VẤN ĐÁP
- Chú ǵ?
- Chú chuột.
- Chốt ǵ?
- Chốt tre.
- Bè ǵ?
- Bè muống.
- Ruộng ǵ?
- Ruộng nương.
- Đường ǵ?
- Đường cống(*)
- Cống ǵ?
- Cống sáp.
- Sáp ǵ?
- Sáp ong.
- Ḷng ǵ?
- Ḷng giời.
- Chơi ǵ?
- Chơi tán(**)
- Tháng ǵ?
- Tháng chầu,
- Chầu ǵ?
- Chầu ... Bụt!
(*) Đường cống là
đường để đem đi
tiến cống.
(**) Tán đây là
một thứ lọng.
Chú thích:
Đây cũng như tṛ
chơi "chi chi
chành chành" nhưng
thay v́ một em đọc
trọn bài, th́ ở
đây một em đọc câu
hỏi, em khác ch́a
tay phải trả lời.
Chú ư là đến câu
hỏi cuối "Chầu ǵ"
th́ em ch́a tay
trả lời kéo dài
chữ "Chầu"... để
đến khi bất chợt
đọc nốt chữ cuối
"Bụt" là ập tay
lại. Em nào không
rút kịp ngón tay
trỏ sẽ phải làm ba
ba (hay nam nam).
TẬP TẦM VÔNG
Tập tầm vông,
Tay nào không?
Tay nào có?
Tập tầm vó,
Tay nào có?
Tay nào không?
Chú thích:
Một em thoạt giấu
hai tay phía sau,
rồi đặt hai tay
nắm lại trước mặt
em kia và đọc bài
đồng dao trên để
em kia đoán xem
vật nào đó được
giấu ở tay nào.
Bài "Chồng lộng,
chồng cà (I)" kế
tiếp nhường như là
lời hát của em
đoán.
CHỒNG LỘNG
CHỒNG CÀ(I)
Chồng lộng,
chồng cà,
Bí đao bí đỏ.
Mày ngồi đầu ngơ,
Mày nhặt lông mày.
Mày cày ruộng ấu,
Mày dấu tay nào?
Mày dấu tay này!
Chú thích:
Bài này nhường như
là lời hát của em
đoán. Hát dứt bài,
em chỉ vào tay mà
em nghi có dấu.
CHỒNG LỘNG,
CHỒNG CÀ(II)
Chồng lộng,
chồng cà,
Mày x̣a hoa khế.
Khế ngâm, khế
chua,
Cột đ́nh, cột
chùa.
Nhà vua mới làm,
Cây cam, cây quưt.
Cây mít, cây hồng,
Cành thông, lá
nhăn.
Ai có chân, có tay
th́ rụt.
Chú thích:
Căn cứ vào câu
cuối cùng của bài
ca th́ tṛ chơi áp
dụng cho bài này
tương tự với tṛ
chơi của bài "Nu
na nu nống".
MÍT MẬT MÍT GAI
Mít mật mít
gai,
Mười hai thứ mít.
Vào ăn thịt,
Ra ăn xôi.
Chú chẳng nghe
tôi,
Tôi bịt mắt chú.
Ẩn đâu cho kín,
Bao giờ lúa chín
th́ về.
Chú thích:
Đây là tṛ chơi đi
trốn (ú t́m). Một
em tự bịt mắt, để
cho các em khác có
th́ giờ đi trốn.
Khi nghe các em
trốn "ú" một
tiếng, (nghĩa là
đă trốn xong), th́
em đi t́m. Em nào
bị t́m thấy đầu
tiên th́ vào thay
thế.
MÙI XỎA MÙA XOA
Mùi xỏa mùi
xoa,
Tao cho xuống đất.
Đứa nào sợ quất,
Sờ lại phía sau.
Đứa nào sợ đau,
Mau mau chạy trốn.
Chú thích:
Các em ngồi thành
ṿng tṛn, một em
cầm chiếc khăn vừa
đi quanh vừa đọc
và kín đáo để khăn
rơi xuống phía sau
một em nào đó. Em
đó khám phá kịp
thời th́ nhặt khăn
và đuổi em kia
thuận theo ṿng
(không được đuổi
đón đầu v́ ngược
ṿng). Em bị đuổi
chạy về ngồi vào
chỗ trống của em
đuổi ḿnh. Tṛ
chơi này phải thật
lẹ và thật tinh
khôn. Có em trong
khi đuổi đă lẹ để
rơi chiếc khăn sau
một em khác rồi.
Nếu vô t́nh không
biết, trọn một
ṿng, em đó sẽ bị
em kia nhặt chiếc
khăn tay lên và
đánh cho đến khi
em chạy trọn một
ṿng trở về ngồi
lại chỗ cũ. Căn cứ
vào chữ "mùi xoa"
phiên âm chữ Pháp
"mouchoir", ta
biết rằng bài hát
tṛ chơi này cũng
mới được sáng tác
từ sau ngày gặp gỡ
Tây phương. Giống
bài "Oẳn tù t́".
ĐÁNH CHUYỀN
Từ hai đến năm em
tụ tập lại. Đồ
chơi là một viên
cuội nặng (bây giờ
là một trái banh)
và mười chiếc que
gọi là mười con
chắt.
- Lần thứ nhất:
Các em tung ḥn
cuội hay trái banh
lên cao rồi dùng
cả hai tay xoay
tṛn nắm que một
ṿng, và khi ḥn
cuội rơi xuống
cũng vừa kịp bắt.
Vừa làm vậy các em
vừa hát bài sau
đây:
Trồng luống
cải,
Giải con chắt.
Một dẻo dang,
Hai sang đ̣.
Ba c̣ kếu,
Bốn nghêu ngao.
Năm đao thớt,
Đặt xuống đất.
Cất lên tay...
Khi đọc đến câu 8,
em đặt cả mười con
chắt xuống; đến
câu 9, câu cuối
cùng, em lại vơ cả
mười con chắt lên
tay.
- Lần thứ hai:
Em duỗi thẳng hai
chân, giải những
con chắt lên đó
vùa hát vừa làm
theo lời hát:
Giải xuống
chân,
Nưng lên một.
Chộp lấy đôi...
Em lại đặt cả mười
con chắt xuống
chân, hát và làm
tiếp cho đến:
Giải xuống
chân,
Nưng lên một.
Chộp lấy mười...
(V́ chỉ có mười
con chắt nên hai
lần sau cùng "chộp
lấy chín" và "chộp
lấy mười" làm như
nhau).
- Lần thứ ba:
Giải xuống đất,
Cất lên tay.
Sang tay qua,
Ra tay chống.
Chống chống một...
Cứ thế em hát cho
đến {Chống chống
mười". Hát câu thứ
nhất, em giải mười
con chắt xuống
đất; sang câu hai,
em vơ những con
chắt lên tay; hát
câu ba, em đưa bó
chắt sang tay kia;
câu bốn, em đưa bó
chắt trở về tay cũ
(thường là tay
mặt); từ câu năm
trở đi th́ mỗi lần
tung ḥn cuội lên
em lại chống chống
bó chắt xuống theo
đúng nhịp hát để
vừa kịp bắt lấy
ḥn cuội khi rơi
xuống. Cứ như vậy
cho đến "chống
chống mười".
- Lần thứ tư:
Giải xuống đất,
Cất lên tay.
Sang tay qua,
Ra tay quét.
Quét quét một...
Lần này em cũng
làm như lần trước
chỉ khác là khi
hát đến câu "Quét
quét một" th́ em
dùng bó chắt làm
điệu quét quét. Cứ
như vậy tuần tự
cho đến "Quét quét
mười".
- Lần thứ năm:
Em vừa tung cuội,
chuyển bó chắt từ
tay nọ sang tay
kia, vừa nhịp
nhàng bắt lấy ḥn
cuội khi rơi xuống
cùng với lời hát:
Đầu quạ,
Quá giang.
Sang đ̣,
Giồng cây.
Ăn quả,
Nhả hột.
Cũng có nơi bài
hát dài hơn như
sau:
Đầu qua,
Quá giang.
Sang sông,
Về đ̣.
C̣ nhảy,
Gẫy cây.
Mây leo,
Bèo trôi.
Ổi xanh,
Hành bóc.
Róc vỏ,
Đỏ ḷng.
Tôm cong,
Đít vịt.
Sang cành nẻ,
Bẻ cành xanh.
Vét bàn thiên
hạ...
Đến đây vừa hết
một chu kỳ của tṛ
chơi. Em nào bị
lỗi ở quăng nào
th́ phải nhường
lượt cho em kế
tiếp.
Tùy địa phương tṛ
chơi này có thể
gia giảm khác đi
chút ít.
PHỤ ĐỒNG CHỔI
Phụ đồng chổi,
Thôi lổi mà lên.
Ba bề bốn bên,
Đồng lên cho
chóng.
Hoặc là cửa đóng,
Cũng phá mà vào.
Cách sông cách ao,
Cũng lội mà sang.
Cách đ̣ cách
giang,
Cũng sang cho
được.
Ông chổi đi trước,
Bà chổi đi sau.
Một lũ lau nhau,
Đồng lên cho
chóng.
Chú thích:
Một em ngồi xếp
bằng tṛn, tay cầm
cán chổi dựng
đứng; một em khác
phụ đồng bằng cách
vừa đánh trống
theo từng nhịp đều
đều vừa hát bài
trên. Đồng đảo
dần.. đảo dần...
rồi bất chợt vùng
dậy vung chổi; các
em đứng xung quanh
vội chạy về bốn
ngả để tránh ngọn
chổi quét hay đập
vào người. Khi
muốn đồng tỉnh lại
th́ vẩy nước lạnh
lên mặt. Thật ra
ít khi xảy ra
chuyện em ngồi
đồng bị mê thật.
Thường thường chỉ
là em giả vờ đảo
đồng như vậy. Tṛ
chơi này chung cả
các em trai gái và
thường chơi vào
những đêm trăng
tháng tám.
PHỤ ĐỒNG ẾCH
Ếch! Ếch! Mày
mới về đây,
Nói dăm câu chuyện
cho thầy nghe xem.
Thân ếch là thân
ếch hèn,
Giường chiếu chẳng
có nằm trần đất
không.
Gặp ông quỷ lăo
thần thông,
Thắt lưng bó đuốc
t́m trông việc ǵ.
T́m tôi có việc
phu thê,
Chốn này không vợ,
chốn kia không
chồng.
Ông bắt tôi ông bỏ
vào lồng,
Tôi kêu "ễnh ộp"
chẳng ḷng nào
tha.
Tháng tám lúa tốt
xanh xa,
Tháng ba gieo mạ
sương sa đồng
ngoài.
Tôi ngồi, tôi nấp
bụi khoai,
Ông ném một mồi
tôi phải tḥ ra.
Tham ăn mắc phải
răng hà,
Cha hời, mẹ hỡi
xiên qua, mép này!
Tôi về đây trách
cậu, trách d́,
Sẵn dao, sẵn thớt
băm th́ chẳng tha.
Thứ nhất là củ
hành hoa,
Thứ nh́ nước mắm,
thứ ba củ riềng.
Thứ tư là hạt hồ
tiêu,
Tán ra cho đều vừa
hắc vừa cay.
Khen thay thằng bé
hai tay,
Miếng nạc nó gắp,
xương rày thảy xa.
Trầu đâu ăn đỏ môi
ta,
Rượu đâu uống
chén, ắt là hồn
lên.
Chú thích:
Em ngồi đồng phải
quỳ xuống hai tay
chống đất, miệng
ngậm mấy nén
hương. Một em khác
vừa vỗ tay vừa hát
bài phụ đồng trên.
Khi hồn ếch nhập
ấy là lúc em ngồi
đồng nhảy kiểu bốn
chân như ếch. Muốn
cho đồng thăng th́
cũng vẩy nước lạnh
lên mặt như tṛ
chơi phụ đồng
chổi.
Và cũng như phụ
đồng chổi, tṛ
chơi này chung cho
cả các em trai
gái, chơi vào
những đêm tiết
trung thu.
TR̉ CHƠI RỒNG
RẮN
Thầy thuốc: -
Rồng rắn đi đâu?
Rồng rắn: - Rồng
rắn đi lấy thuốc
cho con.
TT: - Con lên mấy?
RR: - Con lên một.
TT: - Thuốc chẳng
hay.
RR: - Con lên hai.
TT: - Thuốc chẳng
hay.
RR: - Con lên ba.
TT: - Thuốc chẳng
hay.
RR: - Con lên bốn.
TT: - Thuốc chẳng
hay.
RR: - Con lên năm.
TT: - Thuốc chẳng
hay.
RR: - Con lên sáu.
TT: - Thuốc chẳng
hay.
RR: - Con lên bảy.
TT: - Thuốc chẳng
hay.
RR: - Con lên tám.
TT: - Thuốc chẳng
hay.
RR: - Con lên
chín.
TT: - Thuốc chẳng
hay.
RR: - Con lên
mười.
TT: - Thuốc hay
vậy. Xin khúc đầu.
RR: - Những xương
cùng xẩu.
TT: - Xin khúc
giữa.
RR: - Những máu
cùng me.
TT: - Xin khúc
đuôi.
RR: - Tha hồ mà
đuổi.
Chú thích:
Trong tṛ chơi
"Rồng Rắn" này một
em đứng ra làm
thầy thuốc, c̣n
tất cả các em khác
ôm lấy ngang lưng
nhau làm rồng rắn.
Lúc đối thoại giữa
thày thuốc và rồng
rắn là lúc tất cả
mọi người hồi hộp.
Khi rồng rắn nói
dứt câu "Tha hồ mà
đuổi" th́ ông thầy
thuốc cố gắng mà
đuổi để bắt được
cái đuôi, trong
khi đó cái đầu th́
ra sức chặn và cái
đuôi th́ ra sức
lẩn tránh. Nếu ông
thầy thuốc bắt
được cái đuôi th́
được cuộc; trái
lại nếu bị rắn uốn
khúc cuộn chặt lấy
th́ bị thua. Kẻ
thua phải nắm hai
tay lại chồng lên
nhau (gọi là chồng
tiền) để cho kẻ
được đánh một cái.
Tṛ chơi này khiến
các em vừa săn
đuổi nhau vừa la
hét, thật mệt,
nhưng cũng là một
trong những tṛ
chơi hào hứng nhất
của trẻ em Việt
nam.
TR̉ CHƠI ĐỌC
CÂU
Các em đố nhau đọc
thật nhanh. Có
những câu dễ đọc
như:
Bà ba béo,
Bán bánh bèo.
Bị bắt bỏ bót,
Ba bốn bận.
Bởi bướng bỉnh.
Hay:
Mượn cái xanh,
Nấu bát canh.
Cho hành cho hẹ...
Hay:
Lư lũy lên ḷ
lấy ḷng lợn.
Có những câu nói
nhanh mà không lầm
như:
Tháng năm nắng
lắm.
(Đọc nhanh có thể
lầm thành "Tháng
năm nắng nắm").
Hay:
Búa bổ đầu búa.
(Rất có thể đọc
nhanh sẽ lịu thành
“"Búa bổ đầu bố")
Hay câu dưới đây
cũng rất khó nói
nhanh:
Nồi đồng nấu
ốc, nồi đất nấu
ếch?
Chú thích:
Tiếng Pháp cũng có
tṛ chơi loại nầy
như câu:
Chasseur
sachant chasser
sans chien!
Các em nhi đồng
Anh Mỹ gọi tṛ
chơi loại này là
câu đọc trẹo lưỡi
(tongue twisters
hay tongue
trippers) như câu
sau đây:
If Peter Piper
Pick’d a Peck of
Pepper,
Where’s the Peck
of Pepper Peter
Piper Pick’d.
ĐẾM SAO
Cũng thuộc loại
tṛ chơi phải nói
nhanh, có tṛ chơi
đếm sao. Em đó
phải làm sao nói
liền một hơi câu
sau này:
Đố ai ở trong
nhà đi ra ngoài
sân đếm được ba
mươi sáu ông sao.
Một ông sao sáng;
hai ông sáng
sao... cho tới ba
mươi lăm ông sao
sáng, ba mươi sáu
ông sáng sao.
Thường th́ các em
chỉ đếm đến mười
ông là đă cảm thấy
hụt hơi đến nơi
rồi.
HÙ MA TRƠI
Hù ma trơi,
Mặt trời chửa lặn.
Con rắn ḅ ra,
Con ma thập tḥ.
Chú thích:
Vào lúc chập tối,
một em bạo dạn có
thể lănh đạo một
vài em khác ra
đồng tới chỗ nhiều
mồ mả mà hát câu
trên. Nếu bất chợt
có con đom đóm lớn
hoặc có chất lân
tinh bay lên th́
cũng rất có thể là
các em ba chân bốn
cẳng chạy cho lẹ
về ngơ xóm.
CÁC TR̉ NHỎ
CHƠI KHÁC
Ngoài ra cũng nên
kể qua một số tṛ
chơi nghịch lặt
vặt khác như:
Em dùng một cành
tre hay một cành
cây nào làm như
đương cỡi ngựa,
rồi vừa chạy xung
quanh sân vừa hát:
Nhong nhong
ngựa ông đă về,
Cắt cỏ Bồ đề cho
ngựa ông ăn.
Bồ đề là tên một
thổ ngơi không xa
Gia Lâm (Bắc
Việt), nơi có mọc
cỏ tốt cho ngựa
ăn.
Em bắt được con
cào cào, cầm hai
càng của nó vừa
nâng lên nâng
xuống vừa hát:
Cào cào giă gạo
tao xem,
Tao may áo đỏ áo
đen cho mày.
Em có thể lén bỏ
một cọng rơm, cọng
cỏ hay một cái ǵ
nhẹ lên đầu bạn
rồi hát:
Trên đầu có tổ
ṭ ṿ,
Gọi ta là chú học
tṛ, ta cất đi
cho.
Đây cũng là một
chứng tích ḷng
hiếu học của người
ḿnh, luôn luôn
lấy việc là học
tṛ làm một điều
vinh hạnh.
VII.- CÂU ĐỐ
1.- Bốn em cùng ở
một nhà,
Mẹ thời chia của
con ra nhà người.
(Giải: ấm nước và
bốn cái chén)
2.- Bốn người giẫm
đất, một người
phất cờ,
Hai người lẳng lơ,
hai người quạt mát.
(Giải: con voi)
3.- Bốn bên thành
lũy không thấp,
không cao,
Có sông có nước,
cá chẳng vào,
Voi đi đến đấy
dừng chân lại,
Đôi bên văn vũ
nghĩ làm sao?
(Giải: bàn cờ)
4.- Cái ǵ như thể
khí trời,
Ngày đêm quanh
quẩn ở nơi cạnh
ḿnh.
Không hương, không
sắc, không h́nh,
Không h́nh, không
sắc, mà ḿnh không
qua.
(Giải: ḷng cha
mẹ)
5.- Cây bên ta, lá
bên Ngô,
Coi ngọn tày bồ,
cái gốc tày tăm.
(Giải: cái diều)
6.- Cô kia con cái
nhà ai,
Thắt lưng nhiễu
trắng, lỗ tai đeo
trằm.
Đứng bên nghe
tiếng rầm rầm,
Ru đi ru lại ầm ầm
bên tai.
(Giải: cái cối
xay)
7.- Cô kia má đỏ
hồng hồng,
Cô đi lấy chồng,
cô bỏ quê cha.
Ngày sau tuổi hạc
mau già,
Quê chồng cô bỏ,
quê cha lại về.
(Giải: cái nồi
đồng)
8.- Da cóc mà bọc
trứng gà,
Mở ra thơm nức cả
nhà muốn ăn.
(Giải: quả mít)
9.- Đầu làng đánh
trống,
Cuối làng phất cờ.
Trống đánh đến
đâu,
Cờ phất đến đấy.
(Giải: con chó
sủa)
10.- Đêm th́ mẹ mẹ
con con,
Ngày th́ chết hết
chẳng c̣n một ai.
C̣n một ông lăo
sống dai,
Nhăn nhăn nhó nhó
chẳng ai buồn
nh́n.
(Giải: bầu trời)
11.- Đường ngay
thông thống,
Hai cống hai bên,
Trên hàng gương,
Dưới hàng lược.
(Giải: cái mặt)
12.- Không sơn mà
đỏ,
Không gơ mà kêu,
Không khều mà
rụng.
(Giải: mặt trời,
sấm và mưa)
13.- Không trồng
mà mọc,
Không học mà hay,
Không vay mà trả,
Không vả mà sưng,
Không bưng mà kín.
(Giải: cây cỏ,
chim hót, sưu
thuế, cái nhọt,
quả trứng)
14.- Lẫm liệt uy
phong,
Mây hồng che phủ,
Bao nhiêu thú dữ,
Đều phải phục
ṭng.
(Giải: quả núi
cao)
15.- Ḿnh tṛn
lưng khỏng kḥng
khong,
Dây tơ vấn vít con
ong nửa vời.
Rằng ta t́m chốn
thảnh thơi,
Bắt con rồng đất
ghẹo người thủy
cung.
(Giải: câu cá)
16.- Một đàn c̣
trắng phau phau,
Ăn no tắm mát rủ
nhau đi nằm.
(Giải: cái rổ bát)
17.- Một ḷng v́
nước v́ nhà,
Người mà không
biết, trời đà biết
cho.
(Giải: cái máng)
18.- Một cây mà có
năm cành,
Giấp nước th́ héo,
để dành th́ tươi.
(Giải: bàn tay)
19.- Một cây mà nở
trăm hoa,
Trời mưa th́ héo,
nắng già th́ tươi.
(Giải: bầu trời
sao)
20.- Ngả lưng cho
thế gian nhờ,
Vừa êm, vừa ấm,
lại ngờ bất trung.
(Giải: cái phản)
21.- Sừng sững mà
đứng cửa quan,
Giáo đâm không
chết, ḷi gan ra
ngoài.
(Giải: cái khóa)
22.- Vừa bằng cái
vung,
Vùng xuống ao,
Đào chẳng thấy,
Lấy chẳng được.
(Giải: Mặt trời)
23.- Vừa bằng
thằng bé lên ba,
Thắt lưng con cón
chạy ra ngoài
đồng.
(Giải: bó mạ)