lưu truyền
Thánh chính vị ngự trên long giá
Địa thế bên giếng đá mắt rồng
Kiểu đền ngoại quốc, nội công
Trước hồ thủy tạ linh lung huy hoàng
Ngũ môn, lầu linh quang tuấn nhạc
Thạch long kiều thủy các chầu ra
Xung quanh cổ thụ rườm rà...
Lâu đài sầm uất thực là tối linh
Những ngày hội linh đ́nh rước tế
Khách các nơi đến lễ rất đông
Trầm hương nghi ngút xa trông
Cuộn bay từng đám như rồng khói tuôn
Giữ thiên địa trường tồn bất diệt
Rơ “chí kim vi liệt” không sai
Vốn là hiển thánh trong ngoài
“Bách thần nguyên tự” rực trời uy nghi
“Đại nhi hóa” lưu kỳ phụng sự
“Thiên thượng thần” ba chữ môn lâu
Hội từ mồng một bắt đầu
Thi kèn thi trống mọi màu bách công
Ngày mồng năm tập trung phù giá
Như tập quân chuẩn bị chiến công
Chỉ huy xướng xuất tiên phong
Cờ nào đội ấy phân công chỉnh tề
Ngày mồng sáu hành nghi rước nước
Đôi chum ngô bày trước án son
Cửa đền Mẫu có giếng tṛn
Rước từ giếng ấy nghiêm tôn về đền
Ngày mồng bảy thiên thanh minh tú
Sáng rước cờ, rước cỗ, rước văn
Trưa phù giá tập binh quân
Tập ngoài trong tế, suốt tuần tế trưa
Chiều phù giá đi đưa về đón
Đi khám đường kéo đến ải môn
Ba cây số Đổng Viên thôn
Xứ đồng cửa ải, tiếng c̣n lưu danh
Ngày mồng tám tuyển binh, kén tướng
Bày hai mươi tám tướng nữ nhân
Tướng nào là tướng giặc Ân
Cơ nào đội ấy, đai cân chỉnh tề
Ngày mồng chín hành nghi chính hội
Đúng buổi trưa kéo tới Đổng Viên
Roi rồng áo đỏ, áo đen
Hiệu cờ chiêng trống loa kèn nhạc âm
Hiệu hàng dăng trung quân tiểu cổ.
Phường ải Lao áo hổ đi theo
Là phường Tùng choặc cờ mao
Người bên Hội Xá năm nào cũng sang
Đoàn phù giá xếp hàng lần lượt
Vác biển cờ, tàn quạt tiêu dao
Người mang lồng mũ, áo bào
Vừa reo vừa chạy ào ào ầm vang
Xa nghe tiếng nhạc vàng rung động
Xướng suất cầm kẻng trống trong ṿng
Xe long giá kéo thẳng dong
Đến nơi giá ngự hợp đồng phụng nghi
Các hiệu đi bao vi nữ tướng
Quay trở về bái vọng ngự tiền
Điểm ba tiếng trống tiên nghiêm
Nối theo chiêng trống nổi lên ba hồi
Mở miếu cờ tung trời đỏ chói
Ngũ sắc bay phấp phới bướm ra
Trên trời có đám mây sa
Hiệu cờ quỳ xuống phất ba ván liền
Gạt ba lần bắt đàn cướp chiếu
Phất cờ xong hội kéo về đền
Khao quân thưởng tướng yến diên
Phù giá xướng suất sân đền hạ công
Đang cuộc vui chưa xong tiệc yến
Lại vội vàng kéo đến Soi Bia
Hội bày như buổi ban trưa
Lại phất ba ván dựng cờ thành công
Hội kéo về vừa xong gần tối
Bắt giặc Ân rong ruổi theo sau
Bắt hai thủ tướng vào chầu
Tướng đốc, tướng ngựa hai đầu quân binh
Gươm thần đứng rạch phanh cưởi áo
Vung gươm lên gạt tháo mũ ra
Giả chặt đầu với lột da
Giả h́nh hai tướng ư là giặc tan.
Ngày mồng mười nghi loan rước tướng
Dâng vàng vào tiến cống xin hàng
Truyền cho các tướng tọa an
Ban cho tiệc yến hoàn toàn hồi quy
Ngày mười một hành nghi rước nước
Lại rước như kỳ trước nghiêm trang
Giặc Ân cờ trắng đầu hàng
Ngày mười hai hội biểu dương khám cờ
Ngày nào cũng tuồng ca vũ nhạc
Tối đuốc bông sáng quắc góc trời
Lại c̣n mở các tṛ vui
Sân cờ Đế Thích, đua tài vật thi
Các ông hiệu được đi phụng sự
Ḷng trai thành ăn ngủ ở đền
Dăy nhà hiệu cạnh ba gian
Chỗ ngồi lịch sự bằng tiên trên trần
Khi hành hội đai cân áo mũ
Dàn hai bên có đủ gươm hèo
Roi rồng, tay thước, kiếm đeo
Hiệu cờ bốn lọng c̣n đều là hai
Hội Gióng này trưng bày buổi trước
Có giặc Ân chiếm nước Nam ta
Hùng Vương thứ sáu đời qua
Bốn ngàn năm kể hơn thừa đến nay
Thánh giúp nước ra tay giết giặc
Thanh gươm vàng, ngựa sắt, áo nhung
Lên ba tuổi, rơ anh hùng
Dẹp xong giặc biến lên không lạ thường
Linh sơn núi đằng không di tích
áp nhung treo, ngựa sắt, dấu tiên
Xă Phù Đổng dựng miếu đền
Hàng năm mở hội lưu truyền công ơn.

300. Muỗi nào chui lọt mùng quây
Mối nào xông được mỏ chày kim cương
Chúng em bé nhỏ chưa tường
Vốn anh khi trước cũng phường ải Lao
Ải Lao ta tập đă lâu
Tốn cơm, tốn áo, tốn dầu mẹ cha.
ở gần hay là ở xa
Cách phủ, cách huyện hay là cách sông
Xa xôi cách mấy quăng đồng
Để anh bỏ việc, bỏ công đi t́m.

.

Trang 1  2  3  4  5  6  7  8  9  10  11  12

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui ḷng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những ǵ liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17