Theo những nhà
ngôn-ngữ-học, danh-từ “ghe bàu” có lẽ là cách phát
âm của người Việt-Nam khi đọc chữ Prau hay
perahu của ngôn-ngữ Mă-Lai. Chữ Prau (hay
perahu), một danh-tự chỉ ghe, thuyền là phương-tiện
chuyên-chở trên mặt nước (water crafts).
Giáo-Sư Ngô
Đức Thịnh cho rằng có thể tên gọi ghe bàu
là biến âm của tên gốc Chăm là Prau, một loại thuyền mà
người Mă Lai thường dùng đi lại giữa các đảo ở vùng Đông Nam
Á hải đảo.
Trong bài
nghiên-cứu “Từ Kauthara Đến Khánh Hoà”, Giáo-Sư Trần Quốc
Vượng cũng đề-cập qua sự kiện ngôn-ngữ này, Ông viết: Ghe
bàu (Perahu, Prau) Quảng Nam (cũng như mảng Sầm Sơn có buồm)
rất xứng đáng là một đề tài nghiên cứu nhân học, văn hóa –
xă hội lịch sử, cần được nghiên cứu sâu sắc hơn.
Lịch-sử Ghe Bàu
Giáo-Sư Ngô Đức Thịnh nói về sự ra đời của ghe bàu như sau:
Trong
các vùng biển ở nước ta th́ biển miền Trung, nhất là biển Xứ
Quảng, nơi mà nghề đánh bắt cá trên biển, đầm phá nước lợ và
trên sông rất phát triển. Đặc biệt nơi đây ra đời loại ghe
bàu, một sản phẩm đặc sắc của nghề biển ViệtNam, được từ
điển hàng hải thế giới ghi nhận. Đây là loại thuyền mà mũi
và lái đều nhọn, bụng bầu, độ ngấn nước sâu, nên thuyền có
khả năng ra khơi xa. Bánh lái (kiểu lái cối, lái ống, lái âm
dương…) đều có cấu tạo là sỏ lái xuyên trực tiếp vào bánh
lái. Thuyền dùng loại buồm h́nh tứ giác hay cánh dơi. Mắt
thuyền khắc h́nh dài, trước tṛn, đuôi mắt dài nhọn… Chính
nhờ loại ghe bầu này mà người dân Xứ Quảng có thể vươn ra
khơi xa để đánh bắt cá, đặc biệt là việc tổ chức đội lính
Hoàng Sa có thể dùng thuyền ra chiếm cứ và canh pḥng đảo
cách xa đất liền gần 300 km.
Xứ Quảng cũng
là nơi có nhiều nguyên liệu để đóng thuyền, như các loại gỗ
trên rừng: Kiền kiền, sao, cḥ, lim, giẻ…, mà ngay từ thế kỷ
XVIII Lê Quư Đôn đă ghi lại trong sách Phủ Biên tạp lục của
ḿnh. Ngoài ra, nơi đây c̣n có các sản vật cần dùng cho nghề
đóng thuyền là dầu rái, lá buồng, vỏ tràm, mây song… Theo
lời Ông Ngô Đức Thịnh, việc chế tạo và sử
dụng ghe bàu không chỉ của người Việt ở Xứ Quảng, mà xưa hơn
nữa là người Chăm.
Tiến-sĩ Li
Tana cho biết hải-quân Nhà Nguyễn sử-dụng nhiều ghe bàu. Bà
viết: Theo Biên Niên nhà Nguyễn, từ 1778 đến 1819, Nguyễn
Ánh dùng 235 ghe bàu (kiểu Chăm-Mă Lai prahu), 460 sai
thuyền (thuyền chèo loại lớn hơn), 490 chiến thuyền, 77 đại
chiến thuyền, 60 thuyền lớn nhỏ kiểu phương Tây hay là
thuyền buồm dọc, 100 ô thuyền và 60 lê thuyền (thuyền chèo
có chạm khắc và trang trí) tạo nên tổng số là 1482 chiếc.
Ghe bàu (Prau,
Perahu) cũng hiện-diện trong hải-quân Tây-Sơn. Đặc-biệt nhà
Tây Sơn lại cung cấp cho hải-phỉ Trung-Hoa thời đó những
chiến-thuyền thực sự (là ghe bàu). Theo Ông Nguyễn Duy Chính
cho biết khi viết về hải-tặc cuối thời nhà Thanh, Robert J
Anthony cũng đề cập đến một loại thuyền nhỏ hơn có tên là bá
lạt hổ (叭喇嗁). Bá lạt hổ chính là phiên âm của chữ perahu
tiếng Mă Lai là loại thuyền Đàng Trong vẫn dùng để chiến
đấu, dùng cả buồm lẫn chèo tay, di động rất nhanh và thao
tác rất tiện. Loại thuyền này nông ḷng nên có thể tiến sát
bờ bể và di tản nhanh khi bị tấn công. Ở các bến băi miền
Nam hiện nay chúng ta vẫn c̣n thấy sử dụng loại thuyền này
rất nhiều, vừa có thể đi trên sông, vừa có thể đi trên biển.
Những thuyền lớn có thể mang tới 12 súng đại bác (nhiều súng
do phương Tây chế tạo) và một thủy thủ đoàn tới 200 người
trang bị bằng gươm, đao, giáo mác và súng trường. Những
thuyền của hải phỉ trang bị bao giờ cũng hơn xa các tàu tuần
của triều đ́nh Măn Thanh nên chẳng coi quan quân vào đâu cả.
Kiến-trúc Mềm Dẻo của Ghe Bàu
Phát-minh của
người Việt trong công-tác đóng tàu bè, đặc-biệt ghe bàu,
đáng kể là ở sự mềm dẻo trong kiến-trúc sườn và vỏ. Bà Françoise
Aubaile-Sallenave viết nguyên cả một cuốn sách đề-cập rất
kỹ-lưỡng đến cách-thức đóng ghe rất tiến-bộ của Việt-Nam.
Theo tác-giả này, hai đặc-tính tiên-quyết trong việc
kiến-trúc là ghe tàu phải nhẹ nhàng và có sức chịu đựng. Cả
hai ưu-điểm này đều t́m thấy ở các loại thuyền Việt-Nam.
Trong khi
kỹ-thuật Tây-phương cố gắng cải-tiến làm sao cho sườn và vỏ
tàu được cứng cáp th́ người Việt-Nam từ nhiều ngàn năm qua,
vẫn tiếp-tục giữ truyền-thống đóng tàu cho mềm dẻo. Bà
Sallenave cũng như những kỹ-thuật-gia kim-thời mới đây đă
khám-phá ra rằng muốn kiến-trúc cứng cáp th́ vật-liệu đóng
thuyền phải nặng, quán-tính do đó cũng tăng theo, dễ bị bể
vỡ v́ sóng gió; thuyền nhẹ và mềm dẻo th́ lực tác-dụng của
sóng nước được phân-phối đều trên toàn thể thân thuyền nên
sức chịu đựng gia-tăng và thuyền được bền bỉ hơn.
So sánh
Kiến-trúc Tàu thuyền Việt-Nam và Âu-Châu.
Kiến-trúc Sườn
Ghe Bàu
Cây
Xiếm và Khả-năng Hải-hành của Ghe Bàu
Trong sưu-tập
“Man Across the Ocean”, Stephen C. Jett cho rằng: “các ghe
Á-Đông, nếu nói đến vận-tốc chạy biển, vượt xa chiếc thuyền
chạy nhanh nhất trên thế-giới mà c̣n đi ngược lại được gần
với hướng gió hơn bất cứ một chiếc thuyền buồm nào khác”.
Ngoài hệ-thống buồm hữu-hiệu, cây xiếm đă góp công không nhỏ
trong những thành-tích làm tăng-tiến khả-năng hải-hành.
Trở lại với
các h́nh thuyền trên trống đồng Đông-Sơn, ta thấy tiền-thân
của những cây xiếm cũng đă xuất-hiện. V́ trên những thuyền
này không có người chèo, nên ta cũng có thể hiểu được là
thuyền chạy bằng buồm. Ngoài mái chèo lái ở đuôi và mũi, cả
đuôi thuyền lẫn mũi thuyền đều có những bộ-phận đưa ra như
mảnh ván nhằm chống với sức giạt. Tổng-hợp tác-dụng của nước
trên các trang cụ này đủ để giúp cho thuyền giữ một hướng
cố-định, nhờ đó thuyền có thể chạy thẳng về phía trước.
H́nh-ảnh này không khác mấy với h́nh-ảnh những loại trang-cụ
trên bè mảng hay thuyền buồm ngày nay: Bè ở Bắc và
TrungViệt-Nam có tới 3 hay 4 cây xiếm, c̣n loại thuyền buồm
tiêu-biểu ngày nay ở Trung-phần Việt-Nam có bánh lái cùng
cây xiếm h́nh đoản-đao (dagger-board) đặt trong hai lỗ khoét
ra ở cả mũi lẫn lái. Loại xiếm ấy không choán chỗ và tỏ ra
rất hữu-hiệu trong việc vận-chuyển. Cũng như bánh lái, tầm
sâu của xiếm có thể điều-chỉnh được dễ dàng nên thuyền có
thể đi vào những nơi nông cạn.
Giả-thuyết về
nguồn gốc cây xiếm này không trái ngược với giả-thuyết nguồn
gốc bánh lái được nêu ở một đoạn trên, nó phát-biểu thêm
rằng cả bánh lái và cây xiếm đều có thể đă được dân Việt
phát-minh nhiều thế-kỷ trước công-nguyên. Cho đến nay, những
nét khắc ch́m trên trống đồng Đông-Sơn vẫn là chứng-tích cổ
nhất và hiển-nhiên nhất về sự phát-minh lái và xiếm.
Những cây xiếm
h́nh-dáng tương-tự, kể cả thứ xiếm như cây đoản-đao (dagger
boards), cũng t́m thấy ở Mỹ-Châu. Các nhà khảo-cổ tin rằng
đă có thời chúng được coi như vật thiêng-liêng, làm đồ thờ
cúng trong những đền đài.
Cả một
hệ-thống xiếm và buồm phức-tạp do thổ-dân Nam-Mỹ sử-dụng
trên các bè Balsa trước thời Columbus làm nhiều khoa-học-gia
kinh-ngạc và đồng-ư là đă có sự liên-hệ Á-Mỹ trong cổ-thời.
H́nh Trên:
Thuyền Đông-Sơn, ngoài 2 mái chèo để lái ra (1), c̣n có 2
trang-cụ như cây xiếm dùng chống giạt (2). Cột buồm nằm ở
nửa phần thuyền phía trước (3). Dưới: Ghe bàu, ghe nang
(nan?) ở Trung-phần Việt-Nam với giả-thuyết về sự tiến-hoá
của bánh lái và cây xiếm, đi từ những trang-cụ đă có từ
cổ-thời.
Tại Mũi Né trở
ra đến Quảng Ngăi, Quảng Nam ngày nay, đôi khi ta c̣n nh́n
thấy những chiếc ghe bầu khá lớn. Hồi 1949, loại này thường
dài khoảng 30 thước tây, trọng tải 120 tấn. Vào cuối thế-kỷ
19, theo J.B. Pietri, các ghe Mũi Né thường vượt quá 300
tấn, đến giờ những thuyền khổ lớn ấy đă biến mất (sách
Voiliers d’indochine, trang 51). Để dễ h́nh-dung, ta có thể
so-sánh với trọng tấn của Trục lôi hạm MSC (tiêu chuẩn 320
tấn, nặng 370 tấn) hay Giang pháo hạm LSIL ngày nay (tiêu
chuẩn 227 tấn, nặng 386 tấn)
Xưa kia, ghe
bầu là phương-tiện chủ-lực buôn bán với Trung-Quốc, Thái-Lan
và Tân-Gia-Ba. Sử sách c̣n ghi lại chuyến hàng chở hai con
voi sang Nhật Bản do Ngô tử Minh thực-hiện trên những chiếc
ghe bầu vào năm 1788. Chắc chắn rằng trong hạm đội thuyền
tác-chiến và thuyền vận-tải của nhà Tây Sơn, có khá nhiều
ghe bầu (Phụ bản Đại-dương và những Con Tàu, báo Khoa-học
phổ thông, Sài g̣n tháng 4/1984).
Dian H. Murray
cho rằng hải-tặc biển Trung-Hoa cách nay hai thế-kỷ khởi đi
từ những thuyền-nhân (Boat people) là người Việt hay
gịng-dơi cổ Việt. Vua Quang Trung đă đứng ra đỡ đầu và
cấp-phát cho họ một số chiến-thuyền, có lẽ thuộc loại ghe
bầu. Lực-lượng này sau đó tăng lên đến 70,000 người, quấy
phá nhà Thanh suốt dọc bờ biển Trung-Hoa, từ biên giới
Việt-Nam đến Đài loan. Những hải-tặc này rất trung thành với
Đại Việt Hoàng Đế, đă tham dự nhiều chiến-trận dưới cờ Bắc
B́nh Vương cho đến ngày cuối cùng của triều đại Quang Toản.
Trong kế-hoạch phục hồi Cổ Việt, những chiến-thuyền lớn chở
voi trận được báo-cáo đă khởi-sự kiến-trúc. Đại đế đột-nhiên
Băng-Hà trước khi đoàn chiến-tượng kịp đổ bộ lên Quảng Đông…
Nếu kế-hoạch ban hành, hải-tặc có thể là một động-lực yểm
trợ (Pirates of the China Coast, 1798-1810, California,
1987, trang 55)
V́ chuyến đi
của Ngô tử Minh trước đó ít năm, chúng ta có thể ước đoán
không sợ lầm-lẫn rằng chính ghe bầu là thứ thuyền mà nhà vua
đă ra lệnh cải-biến thành chiến-hạm để dự định chuyên-chở
cùng đổ bộ đoàn tượng quân bách chiến, bách thắng của Ngài.
Theo Ông
Piétri, thanh tra Kiểm Ngư Đà Nẵng cuối thập-niên 1940:
trước khi người Pháp tới làm đảo lộn các điều kiện kinh tế,
các nhà hàng hải đường dài An Nam đă thực hiện các chuyến đi
bằng “ghe bầu” tới Trung Quốc, Philippines, Singapore, Xiêm.
Ngày nay các chuyến phiêu du của họ chỉ c̣n giới hạn ven
biển, tới vịnh Thái Lan, đôi khi mới tới Băng cốc. Dần dần
các tầu thuyền trọng tải lớn biến mất… Chúng tôi (lời Ông
Piétri) nghĩ rằng cần phải lôi cuốn sự chú ư vào những con
cá bay to lớn: những chiếc thuyền buồm của Đông Dương.
Ghe bầu ngày
nay vẫn tiếp-tục được chế tạo với vài cải-biến nhỏ, xử dụng
gần suốt dọc bờ biển miền nam Trung bộ, dùng đánh cá hay
vận-chuyển vật-liệu, nhiều khi chở tới 20,000 tĩnh nước mắm.
Những thuyền trưởng lành nghề c̣n đôi khi dẫn lộ ghe bầu lên
tận thủ đô Nam Vang của Cambodge, đi ngược với ḍng nước của
Cửu Long Giang chỉ nhờ sức đẩy thuần túy của gió.
Ghe bầu có ba
buồm: buồm mũi, buồm loan (c̣n gọi là buồm ḷng v́ buồm nằm
giữa thuyền) và buồm cửu (ở đuôi thuyền) Ghe bầu chở nặng
lại đi nhanh (có thể trên 10 gút) nên diện tích buồm rất lớn
có thể làm lật ghe. Để tăng sự cân bằng, người ta đặt một
đ̣n then ở sau cột buồm chĩa ra phía trên gió. Hai ba, hay
có khi tới bốn người có thể phải ngồi xổm ở trên đ̣n then đó
để tránh cho ghe khỏi lật mỗi khi gió lớn.
Để chống với
lực giạt ngang, v́ ghe bầu không có sống đáy (hay la kư),
một nhà phát-minh người Việt nào đó đă nghĩ ra cây xiếm di
động đặt trong một cái rănh nơi phía mũi thuyền. Ở Nghĩa
b́nh, Phan rang, cái xiếm này được gọi tên là xà bát, các
nơi khác gọi là lui hạ; có h́nh giáng cong cong như lưỡi
gươm. Xiếm cũng như bánh lái có thể kéo lên, hạ xuống để
điều chỉnh diện tích ngập nước cho phù-hợp với sự tăng giảm
của lực giạt ngang gây ra bởi buồm và gió.
Ngoài những
đặc-điểm trên, ghe bầu c̣n có thêm các nét đáng nói đến về
cách chế tạo và vật-liệu. Phần ch́m dưới nước của thuyền làm
băng tre, phần nổi lên trên làm bằng các loại gỗ tốt như
quỳnh, trường mật, săng lẻ. Tre không những rẻ, lai nhẹ, và
ít bị tàn phá bởi mọt hay hàu hà như gỗ.Vỏ thuyền có
tính-cách co dăn nên chịu đựng sóng gió khá tốt và thường
không hư hại khi lên băi.
Người ta đổi
mê tre ba năm một lần, trường hợp có hỏng, thay thế cũng dễ
c̣n phần gỗ thường bền tới 15-20 năm. Thuyền được xảm kỹ
lưỡng bằng xơ dừa hay phân trâu (các xơ cellulose của phân
trâu nhét kín các kẽ hở) Tiếp đó, thuyền được phủ kín bằng
một lớp dầu rái.
Trong bộ sách
Science and Civilisation in China, xuất-bản năm 1971 tại
Cambridge), các tác-giả là Joseph Needham, Wang Ling và Lu
Gwei Djen cho hay các loại ghe sóng, ghe giả, ghe nặng…của
Trung bộ Việt-Nam cùng cách kiến-trúc như ghe bầu, tất cả
đều rất chịu biển, tốt hơn là người ta tưởng (Such vessels
are much more seaworthy than might be supposed) Tên của nhà
sáng-chế những loại ghe vỏ bằng mê tre được t́m ra là ông
Trần Ứng Long, thực-hiện vào quăng năm 968 (Volume 4, part
III, trang 385) Thời đó Vạn thắng Vương Đinh bộ Lĩnh dẹp yên
nạn mười hai xứ quân, lên ngôi Hoàng đế, sử ghi quân-đội
nước ta có 10 đạo, mỗi đạo 10 vạn. Trong đạo quân một triệu
người đó, ta tuy khó biết được bao nhiêu hải-quân nhưng có
thể ước đoán là trong đoàn chiến-thuyền hùng-hậu của Đại
Việt, tiền thân của ghe bầu đă xuất-hiện để rồi ngay sau đó,
hải-hành viễn-chinh đi kháng Tống, b́nh Chiêm.
Cũng giữ vai
tṛ như bè mảng năm 1954-1955, các loại ghe bầu lại giúp
chuyên-chở dân tỵ nạn lũ lượt ra đi sau con quốc-biến 1975.
Lần này người ta phải vượt biển xa hơn đến khắp các nước
vùng Đông và Đông-Nam-Á như Hồng kông, Đài loan, Nhật bản,
Tân gia ba, Mă lai á và cả châu Úc nữa. Theo tài-liệu riêng
của người viết, các ghe này bảo-đảm sinh-mạng những người ra
đi một cách tốt đẹp. Những cánh buồm khi đă căng lên không
bao giờ chết như máy móc,động cơ và tên nô-lệ trung thành,
không công là sức gió lúc nào cũng phục vụ cần mẫn việc đẩy
thuyền, không như chân vịt, chẳng bao giờ ngừng lại một cách
đột ngột “bất tử”.
Khi nhận-xét
những điểm độc-đáo của ghe bầu, J. B. Piétri đă cho rằng ghe
bầu mang nhiều nét độc-đáo chỉ có ở Việt-Nam. Ông thấy
cách-thức phối-hợp giữa tác-dụng của những cây xiếm di động
ở mũi thuyền, bánh lái thay đổi độ nông sâu ở đuôi thuyền,
vỏ thuyền kiến-trúc bằng mê tre, và những cánh buồm điều
chỉnh (tùy hướng gió) không thấy ở bất cứ nơi nào khác trên
thế-giới.
H́nh ghe bàu
trên b́a sách của Pierre Paris
Ư-kiến của
Piétri có thể trùng-hợp với Pierre Paris khi Ông này chọn
ghe bầu làm tiêu biểu cho kiến-trúc ghe thuyền Việt-Nam.
H́nh ghe bàu được dùng làm b́a cho cuốn sách mà Ông đă đầy
công nghiên-cứu, nhan đề “Esquisse d’une ethnographie navale
des pays annamites” (Phác thảo Dân-tộc học Thuyền bè
Việt-Nam) đang tải trên Le Bulletin des Amis du Vieux Hué
No. 14, Octobre Décembre 1942; in lại ở Rotterdam, Holland
1955)
Nói đến
tài-liệu thuần-tuư Việt-nam lúc xưa, Ghe Bàu mang vinh dự
tuy không lớn nhưng khá đặc-biệt trong văn học nước ta.
Pétrus Trương Vĩnh Kư là người Việt-Nam đầu tiên đă bàn-luận
đến đặc-tính loại thuyền này trong một bài viết bằng Pháp
ngữ, nhan đề “Notes sur les diverses espèces de bateaux
annamites”, dans Bulletin du Comité agricole et industriel
de la Cochinchine, deuxième série, T. I, no IV, 1875, p.223”
(Có dẫn lại trong cuốn sách Voiliers d’Indochine, J.B.
Piétri, Saigon 1949, p. 161).
Thủy-tŕnh người Âu-Châu sang Biển Đông thời Xưa
Ngày nay Biển
Đông là hành-lang bận rộn nhất trên biển của địa-cầu. Hơn
một nửa trọng tấn của các thương-thuyền thế-giới di-chuyển
qua lại Biển Đông , vượt rất xa tất cả những hải-lộ khác.
Nhiều ngàn năm
trước, sự nhộn nhịp này cũng đă xảy ra, sự giao-thương vùng
Biển Đông từng được cổ-sử thế-giới ghi nhận từ lâu. G. R. G.
Worcester cho rằng cổ Việt-Nam là trạm hải-hành cuối cùng
giữa Tây-phương và Đông-Á trong cổ-thời. Worcester h́nh-dung
ra một “hải-tŕnh tơ lụa” như sau: “…có thể đă có những
ảnh-hưởng qua sự giao-tiếp đường biển từ Biển Đông rất sớm
sủa với dân-cư Địa-trung-Hải. Người ta tin rằng những
thương-gia Phoenicia trên hải-tŕnh t́m kiếm một “đường tơ
lụa trên biển”, đă tới Đông-Dương vào năm 650 TTL.”
Chứng cớ
rơ-ràng và đầy-đủ nhất là hệ-thống thương-mại vải lụa tơ tầm
của Đế-Quốc La-Mă vào năm 166 qua Biển Đông dưới triều
Hoàng-Đế Marcus Aurelius. Nhiều loại tiền xu thời La-Mă được
t́m thấy ở Óc Eo, phía Nam tỉnh An-Giang. Nhà Địa-lư Ptolemy
(khoảng 100-170) đă h́nh-dung ra một bản-đồ thế-giới về
hải-thương mà tận-cùng về phía Đông-Đông-Nam là bán-đảo Vàng
Chersonese, biển Sinus Magnus với hải-cảng Kattigara. Sinus
Magnus chính là Biển Đông nước ta, bán-đảo Vàng là
Đông-Dương và Kattigara (hay Catigara hay Cattigara) chỉ
vùng Kẻ Chợ (Kesho), Long-Biên (Lugin) hay Cảng-thị Gay (Ḥn
Gay) ngày nay.
Những điều
được viết trong du kư Marco Polo nói về các quốc gia ở Biển
Đông và cả vùng Champa của lănh thổ nước ta ngày nay, đă làm
say mê người châu Âu qua nhiều thế kỷ.Marco Polo là một nhân
vật Italia ưa phiêu-lưu sống vào khoảng (1254-1324). Marco
từng đến Trung quốc bằng con đường tơ lụa băng qua sa-mạc.
Khi về nước, ông đáp thuyền từ Tuyền Châu (Phúc Kiến)
định về thẳng nhà ở Venice. Hải-tŕnh này thường được gọi
là “đường tơ lụa trên biển”, ngang qua Biển Đông, ghé
Chiêm-Thành, rồi eo biển Mallacca, đến Sri Lanka, vượt Ấn
Độ Dương, qua Hồng-Hải và đến Địa Trung Hải.
“Hải-tŕnh tơ lụa” trên biển và Biển Đông của Việt-tộc
Mới đây với
tư-tưởng Đại-Hán cực-đoan. Giáo-Sư Chen Yan của trường
Beijing (Peking) University c̣n đi xa hơn, cho rằng đường tơ
lụa trên biển khởi-sự từ năm 1121 B.C. vào thời Nhà Chu.
Thực-sự ra lúc đó, người Tàu c̣n là dân du-mục. 600 năm sau
mà Tàu vẫn chưa ra được tới biển. Ngay cả Khổng-Tử (551-479
trước công-nguyên) là vị bác-học uyên-bác số một của
Trung-Hoa thời cổ, người đă san-định lại các Kinh Thi, Thư,
Lễ, Dịch cùng biên-soạn kinh Xuân Thu, cũng không một lần
bàn đến hàng-hải. Joseph Needham đề-cập đế sự kiện này
rơ-ràng là “nhà thông-thái Tàu thiếu kiến-thức sông
biển”biết này trong bộ sách lớn nhất của ông.
Ở Biển Đông
lúc đó, người ta có thể thừa nhận trong khoảng thiên-kỷ thứ
4 hay thứ 3 TTL, người Đông-Dương (và những dân-cư Bách-Việt
sống trên đất Tàu ngày nay) đă sử-dụng ghe thuyền đi biển.
Theo lẽ đương nhiên, ghe thuyền trong sông và bè mảng chạy
buồm có khả-năng đi biển đă xuất-hiện trước khi ấy một
thời-gian dài (Doran, 1971.)
V́ người Tàu
thời Nhà Chu c̣n đang sinh sống trên thượng nguồn sông
Hoàng-Hà, rất xa biển; những thành-tích hàng-hải này hẳn
nhiên hoàn-toàn phải do người Việt, lúc đó đang cư-ngụ ở
vùng duyên-hải, thực-hiện. Các tác-giả trên đồng-ư rằng
kỹ-thuật chạy buồm Á-Đông đă ảnh-hưởng sang Tây-phương,
ngược lại với chiều-hướng suy-tưởng thông-thường.
Thành-tích Viễn-dương của Tiền-nhân Việt
Trên quan-điểm
của một người Á-Đông, Wang Gungwu đă làm một cuộc nghiên-cứu
về giao-thương thời cổ trong biển Nam-Hải (mà người Việt
chúng ta từ xưa đến nay vẫn gọi là Biển Đông). Sau đó, vào
tháng 6 năm 1956, để phổ-biến kết-quả của công-tŕnh đó,
cơ-sở xuất-bản của Journal of the Malayan Branch Royal
Asiatic Society cho phát-hành một cuốn sách nhan-đề “The
Nanhai Trade – A Study of the Early History of the Chinese
Trade in the South China Sea”.
Wang mô-tả khá
đầy đủ về những hoạt-động hàng-hải trong khoảng 11 thế-kỷ
trước khi thành-lập triều-đại nhà Tống, năm 960. Theo đó,
thổ-dân người Việt, sau khi đế-quốc Nam-Việt của nhà Triệu
bị sụp đổ, vẫn tiếp-tục nắm giữ hầu hết ngành hàng-hải dọc
duyên-hải hay đường viễn-duyên đến các nước Đông-Nam-Á và
Ấn-Độ, như đă từng nắm giữ trước kia.
Những
Thương-cảng Sầm uất Ngày xưa
Về các
thương-cảng, Wang cho rằng từ thời cổ xưa cho đến đời Tống,
cảng sầm-uất hàng đầu vùng Đông-Á và Đông-Nam-Á đều ở
Bắc-phần nước ta. Đặc-biệt là Luy-Lâu hay Long-Biên (Hà-Nội
ngày nay) với vùng hậu-cảng trù-phú nhất đế-quốc Nhà Hán là
quận Giao-Chỉ.
Con đường biển
buôn bán các đồ gia vị (Spice route) cổ-thời không qua đến
nước Tầu mà chỉ đến Trung và Bắc Việt Nam rồi mới theo đường
bộ mà chuyển-tiếp sang nam Trung Hoa.
Sau khi nước
ta thâu-hồi được nền tự-chủ, các sách Việt-sử ghi-nhận những
hoạt-động hải-thương sầm-uất nơi các hải-cảng như Hoa-Lư,
Vân-Đồn, Phố-Hiến, Hội-An…
Ngoại-Thương Việt có từ bao giờ? ra sao?
Ngoại thương ở
Việt Nam có từ bao giờ? Nếu chúng ta công nhận ngoại thương
là sự trao đổi mua bán vật phẩm một cách đơn giản với nước
ngoài th́ ngoại thương xuất hiện ở nước ta đă từ khá lâu rồi.
Theo Ông Thành
Thế Vỹ, hệ-thống nhập khẩu và xuất khẩu của dân Bách-Việt đă
có trước cả sự h́nh-thành của nhà nước Nam Việt thời Triệu
Đà. Sự trao đổi đồ vật giữa Hán với Nam Việt (theo Hán-sử)
chắc chắn không phải từ khi đó mới bắt đầu. Hán Lữ hậu chỉ
là bắt đầu cấm thôi, cấm một việc làm vốn đă có từ trước.
Xét về những thứ nhập khẩu như đồ làm ruộng, loại kim, loại
sắt, trâu ḅ dê, ngựa; th́ rơ rệt đó là tượng trưng cho một
nền kinh tế nông nghiệp. Tài liệu không cho ta biết những
“đồ vật” của Nam Việt đem sang trao đổi với nhà Hán, nhưng
cũng có thể nói chắc chắn đó là những sản vật lấy ở rừng
hoặc ở biển như ngà voi, chim trĩ, ngọc trai, vỏ quế
Trong t́nh
h́nh bị Bắc-phương đô-hộ hơn ngàn năm, ngoại thương cũng vẫn
phát triển, nhưng theo con đường riêng biệt. Sự sản xuất ở
Việt Nam phát triển ở mức dồi dào hơn trước nhiều v́ trước
hết dân ta phải cống hiến sản vật quư giá cho phong kiến
Trung Quốc. Sau đó có một sự nảy sinh ham muốn ưa chuộng mới
về những hương liệu, ngọc trai, ngà voi Việt-Nam tại các
ngước Ba Tư, Ấn Độ, La Mă. Đó là các nơi mà bọn con buôn
Trung Quốc đến buôn bán. Nước ViệtNam trở thành một nơi ghé
chân của các thuyền buôn Trung Quốc đi phương xa.
Nghề thủ công
của ta dần dần phát triển. Thời Tam quốc, thái thú Giao Chỉ
là Tôn Tư đă nộp hàng ngh́n thợ thủ công ở Giao Chỉ cho vua
Ngô. Những đồ gốm, vải lụa, trang sức, không thể không làm
cho lái buôn chú ư. Dần dần thành h́nh một thị trường nhằm
hai mục đích: Một là để các lái buôn Trung Quốc đến bán hàng
và mua hàng của ta đem đi nước khác bán; hai là để các lái
buôn Trung Quốc đến bán hàng của họ, mua hàng của ta đem về
nước họ hoặc buôn bán tại chỗ để làm giàu.
Đương nhiên,
trong xă hội Việt Nam cũng xuất hiện những lái buôn Việt
Nam, trước c̣n giao thiệp mật thiết với lái buôn Trung Quốc,
sau trở nên những tay địch thủ lợi hại cạnh tranh với họ
kịch liệt. Bọn quan to nhà Đường đồng thời là bọn giữ độc
quyền buôn bán lớn, đă có lần xin với vua Đường cấm không
cho tàu bè qua lại Giao Châu (Việt Nam) chỉ v́ cạnh tranh
buôn bán với các lái buôn ở Giao Châu.
H́nh dáng
thương-thuyền đi biển vùng Bắc Trung-Hoa (trái) với buồm
tứ-giác khác với buồm cánh dơi miền Nam (phải).
Ngoại-Thương thời hậu Champa phát-triển
Ngay sau khi
giành được độc-lập khỏi tay Trung-Hoa, người Việt-Nam
khởi-sự đường Nam-Tiến. Dựa vào những đoàn thuyền ly-hương
t́m đất mới định-cư, dân quân ta lấn chiếm lănh-thổ
Chiêm-Thành. Ghe Bàu xuất-hiện càng ngày càng nhiều. Các
loại thuyền buồm Trung Hoa căng bằng thanh ngang chỉ c̣n
thấy ở vùng cực bắc; chuyển sang buồm dọc ở Đà Nẵng; biến
thành buồm tam giác ở phía Nam kết hợp giữa buồm Mă Lai với
buồm Địa Trung Hải.
Thuyền
duyên-hải Việt-Nam trang bị các loại buồm tứ-giác tiến-bộ
nhất. Nếu được điều chỉnh khéo léo, nhiều thuyền Việt-Nam
chạy tự-động, không cần người thay đổi tay lái.
Để góp phần
t́m hiểu về nền ngoại-thương thời hậu vương quốc cổ Champa,
tức là nơi quê-hương của Ghe Bàu tại miền Trung Việt Nam,
chúng ta t́m thấy có nhiều tài-liệu khá mới mẻ.
Theo tài-liệu
sưu-tầm của Ông Trần Kỳ Phương th́ sự phồn vinh của các cảng
thị Miền Trung đương thời có thể được xem như là sự tái sinh
của các cảng-thị Champà vào những thế kỷ trước đó (Ferrand
1913: 52, 99; Maspero 1988: 2-6; Trần Kỳ Phương, Vũ Hữu Minh
1991: 77-81).
Trong một
chuyên khảo bàn về kinh tế hàng hoá của Champa trước kia,
giáo sư Momoki Shiro, thuộc Đại học Osaka, Nhật Bản, dựa vào
thư tịch cổ đă cung cấp một danh mục hàng hoá Champa xuất
khẩu sang Trung Hoa, mà chúng ta cũng có thể nêu ra để so
sánh với các loại đặc sản của miền Trung, như sau: Vàng ,
bạc, thiết, sắt, ngọc baomu (?), ngọc trai chengshuichu,
ngọc trai lửa, hổ phách, pha lê, ốc tiền (?), các loại đá
pusashi (?), sừng tê, ngà voi, mai rùa, trầm hương, đinh
hương, gỗ đàn hương, long năo, xạ hương, đinh hương, trầm,
hồng thuỷ, dầu lửa, bông, vải zhaoxia (?), vải có vẽ màu,
vải bông trắng, chiếu lá cọ, mingjjao (?), wujjao (?), sáp
ong vàng, lưu huỳnh, gỗ vang, gỗ mun, tre guanyin (?), gạo,
tổ yến, hạt tiêu, cau, dừa, mít, cây haiwuzi (?), cây anít,
ớt, lựu, nhục đậu khấu, tê giác, sư tử, voi, vượn, khỉ
trắng, voi trắng, chim chiji (?), vẹt, chim shanji (?), chim
guifei (?), rùa ( Momoki 1999: 45).
Ghe
Bàu xuôi ngược cạnh các Cảng Thị Việt-Nam
Có nhiều
cảng-thị lớn Miền Trung được thiết lập tại các cửa biển
trọng yếu như cửa Nhật Lệ (Quảng B́nh), cửa Việt (Quảng
Trị), cửa Tư Hiền (Thừa Thiên-Huế), cửa Đại Chiêm (Hội An,
Quảng Nam), cửa Sa Kỳ (Quảng Ngăi), cửa Thị Nại (Quy Nhơn),
cửa Nha Trang (Khánh Hoà), cửa Phan Rang (Ninh Thuận), cửa
Phan Rí, cửa Phan Thiết (B́nh Thuận)
Mối quan hệ
trao đổi hàng hoá giữa các cảng-thị Miền Trung vẫn c̣n xảy
ra cho tới nửa đầu thế kỷ 20. Khi nói đến phương-tiện
chuyên-chở chính Miền Trung, người ta phải nói đến loại Ghe
Bầu nổi tiếng của Quảng Nam trước đây và nhiều loại ghe đi
xa trên biển gọi là ghe giă, nhiều chiếc dài 15-20 mét, có
trọng tải từ 100- 150 tấn (Nguyễn Bội Liên et al. 1991:
86-89; Manguin 1995: 71-75).
Theo hai Ông
Ngô Đức Thịnh cũng như Ông Nguyễn Bội Liên cho rằng chính
nhờ loại ghe bầu này mà sinh-hoạt người dân Xứ Quảng vươn
lên, ra khơi, tiến-triển mạnh mẽ.
Theo Ông
Nguyễn Văn Xuân, trong những yếu tố Chămpa trong văn hoá
Miền Trung Việt nam co’ cả ảnh-hưởng kiến-trúc ghe thuyền.
Ông c̣n nh́n xa hơn một chút nữa nhận thấy ghe, thuyền của
Mă Lai giống hệt một số ghe ở các tỉnh miền Trung. Trong bài
: “Ghe bầu Quảng Nam và các tỉnh phương Nam ” của Nguyễn Bội
Liên và Hồ Phước Tâm (Nghiên cứu lịch sử địa phương và
chuyên ngành QN-ĐN – số 1/ 1981) có phân tích rơ ghe này
chịu ảnh hưởng của Chiêm Thành. Ghe bầu (theo Trần Kỳ Phương
trong Một vài nhận xét về những yếu tố Mă Lai trong văn hóa
Champa và Trung Việt Nam”, bản đánh máy đọc ở Mă Lai tháng
9-1991) là một biến âm của từ “gay” và “Prahu” để chỉ ghe
buồm Mă Lai. Chẳng cần phải nói dài ḍng và tỉ mỉ, cứ nh́n
qua h́nh thể các thuyền ở miền Bắc Việt Nam, Trung Quốc và
các ghe ở Quảng Nam với vùng Mă Lai – Đông Nam Á, lập tức
người ta phân biệt được ngay “thuyền Bắc và ghe Nam”. Ghe
bầu là một bước phát triển lớn của ngành hàng hải Việt Nam.
Cánh
buồm Ghe Bàu hiên-ngang lướt gió
Theo Ông Trần
Xuân Toàn, người đi ghe bầu thường phải xa nhà ba, bốn tháng
trời, cha mẹ, vợ con ở nhà thường nóng ruột, nên trong dân
gian thường có câu:
Lạy trời
thổi gió nồm đông Cho buồm căng gió cho chồng tôi lên.
Vận chuyển
bằng ghe bầu gặp bao nhiêu nguy hiểm, nên vào thời ấy th́
không ǵ hơn là người lái phụ phải lăo luyện và có kinh
nghiệm xem hiện tượng đoán thời tiết, giông gió. Ghe bầu
ngày trước là biểu trưng cho một cơ ngơi, một tài sản to lớn
của những nhà giàu có ven cửa biển, chứ đem so với ghe
thuyền đánh cá b́nh thường ngày nay th́ cũng chẳng ra sao.
Ngày nay th́
ghe bầu đă vắng bóng ở bờ biển miền Trung và giới trẻ cũng
không thể h́nh dung, tưởng tượng chiếc ghe bầu của cha ông
xưa có ba cạnh buồm hiên ngang lướt gió như thế nào!
Ghe
Bàu Viễn-dương trong Nhật kư của George Windsor
Nhiều lời khen
ngợi dân Việt đi biển được dẫn lại trong cuốn sách của Jean
Chesneaux, cuốn “Contribution à l’histoire de la nation
vietnamienne”, bản địch Anh ngữ: “The Vietnamese Nation
Contribution to a History”
Sử sách c̣n
ghi lại: Ghe bầu là phương-tiện chính của ngoại-thương,
chuyên-chở hàng-hoá qua lại Trung-Quốc, Thái-Lan và
Tân-Gia-Ba. Nhà hàng-hải. Một đoạn hải-tŕnh ngắn của thuyền
Việt-Nam đươc George Windsor Earl viết trong sổ nhật kư “The
Eastern Seas on Voyages and Adventures in the Indian
Archipelago in 1832-33-34″. Khi đó George Windsor đang trên
đường dẫn lộ một chiếc thương-thuyền đến Singapore vào đầu
thế-kỷ thứ 18 như sau:
“… Băo táp
thật dữ dội ngoài biển khơi, thiếu chút nữa th́
thương-thuyền của chúng tôi bị găy đổ cả cột buồm. Thời tiết
đă tiếp-tục xấu như thế trong nhiều ngày. Vậy mà khi đang
thận-trọng dẫn tàu vào eo biển, chúng tôi chợt nhận ra 6
chiếc thuyền nhỏ của người Việt-Nam đang giương hết mọi cánh
buồm, cứ thản-nhiên như không, tiến thẳng tới trước. Mấy
người mại bản Trung-Hoa đi trên tàu chúng tôi, đứng sững sờ
ngắm nhín những dàn buồm no gió một hồi… rồi sau khi nhận
diện được, họ la lên một cách thán-phục: “Lại mấy người Việt
đấy, thật lỳ quá trời…”. Tôi nghĩ (lời thuyền trưởng George
Windsor Earl): Mấy người Việt đó đang lèo lái những con
thuyền bé nhỏ mà cách-thức vận-chuyển để vượt sóng lượn gió
thật là tài-t́nh.
Tài-ba của họ
không thua kém bất cứ một thuỷ-thủ đoàn hạng nhất nào của
toàn khu-vực châu Âu. Đoàn thuyền bé tí teo đó không có một
chiếc nào vượt quá 50 tấn, vậy mà những người đi biển này có
thể đè bẹp cả sóng gió Biển Đông vào giữa mùa băo tố. Đă qua
20 năm rồi, rất ít thương-thuyền nào của công ty chúng tôi
dám thử hải-hành trong giữa mùa biển động như vậy…”.
Ông c̣n viết
thêm nhiều câu rất cảm động, thí dụ như: “Thật thú-vị nếu
được quen biết với những người Việt-Nam này. Tính t́nh họ
năng động, ngôn-từ lại hoạt bát như dân Pháp. Khi đến buôn
bán ở Singapore, họ đă phải khéo léo trong sự cạnh tranh.
Hoàn cảnh sinh-hoạt của họ thật sự khó khăn v́ chính-sách bế
môn toả cảng của triều-đ́nh Việt-Nam. Họ rất can-đảm khi
xuất dương. Thuyền họ lại không trang bị vũ khí và như thế
có thể là miếng mồi ngon cho bọn hải-tặc.”
Vinh dự thay
cho truyền-thống của ngành hàng-hải Việt-Nam! Những câu khen
ngợi đó có thể nói là không tiếc lời. Sự suy tôn về
nghề-nghiệp, đề cao về nhân cách cùng khâm phục ḷng can-đảm
như vậy rất hiếm hoi trong giới hành thuỷ. Người Việt như
chúng ta ngày nay, nghe thấy cũng c̣n hănh diện lây.
Ghe
bầu – Các lái đi buôn
Ông Trần Xuân
Toàn viết rằng: Văn học dân gian miền biển rất phong phú,
trong đó những bài Vè các lái rất được ưa thích. Vè các lái
hay c̣n gọi là Ḥ các lái, Ḥ thủy tŕnh là của những người
chuyên vào lộng ra khơi xuôi ngược Bắc -Nam. Đây là một bản
tổng kết hải tŕnh của các ghe bầu theo tuyến Bắc- Nam và
ngược lại.
Đêm khuya
ngồi buồn, kể chuyện ngâm nga
Bắt từ Gia
Định kể ra
Anh em
thuận ḥa ngoài Huế kể vô
Bài vè không
chỉ làm vơi nỗi nhọc nhằn của những con người chèo sóng,
chém gió dằng dặc đường dài trên biển, mà nó c̣n có giá trị
thực tế to lớn hơn.
Khi xưa con
người đi trên biển cả “mênh mông” không có ghe máy hiện đại,
được trang bị đầy đủ la bàn, máy báo thời tiết như bây giờ.
Ngư dân đă biết tổng kết kinh nghiệm trong các bài vè.
Vè các lái là một bản hải đồ thô sơ dành cho người làm
nghề biển từ Huế vào Vũng Tàu và ngược lại. Bài vè miêu tả
đầy đủ các địa danh, sông lạch núi non, ngầm đá cửa sông,
phố xá, thời tiết khí hậu từng vùng và lưu ư những nơi hiểm
nguy thường gây tai nạn cho thuyền bè qua lại. Do giá trị
thực tế như thế nên Vè các lái được mọi người đi
biển thuộc nằm ḷng, coi đó như là một thứ “cẩm nang” đi
biển.
…Về nguồn gốc
của bài vè, hai tác giả phỏng định, có người cho rằng: ông
La Xuân Kiều người Phù Ly, phủ Quy Nhơn – một trong Tây Sơn
ngũ mỹ là tác giả chính (?). Sau khi nhà Tây Sơn suy vi, ông
Kiều không chịu thuần phục nhà Nguyễn, từ đó ông đi bạn ghe
bầu suốt 25 năm sống lênh đênh trên biển, khi vào Nam, khi
ra Bắc (tr. 430).
Bên cạnh giá trị thực tế là
“cẩm nang” của người đi biển, Vè các lái c̣n có giá
trị về nhiều mặt: địa lư, lịch sử, phong tục tập quán, thủy
văn, thời tiết, phương ngữ. Đặc biệt là
Vè các lái
thể hiện khá đậm đà t́nh yêu quê hương đất nước và tâm t́nh
của những người dân miền biển chất phác.
Một điều đáng
lưu ư là: tâm t́nh chất phác của ngư dân cũng được gửi gắm
trong bài vè. Trong bài Hát ra, ta gặp nhiều đoạn
nói lên tâm t́nh của ngư dân: Nhớ nhà, nhớ vợ con, ḷng bồn
chồn muốn chóng về nhà, ghé vào chơi lâu một nơi nào cũng
không an ḷng:
Ngồi buồn
cám cảnh ê chề
Hỏi con
sóng bổ tới quê bao th́?
Thôi thôi
chớ nói thêm buồn
Kéo neo mà
chạy đi luôn kịp thời
Thương con
nhớ vợ trăm đàng
Nước mắt
hai hàng lụy ứa thấm biên
Vè các lái” là
tiếng nói tâm t́nh chất phác của người dân miền biển một
thời vậy.
Tác
giả: Vũ Hữu San, tạp Chí Nghiên Cứu và Phát Triển của Sở
Khoa Học và Công Nghệ Thừa Thiên-Huế (đăng trong số 2
(67).2008 ).