|
Quê Ta Trang Quê Ta sẽ dẫn dắt ta đến nững nẻo đường đất nước thân yêu. Quê ta
chính là cái gốc sinh động của dân tộc do đó ca dao luôn nêu lên những nét đẹp mà
ta không thể nào quên được. Dù ta vì hoàn cảnh phải xa quê, dù rằng chỉ xa
nhưng vẫn còn trong nước hay hải ngoại thì những hình ảnh thân thương chẳng bào
giờ mờ nhạt trong tâm tư của ta. Xin mời vào trang
quê ta với hình ảnh thân thương:
NGÔI
CHÙA VIỆT NAM
HT. THÍCH THIỆN SIÊU
Ngày xưa, một nhà nho tên là Lê Quát, học
trò của Chu Văn An, đã từng thắc mắc về đạo Phật rằng: “Ðạo Phật chỉ đem điều
họa phúc mà lay động lòng người, sao mà sâu xa bền chắc đến như vậy. Trong từ
kinh thành, ngoài đến thôn phủ, đường cùng ngõ hẻm, không hiểu mà theo, không
thề mà tin, hễ nơi nào có người ở là nơi ấy có chùa Phật. Bỏ đi thì làm lại, hư
đi thì sửa lại”. Nếu hiểu đúng thì không phải chỉ có hai chữ họa phúc mà động
lòng người được. Kinh nói họa phúc là cốt nói hành động thiện ác, bởi vì hành
động thiện gây ra phúc, hành động ác gây ra họa. Nói hành động thiện ác là cốt
nói mê ngộ, nghĩa là, nếu giác ngộ thì thiện mà mê lầm thì ác. Nhưng nói mê ngộ
cũng cốt nói về tâm, bởi vì mê là do tâm mà ngộ cũng do tâm. Do vậy mà Ðức Phật
chú trọng giác ngộ tâm. Khi tâm được giác ngộ thì hành động mới sáng suốt, mà
hành động sáng suốt thì cuộc đời sẽ được an vui. Vì vậy lời dạy đó càng ngày
càng thấm thía vào trong lòng người, lay động lòng người hướng về với Phật. Khi
đã hướng về với Phật thì dựng chùa để thờ Phật, để mỗi ngày thấy Phật trên bàn
thờ, nhờ đó mà khắc họa đậm nét hình ảnh Phật trong tâm. Cho nên khi nào chúng
ta thấy được Phật trong tâm thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ thấy Phật trên bàn một
cách đúng đắn. Nếu không như thế thì như trong kinh Kim Cang, Ðức Phật đã nói:
“Nếu lấy sắc thấy Ta, lấy âm thanh cầu Ta, người đó hành tà đạo, không thể thấy
Như Lai”. Cho nên khi nào thấy tâm thì mới thấy Phật được một cách đầy đủ viên
mãn. Vì vậy mới dựng chùa thờ Phật.
Theo dòng lịch sử lâu đời của Việt Nam thì
Phật giáo được truyền vào
đất nước chúng ta được biết một cách rõ ràng
nhất là vào thời Sĩ Nhiếp, thời đó đã có một số ngôi chùa ở tại Luy Lâu, sau đó
có Thiền sư Ðồ Lê đến đây tu tập, rồi từ đó các chùa Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi
và Pháp Ðiện được xây dựng. Cũng được biết chùa Khai Quốc do triều Lý Nam Ðế xây
dựng mà bây giờ được gọi là chùa Trấn Quốc, hiện ở tại Hồ Tây – Hà Nội. Về sau
các chùa trong các đời Lý, đời Trần tiếp tục mọc lên rất nhiều cũng là để đáp
ứng lại lòng tin tưởng của người con Phật. Ngôi chùa đã lan tràn khắp nơi khắp
xứ, sống một cách khiêm tốn, không ngạo nghễ khoe khoang, cùng với mọi người dân
đồng lao cộng khổ và ngôi chùa đã trở thành hình tượng thân thương, nó đi vào
lòng người và nó cũng đã đi vào ca dao, tục ngữ:
- Con chùa vua nước
- Ðất vua chùa làng
- Ăn mày cửa Phật
- Chùa rách Phật vàng.
- Sống ở nhà già ở chùa
- Trẻ vui nhà già vui chùa
- Trốn chúa ở chùa
- Lên chùa thấy Phật muốn tu
- Ba cô đội gạo lên chùa
- Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa
- Gần chùa gọi Bụt bằng anh
- Xa chùa trống vắng, gần chùa inh tai.
Hoặc:
- Chùa làng dựng ở xóm côi,
Sớm khuya hai buổi nghe hồi chuông ngân
- Con ai đem bỏ chùa này
Nam mô Di Phật, con thầy thầy nuôi.
- Bao giờ cạn lạch Đồng Nai,
Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyề n .
- Biển Ðông sóng dợn cát đùa,
Sánh đôi không đặng lên chùa anh tu.
- Bình Lục có núi Con Bùa,
Trông sang Ðạm Thủy có chùa Ngọc Thanh.
- Bên chợ Ðông Ba tiêng gà eo éc,
Bên chùa Thọ Lục, tiếng trống sang canh.
Giữa sông Hương gợn sóng khuynh thành,
Ðêm khuya một chiếc thuyền mành ngửa
nghiêng.
- Ba phen tàu hổi cả ba,
Phen này hổi nữa lên chùa đi tu.
- Lên chùa thấy phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền,
- Ðầu làng có một cây đa,
Cuối làng cây thị, đàng xa ngôi chùa.
Dù ai đi sớm về trưa ,
Xin anh nghỉ bóng cây dừa nhà em.
- Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ,
Xem chùa Thê Húc, xem đền Ngọc Sơn,
Ðài nghiên Bút Tháp chưa mòn,
Hỡi ai xây dựng nên non nước này
Chùa là cái gì gần nhất với tâm thức người
dân cho nên biểu tượng đó sẽ khiến cho người ta vin vào để nói những cái gì
người ta muốn nói. Nhưng đó là nói về người ở chùa mà không phải là nói về chùa.
Câu sau đây mới thực sự nói về chùa:
- Rủ nhau xuống bể mò cua,
Lên non bẻ củi, vào chùa nghe kinh.
Xuống bể mò cua, lên non bẻ củi là nói dân
ta gắn liền với non, với nước và đồng thời cũng gắn liền với chùa. Gắn liền với
non với nước là để nuôn sống thân. Gắn liền với chùa là để nuôi sống tinh thần:
Ðến chùa nghe kinh.
Trong thơ văn Việt Nam hiện đại, có một
nhà thơ cũng có bài thơ diễn
tả cảnh chùa rất thấu tình đạt ý, thâm thú vô
cùng:
“Quê tôi có gió bốn mùa,
Có trăng giữa tháng có chùa quanh năm.
Chuông hôm gió sớm trăng Rằm,
Chỉ thanh đạm thế âm thầm thế thôi.
Mai này tôi bỏ quê tôi,
Bỏ trăng bỏ gió chao ôi bỏ chùa”.
Nhà thơ trên đây đã nói lên cái tâm tình
của người dân Việt Nam chúng ta đối với chùa. Chùa là cái hồn của dân tộc, vừa
thân thương gần gũi, vừa tình cảm sâu lắng, dàn trải trong lòng mọi người như
máu với thịt, như hơi thở và bữa ăn hàng ngày . Vì thế khi Phật giáo truyền vào
nước ta thì liền được mọi người dân chấp nhận và chùa càng trở nên yêu dấu hơn:
“Làng tôi nhỏ bé xinh xinh,
Chung quanh có lũy tre xanh rườm rà,
Trong làng san sát nóc nhà,
Ðình làng lọp ngói có vài cây cau,
Chùa làng rêu phủ mái nâu
Dân làng thờ cúng để cầu bình an”.
(Ca dao Việt Nam)
Chùa còn là nơi dạy thuật làm người, thuật
luyện tâm : Nhất thiết duy tâm tạo.
Ngày xưa có một nhà hiền triết tên là
Socrate thời cồ Hy Lạp. Một hôm đi trên đường ở thành A-ten thấy một chàng thanh
niên đi ngược chiều trở lại, chàng ta đang hân hoan tự mãn với cái mũ, vớỉ bộ áo
quần, với đôi giày mới bảnh bao của mình, nhà hiền triết lấy gậy chặn lại. Khi
bị chặn lại, chàng thanh niên trong lòng đầy tự mãn hỏi rằng:
- Ông muốn mua cái mũ này sao?
- Không, tôi không muốn mua mũ.
- Hay là ông muốn mua bộ áo quần này?
- Không, tôi cũng không muốn mua bộ áo quần.
- Hay ông ưa mua đôi giày này?
- Không, tôi cũng chẳng muốn đôi giày.
- Vậy thì ông muốn gì mà chặn tôi lạí?
- Tôi muốn anh chỉ cho tôi chỗ nào dạy cách
học làm người?
Nếu như mất tư cách làm người, thì cái mũ
đó không thể gọi cái mũ đội trên đầu người! Cái áo đó cũng không phải là cái áo
mặc vào người và đôi giày kia cũng chẳng phải giày để đi vào người. Cho nên phải
học cách làm người cho ra người mới là cách cơ bản cho tất cả mọi thứ. Khi cách
làm người còn thì mọi sự tốt đẹp còn, khi cách làm người không còn thì mọi sự
tốt đẹp chỉ là sự tốt đẹp bên ngoài.
Do đó, chuyện làm chùa chúng ta phải ý
thức rõ ràng là làm thế nào để sự đi chùa và ngôi chùa đó luôn luôn ấp ủ lòng từ
bi, yêu thương, và ngôi chùa là nơi phát huy được trí tuệ sáng suốt, gilúp ích
cho đời sống của chúng sinh, của mọi người mỗi ngày mỗi thăng hoa, mỗi ngày mỗi
xa dần chỗ chỗ tối tăm đau khổ mà bước lên cảnh an lạc giải thoát. Làm chùa như
thế tức nhiên ai cũng đồng tình hết, và tôi tin chắc rằng ngôi chùa như thế sẽ
là nơi luôn có những hàng Phật tử, những bậc cao quí, thành phần trí thức đến
chùa để học hỏi tiến tu. Cũng như trước đây trong thời Bắc thuộc, các ngôi chùa
của chúng ta chính là nơi đào tạo nhân tài cho đất nước. Thời kỳ Bắc thuộc, nước
ta chưa có sự học, đến triều đạl nhà Lý mới mở khoa thi Tam trường. Vậy thì
trong các thời kỳ ấy, các nhà trí thức của đất nước của chúng ta học ở đâu? Phần
nhiều đều dựa vào chùa. Thành thử ngôi chùa nó đã đóng góp công lao với đất nước
rất lâu xa trong lịch sử, một sự đóng góp thật thật sự, không có một hậu ý gì
khác, nghĩa là muốn hòa mình cùng vinh cùng nhục với đất nước với toàn dân để
xây dựng một đất nước an lành hạnh phúc.
(Bài này đăng trong tuần báo Giác Ngộ
10-10-2001)
Ca Dao đã nêu lên những hình ảnh thân thương đó.
Xin mời vào mục lục
Quê ta
|