Home Tìm Ca Dao Trang Chủ Toàn Bộ Danh Mục e-Cadao English

Thư Mục

 
Lời Phi Lộ
Lời Giới Thiệu
Cách Sử Dụng
Dẫn Giải
Diêu Dụng
Cảm Nghĩ
 
Ẩm Thực
Chợ Quê
Cội Nguồn
Cổ Tích
Lễ Hội
Lịch Sử
Ngôn Ngữ
Nhân Vật Nữ
Nhạc Cụ Việt Nam
Phong Tục Tập Quán
Quê Ta
Tiền Tệ Việt Nam
Tiểu Luận
Văn Minh Cổ
Vui Ca Dao
 
Trang Nhạc Dân Ca
 
Trang Chủ
 

 
 

 

 
 

Yên Bái

Diện tích: 6.899,5 km²
Dân số: 746,4 nghìn người (2010)
Tỉnh lỵ: Thành phố Yên Bái
Các huyện, thị xã:
- Thị xã: Nghĩa Lộ
- Huyện: Lục Yên, Văn Yên, Mù Cang Chải, Trấn Yên, Yên Bình, Văn Chấn, Trạm Tấu.
Dân tộc: 
Việt (Kinh), Tày, Dao, H'Mông.

 

Điu kin t nhiên

 

Yên Bái là tỉnh nằm sâu trong nội địa nhưng lại là cửa ngõ của miền Tây Bắc, là đầu mối giao thông giữa đông bắc và tây bắc, giữa cửa khẩu Lào Cai và Hà Nội. Phía bắc tỉnh Yên Bái giáp Lào Cai, Hà Giang, phía tây nam giáp Sơn La, phía đông giáp Tuyên Quang, phía nam giáp Phú Thọ.

 

Địa hình của tỉnh gồm có núi, đồi và thung lũng. Hệ thống sông suối chằng chịt lắm thác ghềnh. Khí hậu chia làm hai vùng, vùng thấp và vùng cao. Nhiệt độ trung bình năm  từ 18ºC – 28ºC.


 

Tim năng phát trin kinh tế và du lch

 

Yên Bái là tỉnh có nhiều dải rừng lớn. Rừng có nhiều gỗ quí như pơmu, lát hoa, chò chỉ... Nhiều cây dược liệu và nhiều loại động vật quí hiếm. Sản vật của tỉnh Yên Bái là quế Văn Yên, chè Suối Giàng, nếp Tú Lệ. Yên Bái có mỏ đá quí nổi tiếng Lục Yên.

 

Thành phố Yên Bái là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của tỉnh. Tỉnh Yên Bái có nhiều di tích lịch sử văn hóa đặc biệt là hồ Thác Bà, một trung tâm sinh thái, giải trí, leo núi, khám phá rừng tự nhiên. Thắng cảnh Yên Bái còn giữ được nhiều vẻ hoang sơ, môi trường sinh thái chưa bị ô nhiễm rất hấp dẫn đối với khách du lịch.


 

                                Phong cảnh Yên Bái                                         Xã Mỗ Đề

 

Giao thông

 

Thành phố Yên Bái cách Hà Nội khoảng 180km.Tỉnh nằm trên tuyến đường sắt Hà Nội – Yên Bái – Lào Cai. Tỉnh có quốc lộ 32 đi Lào Cai, Phú Thọ, quốc lộ 37 đi Tuyên Quang

 

Thành phố Yên Bái

 
Diện tích: 1.081 km²
Dân số: 95.900 người (8/2008)
Dân tộc: Kinh
Đơn vị hành chính:
- Phường: Yên Thịnh, Yên Ninh, Minh Tân, Nguyễn Thái Học, Đồng Tâm, Nguyễn Phúc, Hồng Hà.
- Xã: Minh Bảo, Nam Cường, Tuy Lộc, Tân Thịnh, Văn Phú, Văn Tiến, Phúc Lộc, Âu Lâu, Giới Phiên, Hợp Minh

 

Địa lý tự nhiên

Thành phố Yên Bái là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật của tỉnh Yên Bái. Phía bắc và phía đông giáp huyện Yên Bình, phía tây giáp huyện Trấn Yên, phía nam giáp tỉnh Phú Thọ. 

Thành phố nằm bên tả ngạn sông Hồng, với cấu tạo địa hình gồm dải phù sa ven sông, đồng bằng phù sa, các đồi núi thấp, các thung lũng, khe suối xen kẽ đồi núi và cánh đồng chạy dọc theo triền sông.

Các yếu tố khí hậu của thành phố mang đặc trưng khí hậu chuyển tiếp của miền Tây Bắc và Việt Bắc. Nhiệt độ trung bình cả năm là 230C, mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 10, mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình năm là 1.755,8 mm. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 hàng năm. Thành phố Yên Bái có số giờ nắng trung bình một năm là 1.278 giờ, độ ẩm trung bình năm là 87%.

Lịch sử

Thành phố Yên Bái trong suốt chiều dài lịch sử đã trải qua nhiều lần thay đổi về địa danh và địa giới hành chính. Thời các Vua Hùng, mảnh đất này nằm trong bộ Tân Hưng, thời phong kiến Bắc thuộc nằm trong vùng đất Tượng Quân, Giao Chỉ rồi Phong Châu. Đến thế kỷ 11 (thời nhà Lý) thuộc châu Đăng. Thế kỷ 15 (đời Lê Thánh Tông) nằm trong lộ Quy Hoá thuộc tỉnh Hưng Hoá. Cuối thế kỷ 16 là một làng nhỏ bé trong tổng Bách Lẫm, phủ Quy Hoá thuộc tỉnh Hưng Hoá. 

Năm 1900, Toàn quyền Đông Dương thành lập tỉnh Yên Bái, tỉnh lỵ được đặt tại làng Yên Bái thuộc tổng Bách Lẫm, huyện Trấn Yên. Thị xã Yên Bái được hình thành là trung tâm của tỉnh. Đến năm 2002, thành phố Yên Bái được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Yên Bái.

Sau nhiều lần mở rộng đến 8/2008 thành phố Yên Bái có diện tích tự nhiên là 10.815.45ha và hơn 95.800 nhân khẩu với 17 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm 7 phường và 10 xã.

Tiềm năng du lịch

Thành phố Yên Bái có quần thể di tích tôn giáo, tín ngưỡng gồm đền Tuần Quán là một ngôi đền cổ có từ thế kỷ 14 thời nhà Lê, đền - chùa Bách Lẫm, chùa Ngọc Am, nhà thờ Yên Bái.

Trên địa bàn thành phố còn có các di tích được công nhận là di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia là: Khu di tích lịch sử Nguyễn Thái Học và lễ đài tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khu di tích lịch sử Nguyễn Thái Học có các hạng mục như khu lăng mộ, khu tượng đài, bia tưởng niệm, nhà đón khách và khuôn viên cây cảnh. Phần tượng đài có nhóm tuợng đài của 5 nghĩa sĩ (Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính, Nguyễn Thị Giang, Ngô Hải Hoàng) đứng trên một đám mây lịch sử cách điệu. Đây là các anh hùng trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 với câu nói nổi tiếng: “Không thành công cũng thành nhân”. Các tượng đài đều làm bằng chất liệu bê tông phủ kẽm với chiều cao trung bình các nhân vật là 6m. Xung quanh còn có cây cảnh, hồ nước tạo nên một vẻ đẹp trang trọng của khu di tích. Lễ đài tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh là nơi trong các ngày kỷ niệm trọng đại, các cơ quan, đoàn thể, tổ chức tập thể, cá nhân tới tổ chức lễ dâng hương tưởng nhớ và báo công với Bác. 

Du khách thích mua sắm có thể ghé thăm chợ Yên Bái (chợ Ga) với nhiều mặt hàng phong phú.

Giao thông

Thành phố Yên Bái có một vị trí khá quan trọng trong đầu mối giao thông huyết mạch nối vùng Tây Bắc với trung du Bắc Bộ. Tuyến đường sắt liên vận quốc tế nối Hải Phòng - Hà Nội - Yên Bái - Lào Cai - Vân Nam (Trung Quốc). Tuyến đường thuỷ sông Hồng từ thành phố Yên Bái xuôi về Hà Nội rồi đi tiếp đến cảng Hải Phòng. Tuyến ngược cập bến cửa khẩu quốc tế Lào Cai. Thành phố Yên Bái cách Hà Nội khoảng 180km.

 

Huyện Mù Cang Chải

Diện tích: 1199 km²
Dân số: 48.700 người (năm 2005)
Dân tộc: Mông, Thái, Kinh
Đơn vị hành chính:
- Thị trấn: Mù Cang Chải
- Xã: Kim Nọi, Hồ Bốn, Chế Tạo, Khao Mang, Dế Su Phình, Chế Cu Nha, Cao Phạ, Púng Luông, Nậm Khắt, Mồ Dề, Nậm Có, La Pán Tẩn và Lao Chải

 

Vị trí địa lý

Huyện Mù Cang Chải là huyện vùng cao nằm ở phía tây tỉnh Yên Bái, có tọa độ địa lý từ 21º39’ đến 21º50’ vĩ độ bắc; từ 103056’ đến 104º23’ kinh độ đông. Phía bắc Mù Cang Chải giáp huyện Văn Bàn - tỉnh Lào Cai; phía nam giáp huyện Mường La - tỉnh Sơn La; phía đông giáp huyện Văn Chấn; phía tây giáp huyện Than Uyên - tỉnh Lai Châu. 

Điều kiện tự nhiên

Huyện Mù Cang Chải nằm dưới chân của dãy núi Hoàng Liên Sơn, ở độ cao 1.700m so với mặt biển, địa hình bị chia cắt mạnh, độ dốc trung bình toàn huyện là trên 40º, có nơi dốc đến 70º.

Trên địa bàn huyện không có sông lớn mà có hàng chục khe suối bắt nguồn từ dãy Hoàng Liên Sơn, tạo nên mạng khe suối dày đặc. Trong số đó có suối Nậm Kim chảy xuyên suốt chiều dài huyện theo hướng Đông Nam - Tây Bắc đổ xuống sông Đà. Suối Nậm Kim quanh năm nước chảy rì rầm, chia Mù Cang Chải thành tả ngạn và hữu ngạn, mang lại vẻ đẹp thơ mộng hiếm có cho vùng cao Mù Cang Chải. Ngoài ra có suối Nang Khú (xã Chế Tạo) dài 35km, suối Ta Sa (xã Nậm Có) dài 28km, suối Tư Sang (xã Nậm Có) dài 25km, suối Lao Chải dài 27km, suối Nậm Khắt dài 20km, suối Đình Hồ dài 12km... Cùng với hệ thống khe, suối là hàng loạt các thác nhiều tầng như: thác Nậm Mơ (Mồ Dề), Dề Thàng (Chế Cu Nha)…

Các vận động địa chất đã tạo cho Mù Cang Chải những đỉnh núi cao như: Púng Luông (2985m), Phu Ba (2512m), Mồ Dề (2100m)… Rừng là thế mạnh của Mù Cang Chải với diện tích khoảng 80.000ha, trong đó có rừng già, rừng nguyên sinh, rừng thông, và rừng sơn trà.

Khí hậu Mù Cang Chải mang tính chất tiểu vùng rõ rệt, mang đặc tính ôn đới, chia thành 2 mùa: mùa khô hanh và mùa mưa. Nhiệt độ trung bình năm là 19ºC, mát mẻ về mùa hạ, lạnh về mùa đông. 

Những thay đổi hành chính

Năm 1962 huyện Mù Cang Chải là một trong 3 huyện của tỉnh Nghĩa Lộ. Sau năm 1975, Yên Bái cùng với Lào Cai và Nghĩa Lộ sáp nhập thành tỉnh Hoàng Liên Sơn, Mù Cang Chải thành huyện của tỉnh Hoàng Liên Sơn. Năm 1991, tỉnh Hoàng Liên Sơn được tách ra thành 2 tỉnh Yên Bái và Lào Cai, Mù Cang Chải trở thành huyện của tỉnh Yên Bái.

Văn hóa

Mù Cang Chải có bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa lâu đời. Gần 90% dân số ở đây là người Mông, còn lại là người Thái, người Kinh. 

Người Mông ở Mù Cang Chải có 4 nhóm: Mông Đơ (Mông Trắng); Mông Đu (Mông Đen); Mông Lình (Mông Hoa); Mông Si (Mông Đỏ) với truyền thống văn hóa đặc sắc. Đồng bào Mông thường cư trú ở những sườn núi cao từ 800 đến 1.700m, với kinh nghiệm làm ruộng bậc thang và một số nghề thủ công truyền thống như: nghề rèn đúc, dệt vải bằng sợi lanh, làm đồ trang sức…

Người Mông có truyền thống văn hóa dân gian phong phú thể hiện trong làn điệu dân ca như: tiếng hát tình yêu, cưới xin, ru con, lao động sản xuất…, các phong tục, lễ hội mang những nét đặc sắc riêng của đồng bào... Ngoài ra, nơi đây còn lưu giữ được một kho tàng truyện cổ về các tục lệ, lịch sử tộc người, văn hóa tộc người thể hiện tinh thần thượng võ của cha ông được truyền từ đời này qua đời khác.

Người Mông ăn tết vào đầu tháng 12 âm lịch (trước tết Nguyên đán cổ truyền 1 tháng). Trong những ngày tết, cộng đồng người Mông thường tổ chức đua ngựa, đánh quay, đẩy gậy, bắn nỏ, hội Gầu tào, ném pao...Thanh niên nam nữ trang phục đẹp, rủ nhau đi chơi, thổi kèn lá, kèn môi, ném pao, hát đúm. Ngày tết còn có ý nghĩa là ngày hội giao duyên của các đôi trai gái.

Người Thái ở nhà sàn. Trong đó Thái Đen nhà chỉ có một cầu thang, hai đầu hồi nhà có hai khau cút. Thái Đen mặc vải nhuộm chàm, vải đen, vải láng. Nhà sàn người Thái Trắng mái hình chữ nhật với những lan can chạy trước nhà, nơi thờ cúng thường được đặt ở góc nhà. Trang phục của người phụ nữ Thái thường mặc áo sửa cỏm, nẹp áo cài hai hàng khuy bạc hình bướm, ve sầu, nhện gọi là mắc pém rất đẹp, khoảng giữa cạp váy và gấu áo được cuốn thắt lưng vải màu, đeo xà tích từ 4 đến 8 tua. 

Kho tàng văn hóa dân gian của người Thái khá phong phú. Dân ca được thể hiện bằng các làn điệu khắp, then, khắp chiêu, khắp páo xao. Nhạc cụ sử dụng gồm các loại như pí piềng, pí tam láy, pí một lao. Múa xòe được truyền thụ qua nhiều thế hệ thường được tổ chức trong các ngày lễ hội. Các trò chơi như ném còn, đánh yến cùng các làn điệu hát giao duyên, hát đồng dao, được bảo tồn và phát huy.

Thắng cảnh du lịch

Trong những năm gần đây, Mù Cang Chải đã và đang trở thành điểm đến của nhiều du khách, nhiều nhà nghiên cứu, nhiếp ảnh gia. Đến với Mù Cang Chải dù chỉ một lần du khách cũng cảm nhận được sự giàu có của thiên nhiên, sự đặc sắc của văn hóa, sự ấm áp của tình người. 

Đến Yên Bái lên huyện vùng cao Mù Cang Chải du khách sẽ ngỡ ngàng trước cảnh núi non hùng vỹ trên dãy Hoàng Liên với những bản làng thanh bình dưới thung lũng xanh hay trên đèo Khau Phạ, bên những ruộng bậc thang ôm viền chân núi - một kiệt tác nghệ thuật đã được xếp hạng di tích quốc gia năm 2007. Văn hoá canh tác ruộng bậc thang của đồng bào dân tộc Mông ở La Pán Tẩn, Chế Cu Nha, Dế Su Phình đã biến tên Mù Cang Chải (tức làng cây khô) thành đồi ruộng mùa màng tươi xanh sức sống cứ từng bậc, từng bậc vươn cao lên trời. Mùa gặt ở Mù Căng Chải thường rơi vào mùa thu, giữa tháng chín và tháng mười dương lịch, khi đó khắp nơi mênh mông màu vàng sóng lúa, hương đất hương ngàn hòa với không khí trong lành của vùng cao, làm đắm say lòng người. 

Mùa xuân đến với Mù Cang Chải, du khách sẽ được đắm chìm trong cảnh sắc thiên nhiên của những rừng thông cao vút bạt ngàn, của sắc hồng hoa đào, của sắc trắng hoa ban, hoa mận…

Do vị thế của mình nên ở đây vẫn còn lưu giữ được những vùng rừng đa dạng sinh học như khu bảo tồn các loài sinh vật cảnh với trung tâm là xã Chế Tạo nằm ở phía nam dãy Hoàng Liên Sơn vẫn còn hiện hữu nhiều loại động thực vật quý hiếm ở Việt Nam và trên thế giới như quần thể vượn đen tuyền, niệc cổ hung Aceros Nipalensis…

Giao thông

Mù Cang Chải cách Hà Nội chừng 300km về phía tây bắc. Từ Hà Nội lên thành phố Yên Bái, rồi theo quốc lộ 37 khoảng gần 40km thì rẽ phải vào quốc lộ 32, qua thị xã Nghĩa Lộ đến Tú Lệ, vượt đỉnh Nậm Khắt cao trên 2.000m, qua triền phía tây của dãy Hoàng Liên Sơn, dọc theo suối Nậm Kim, du khách sẽ đến Mù Cang Chải. Hoặc du khách có thể theo quốc lộ 32 từ Hà Nội, qua Sơn Tây, đến Tú Lệ rồi đến Mù Cang Chải

Nguồn: vietnamtourism

Di Tích Du Lịch Yên Bái

Suối Giàng,
Ruộng Bậc Thang Mù Cang Chải,
La Pá Tẩu, Chế Cu Nhai, Dế Su Phình,
Khu Di Tích Nguyễn Thái Học,
Hồ Thác Bà,
Đền Đông Cuông,
Đình làng Dọc,
Đền Đại Cại,

 

 

Sưu Tầm Tài Liệu và Web Design

  Hà Phương Hoài

Hỗ Trợ Kỹ Thuật

Hoàng Vân, Julia Nguyễn

Web Database

Nguyễn Hoàng Dũng
Xin vui lòng liên lạc với  haphuonghoai@gmail.com về tất cả những gì liên quan đến trang web nầy
Copyright © 2003 Trang Ca Dao và Tục Ngữ
Last modified: 10/19/17