Tìm em cho đến La Thành
Hỏi thăm các phố để anh tìm dần
Lên tàu từ ở Thanh Xuân
Tìm hết Tư Sở lại gần Cầu Ô
Tìm em cho đến Bờ Hồ
Hàng Trống, Hàng Bồ anh cũng tìm qua
Lại tìm cho đến nhà ga
Đến đây mới biết rằng là Cửa Nam
Vườn hoa có tượng mẹ đầm
Thấy quân lính tập lấy làm vui thay
Tìm em đã hết mười ngày
Hỏi thăm không thấy em rày nơi nao
Thuê xe vào phố Hàng Đào
Hàng Ngang, Hàng Bạc lại vào Mã Mây
Lên thuyền anh xuống Hồ Tây
Ngẫm xem phong cảnh nước mây rườm tà
Lên tàu lại xuống Gô-đa
Thẳng đường anh xuống Hàng Gà, Bạch Mai
Thuê xe vào phố Hàng Gai
Hàng Bông, Hàng Bạc cũng chẳng ai biết mình
Thực là đôi ngả Sâm Thương
Ước ao thấy khách tỏ tường tới đây
Những là mong nhớ đêm ngày
Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần
Mong cho hoa nở mùa xuân
Để cho khóm trúc mọc gần trỗ lan.
Ơn chàng đã có lòng vì
Ngỏ lời phương tiện muốn bề tóc tơ
Nhân khi em ở lại nhà
Làm nghề canh cửi sớm khuya chuyên cần
Vốn riêng được một vài trăm
Đem đi buôn bán Đồng Xuân chợ này
Buôn hàng vải lụa bấy nay
Nhờ trời vốn lãi độ ngày ba trăm.
Phủ Hoài Đức có làng Tây Mỗ
Đất phì nhiêu dân số cũng đông
Tám trăm tám tám đàn ông
Sáu trăm tám sáu mẫu đồng tốt tươi
Kiểu danh thắng lắm nơi đáng kể
Trước sóng đào sau kế ao sen
Bồ Đề, Cống Hạnh, Cầu Tiên
Đình trên lưng cá nằm nghiêng giữa làng.
Đồng cao thấy miên man gò đống
Làng tròn xoe, đất rộng của nhiều
Bán buôn thịnh nhất nghề thêu
Học hành ai cũng có điều đáng khen.
Tài trai đâu đáng tài trai
Tổ tôm xóc đĩa dông dài cả đêm
Canh trước tướng hãy còn tiền
Canh sau thua hết, ngồi bên lọ hồ
Cái ngoảnh đi, đưa tay thò
Cái ngoảnh lại, giả đò chén say
Còn tiền đánh cái cũng hay
Hết tiền đi ngủ, cũng hay giật mình
Tưởng sự tình, bạc nầy hai sấp
Chẳng ai ngờ, nó lại sấp ba
Bây giờ tướng nghĩ chẳng ra
Áo đem bán hết, trở ra mình trần
Về giữa sân, vạch quần ra bắt rận
Ở trong nhà, vợ giận chẳng cơm
Bực mình, tướng chúi ổ rơm,
Chẳng dám hạch nước, hạch cơm, hạch trầu
Vợ thương chồng ra mầu rét mướt
Đem tiền đi để chuộc áo về
Từ nay tướng mới xin thề
Còn đi đánh bạc, chẳng về chi đây
Quan tướng là quan tướng dai
Tổ tôm xóc đĩa dông dài cả đêm
Canh trước còn khi êm êm
Canh sau thua thiệt ngồi bên lọ hồ
Cái ngoảnh đi thò tay móc lọ
Cái ngoảnh lại chuyện trò tỉnh say
Được thời đàn hát cũng hay
Thua thời đi ngủ lại hay giật mình
(Vè Tổ Tôm, Xóc Đĩa)
Cầu sắt mà bắc ngang sông
Chàng ơi sang tỉnh mà trông chẳng lầm
Hà Nội bắc sang Gia Lâm
Tính cây lô mét độ năm cây tròn
Họa hình Tây bắc ống nhòm
Ngắm đi ngắm lại xem còn cong không
Giở về hội nghị cộng đồng
Đến năm Mậu Tuất khởi công bắc cầu
Mộ phu khắp cả đâu đâu
Xây từ Ái Mộ bắt đầu xây ra
Bắc qua con sông Nhị Hà
Chia khoang làm nhịp, mười ba cột vừa
Lập mưu xây được bây giờ
Chế ra cái chụp để mà bơm lên
Bơm hết nước đến bùn đen
Người chết như rạ vẫn phải len mình vào
Vỡ bơm nước lại chảy vào
Chết thì mặc chết ai nào biết không
Mỗi giờ thuê có một đồng
Xi măng với đá, dây dòng xuống xây
Đóng phà, đóng cột, cắm cây
Xây trên buông xuống thành ngay chân cầu
Bây giờ đục sắt bắc cầu
Cột ngang, cột dọc, đường tàu song song
Bắc từ Dốc Gạch bắc sang
Chính giữa đường sắt làm đường tàu đi
Đôi bên nhịp sắt chữ chi
Bên đi, bên lại chớ hề gặp nhau
Còn hai bên cạnh rìa cầu
Sắt chằng hoa thị đi cầu không kinh
Hai vì đèn máy sáng tinh
Ai đi đến đấy có xinh chăng là
Kẻ đi người lại hằng hà
Mưu kia nào kiệt tính đà cũng thông
Bề khoát tàu chạy bên trong
Khoát vừa ba thước đủ dùng không hơn
Đường ô tô chạy rập rờn
Cũng khoát thước rưỡi đường trơn phẳng lì
Còn đường của An Nam đi
Khoát hơn nửa thước vậy thì tính sao
Bây giờ kể đến bề cao
Cao hơn mười thước ai nào biết không
Làm xong Tây tính tiền công
Lập mưu, lập kế trả công chẳng rành
Chế ra giấy bạc dâu xanh
Trừ tiền giấy bút hết toanh dăm đồng
Tiền công chẳng đáng tiền công
Kẻ còn, người mất mà lòng xót thay!
Hội cầu năm ấy vui vầy
Nhớ ngày hăm mốt tháng hai, công hoàn.
(Vè cầu Doumer)
Đường ra Kẻ Chợ xem voi
Kìa bãi tập trận nhà chòi bắn cung
Bắn con ngựa hồng báo tiền báo hậu
Các quan võ thần mặc áo nậu thắt lưng xanh
Khẩu súng vác vai chân anh quỳ đạp
Anh đánh trận này, anh đuổi trận này giả nợ nhà vua.
Bõ công dãi nắng dầm mưa.
Đường ra Kẻ Chợ xem voi (2)
Voi thì chẳng thấy thấy ngôi nhà lầu
Thấy cô chúa tầu bán gương cùng lược
Mặc áo màu chàm bán thuốc nhân sâm
Cái áo tứ thân là năm gấu tách
Anh gửi thư về nửa trách nửa mong
Trách người làm mối không xong.
Yêu nhau nên phải ra đi
Đi sao tìm thấy cố tri mới đành
Tìm anh tất cả thị thành
Tưởng rằng anh ở Hàng Mành không xa
Chữ tình ta lại gặp ta
Hàng Mành chẳng thấy tìm ra Hàng Hòm
Phố thời bán những mâm son
Duyên kia sao chẳng vuông tròn cùng nhau.
Dạo xem phong cảnh Long Thành
Đủ mùi phường phố, đủ vành núi sông
Nhị Hà quanh bắc sang đông
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này
Nùng Sơn, Long Đỗ đâu đây
Tam Sơn núi đất cao tầy Khán Sơn
Ngọc Sơn nhân tạo bé hơn
Bên hồ Hoàn Kiếm ngay đền Văn Xương
Trúc Bạch, Mã Cảnh nên tường
Xa hồ Bảy Mẫu giáp đường gần nhau
Ngoài đường quai có hồ sâu
Tây Hồ rộng rãi ngay đầu phía tây
Xung quanh bao bọc kín thay
Đất cao thành lũy, cửa xây nên tường
Mười lăm ô đúng đường đường
Yên Ninh, Yên Phụ, Thụy Chương một bề
Tiên Trung, Nghĩa Lập gần kề
Thanh Hà, Ưu Nghĩa dưới là Đông An
Cựu Lâu, Mỹ Lộc, Lương Yên
Thịnh An, Thanh Bảo, Kim Liên, Thịnh Hào
Sở tại là những huyện nào
Thọ Xương, Vĩnh Thuận, phủ Hoài thống kiêm
Thọ tám tổng, Vĩnh có năm
Đồng Xuân, Đông Thọ, Phúc Lâm, mé ngoài
Vĩnh Xương, Thuận Mỹ, An Hòa
Thanh Nhàn tổng cuối giáp tòa Kim Liên
Yên Thành huyện Vĩnh ở bên
Thượng, Trung, Nội, Hạ ngoài miền ô môn
Yên Thành gồm mấy phường thôn
Khán Xuân, Thanh Bảo, Yên Viên gần thành
Trúc An, Lạc Chính, Yên Thành
Yên Trạch, Yên Định, Yên Ninh các làng
An Quang, An Thuận, Châu An
Phúc Lâm giáp giới đi sang tổng này
Ven sông một dải đất dài
Phúc Lâm, Nghĩa Dũng đến vài thôn Nguyên
Trừng Thanh thượng, hạ trung liền
Ngũ Hầu, Sài Thúc, Hạ tên Kiếm Hồ
Hương Nghĩa, Mỹ Lộc, Vọng Hà
Tây Long, Hữu Thị giáp là Bảo Linh
Thanh An, Bến Cổ, Trừng Thanh
Trang Lâu, Cơ Xá, đất dành phù sa
Thanh Nhàn liên tiếp không xa
Tổng này tám xóm, một là Lương Yên
Lãng Yên, Cẩm Hội, Hương Viên
Hàm Khánh, Vọng Đức, Tràng Tiền thẳng trông
Thanh Nhàn với xóm Lạc Trung
Kim Liên bên cạnh, tổng trong xóm ngoài
Mười lăm thôn trại rộng dài
Quỳnh lôi, Trung Tự, Bạch Mai, Cầu Giền
Phúc Lâm, Đông Tác, Kim Liên
Vân Hồ, Yên Nhất, Thịnh Yên, Giáo Phường
Hòa Mã, Phục Cổ cùng đường
Vũ Thạch, Hồi Mỹ hỏi đường Đông Tân
Quá lên mười một thôn dân
Hạ Hào đến tổng dần dần cửa tây
Xã Đàn, Trung Phụng cả đây
Nối Thổ Quan nữa một dây vòng tròn
An Hòa nguồn nước sông con
Văn Hương, Thanh Miến giữa nom Hồ Đình
Văn Tân, Lương Sử, thôn Minh
Giám thôn bên hữu, cống sinh đi về
Vĩnh Xương nay đất Tràng Thi
Mười lăm thôn kế trước thì Vĩnh Xương
Linh Quang, An Tập, Thuyền Quang
Bích Lưu, Linh Đổng, Liên Đàng, Nam Ngư
An Trung, Thượng, Hạ dân cư
Bắc Thượng, Bắc Hạ vốn như một phường.
Tiên Mỹ, Phụ Khánh gần trường
Đông Mỹ, Mỹ Đức lại đường bên trên
Tổng Thuận Mỹ ở ngay liền
Hăm hai thôn với phường bên cho rành
Chớ nhầm An Nội Đông Thành.
Cổ Vũ An Nội phận đành đôi nơi
Phường Đồng Lạc, phường Đại Lời
Cách xa thôn chợ Tân Khai mới dừng
Đông Môn, Nhân Nội phỏng chừng
Hội Vũ, Bảo Khánh, Chân Cầm bên kia
Phúc Tô, Kim Cổ đó kìa
Báo Thiên, Tự Tháp tới vừa chợ Tiên
An Thái, Thuận Mỹ, Xuân Yên
Tô Tịch, Khánh Thụy cách bên Đông Hà
Phường thôn Đông Thọ mười ba
Cựu Lâu, Hương Dính, Thanh Hà mé sông
Nam Phố, Ưu Nghĩa cùng thông
Gia Ngư, Nhiễm Thượng, An Trung độ chừng
Đông An, Dũng Thọ, Duyên Hưng
Còn thôn Ngư Võng sau lưng phường Hà
Đến đây rồi lại rẽ ra
Qua Hương Bài đến tổng là Đồng Xuân
Đoài Môn, An Phú gần gần
Sang sông Tô ấy là phần Cổ Lương
Thanh Hà thôn, Đông Hà phường
Tiền Trung, Nghĩa Lập về đường bờ sông
Huyền Thiên, Đồng Thuận bên trong
Vĩnh Trù liền với Phương Trung, Phủ Từ
Thôn phường mười bốn hết chưa
Vĩnh Hanh phường nữa còn chừa Đồng Xuân
Ngoài ô những tổng vân vân
Sáu phường Trung Tổng, Bái Ân, Trích Sài
Thụy Chương, Hồ Khẩu dọc dài
Võng Thị, Yên Thái vừa đầy tổng Trung
Tổng Hạ có phường Nhược Công
Thịnh Hào với trại Nam Đồng thứ ba
Khương Thượng, Yên Lãng nữa mà
Thịnh Quang trại ấy kể đà sáu dân
Tổng Nội chín trại chớ nhầm
Liễu Giai, Giảng Vũ tiếp gần Đại An
Thủ Lệ, Cỗng Vị là năm
Hữu Tiệp, Vạn Bảo, Cống An, Ngọc Hà
Bẩy phường, tổng Thượng nào xa
Nghi Tàm, Yên Phụ, Nhị Hà neo lên
Nhật Tên, Quảng Bá ở trên
Thạch Khối, Giai Cảnh cùng bên Tây Hồ
Long Thành thật xứng cố đô
Kim âu chẳng mẻ, cơ đồ bền lâu.
Mấy ông quan huyện Thanh Trì
Khéo khôn: mỡ lấy, xương bì ông không
Lỗ lãi ông đắn sâu nông
Được lời ông lấy, lỗ không thèm nhìn
Kiện cáo vài lạng làm tin
Của cải ông vét ông tìm ở đâu…
Bao giờ lở núi Tản Viên
Cạn sông Tô Lịch cho quên nghĩa nàng
Thung dung từ thuở thanh nhàn
Mực nghiên giấy bút ta bàn khúc nhôi
Phen này anh quyết lấy nàng thôi
Em tránh đằng trời chẳng khỏi tay anh.
Nói ra mang tiếng dỗ dành
Mặc ý nàng liệu, mặc tình nàng lo
Yêu nhau nên phải dặn dò.
Em là con gái Kẻ Mơ
Em đi bán rượu tình cờ gặp anh
Rượu ngon chẳng quản be sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
Rượu lạt uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm hết hay hóa nhàm.(*)
Em là con gái Kẻ Ngâu
Em đi buôn chỉ dãi dầu sớm hôm
Cái khăn vuông thâm nửa đội, nửa cầm
Khăn đội rơi mất, khăn thân lập lờ
Anh ơi nhặt giúp em nhờ
Công anh nhặt giúp bao giờ cho quên
Anh quên, em chẳng cho quên
Anh nhớ, em nhớ mới nên vợ chồng.
Bất kỳ sớm tối chiều trưa
Mưa khắp Hà Nội mưa ra Hải Phòng
Hạt mưa vừa mát vừa trong
Mưa xuống sông Hồng, mưa khắp mọi nơi
Hạt mưa chính ở trên trời
Mưa xuống Hà Nội là nơi cõi trần
Giêng hai lác đác mưa xuân
Hây hẩy mưa bụi, dần dần mưa sa
Hạt mưa vào giếng Ngọc Hà
Hạt thì vào nhị bông hoa mới trồi
Tháng năm, tháng sáu mưa mòi
Bước sang tháng bẩy sụt sùi mưa Ngâu
Thương thay cho vợ chồng Ngâu
Mỗi năm chỉ gặp mặt nhau một lần
Tháng tám mưa khắp xa gần
Bước sang tháng chín đúng tuần mưa rươi
Tháng mười mưa ít đi rồi
Nắng hanh trời biếc cho tươi má hồng
Một, chạp là tiết mùa đông
Mưa phùn đêm vắng trong lòng lạnh thay
Bài mưa anh đã họa đầy
Mối tình dào dạt đêm chày như mưa.
Ngồi vui kể chuyện quê nhà
Rau tươi quả ngọt đồng ta ngoại thành
Làng Đăm cải biếc màu xanh
Làng Hàn cà bát trĩu cành sum sê
Rau thơm đất Láng quen nghề
Hành tươi Mai Động, Yên Khê đầy đồng
Bắp cải Phù Dực sớm trồng
Yên Mỹ nổi tiếng cà hồng xưa nay
Yên Viên có món măng tây
Lại thêm cải tiếu ngọt thay hỡi mình!
Nhất cay là giống ớt Đình
Nhất thơm là mướp làng Quỳnh, làng Mai
Su hào Quảng Bá hơn ai
Hoa lơ Phú Diễn chen vai trắng ngà
Cải canh mát bãi Duyên Hà
Đông Dư cải nén mặn mà hương quê
Nhật Tân cải trắng ven đê
Muốn thăm cải củ thì về Lĩnh Nam
Tỏi tây, xà lách Xã Đàn
Đạu trạch, đậu vàng, đậu đũa Vĩnh Tuy
Muống non xơ mới Thanh Trì
Rau cần làng Sét xanh rì bờ sông
Bí xanh, bí đỏ đầy đồng
Cổ Loa, Tầm Xá, Nam Hồng chứ đâu
Khoai tây mời tới làng Ngâu
Thôn Quang dưa chuột giữ mầu quê hương.
Vùng rau đã kể tỏ tường
Bây giờ đất quả đưa đường vào thăm
Cam Canh, bưởi Cáo, vải Bằng
Tiếng đồn xưa vẫn còn vang quê nhà,
Chuối Giang Biên, chuối Trung Hà
Sông Hồng, sông Đuống phù sa đắp bồi
Cổ Loa mít chín thơm trời
Thành tiên lại có trám bùi trên cây
Song mai Đông Mỹ quý thay
Rừng dừa Hải Bối khen tay người trồng.
Thôn Văn ngọt nước nhãn lồng
Trưa hè Hoàng Liệt, Bắc Hồng xem dưa
Bưởi đường Vạn Phúc tìm mua
Vườn chanh Trung Phụng hoa đua trắng cành
Tây Hồ quất đỏ trời xanh
Mễ Trì chín mọng cam sành làm duyên
Xuân Đỉnh tốt giống hồng xiêm
Dâu tây ở Dịch Vọng Tiền mình ơi
Nghi Tàm lắm táo, nhiều roi
ổi ngon Quảng Bá, Quỳnh Lôi mời vào
Trung Hà đã quý chanh đào
Lại sai đu đủ ngọt ngào quê ta
Mấy vần chắp nhặt nôm na
Hoa thơm quả ngọt ai mà chẳng yêu.
Mình về ươm hạt cho nhiều
Chiết cành gây giống, sớm chiều ta sang
Trồng cây cho rợp đường làng
Xe rau chạy giữa hai hàng cây xanh
Rau tươi, quả ngọt ngoại thành
Bốn mùa xanh bãi, đỏ cành quê hương.
Gia Lâm có đất Cổ Bi
Muôn đời cảnh đẹp còn ghi rành rành
Chín mươi chín núi chung quanh
Ở giữa hồ tả, bên thành hồ sen
Cửa tả, cửa hữu, cửa tiền
Ngũ Hồ, Tam Đảo ở trên Trầu Quỳ
Cầu Lòn đường cái quan đi
Hậu miếu, hậu phủ còn ghi rõ truyền
Này điện Cần Chánh, Kính Thiên
Voi đá, sấu đá hai bên sân rồng
Lại thêm hổ đá ngự phòng
Đủ nền dinh thự khắp trong nội thành
Tương truyền đây đất đế kinh
Bao nhiêu cảnh đẹp lừng danh trong ngoài.
Giáo gươm cờ quạt tưng bừng
Nhác trông uy vũ tưởng chừng năm xưa
Anh hùng trí dũng có thừa
Sử vàng bia đá bây giờ là đây
Non xanh nước biếc sánh tày
Danh thơm Phù Đổng xưa nay tiếng truyền.
Xưa kia mộc mạc mao từ
Nay thời ngói lợp chu vi trang hoàng
Xưa kia tre trúc tầm thường
Nay thời tứ thiết vững vàng biết bao
Bát Tràng có mái đình cong.
Bực mình lên tận thiên cung (2)
Bắt ông nguyệt lão hỏi thăm vài lời
Nỡ lòng trêu ghẹo chi tôi
Lênh đênh bèo nổi mây trôi một thì
Biết người biết mặt nhau chi
Để đêm em tưởng ngày thì em mơ
Bắc Ninh cho đến Phủ Từ
Qua cầu sông Nhị ngẩn ngơ tìm người
Tìm người chẳng biết mấy nơi
Tìm ba mươi sáu phố thấy người ở đây.
Cô kia đội nón đi đâu (2)
Có về An Phú làm dâu thì về
An Phú có ruộng tứ bề
Có ao tắm mát có nghề kẹo nha
Làm nha bán lẻ, bán buôn
Bán khắp Hà Nội bán sang Hải Phòng
Bán cho chú khách cửa Đông
Làm ra kẹo lạc, kẹo hồng, kẹo tây.
Nhật trình từ Ráy đến ô
Bây giờ ta kể duyên do các làng
Tứ Kỷ đó rõ ràng
Trông lên lại thấy một làng Pháp Vân
Trông xa rồi lại trông gần
Đại Từ trước mặt, sau lưng Linh Đường
Vang lừng chợ Sét một bên
Qua cầu lại thấy bên trên có chùa
Kẻ đi người lại như đua
Kẻ đi ghé nón, người vô cúi đầu
Nhác trông làng Tám càng màu
Thiên thanh con lục, địa đầu Tam Giang.
Đêm qua mưa bụi gió bay
Gió rung cành trúc, gió lay cành bàng
Em với anh cùng tổng khác làng
Nào em có biết ngõ chàng là đâu
Một thương, hai nhớ, ba sầu
Cơm ăn chẳng được ăn trầu ngậm hơi
Thương chàng lắm lắm chàng ơi
Biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than
Muốn than mà chẳng gặp chàng
Kìa như đá đổ bên ngàn Hồ Tây
Đá đổ còn có khi đầy
Thương chàng biết thủa nào khuây hỡi chàng.
Làng Mọc mở hội tháng hai
Rước hôm mười một, mười hai rõ ràng
Nhất vui mở hội năm làng
Để cho thiên hạ phố phường vào xem.
Nào là hương án, long đình
Phường bồng, phường trống rập rình theo sau…
Tàn vàng quạt vá sánh bầy
Đuôi nheo phấp phới, cờ bay hằng hà.
Làng Mui thì bán củi đồng
Nam Dư mía mật giầu lòng ăn chơi
Thanh Trì buôn bán mọi nơi
Đồng Nhân, Thúy ái là nơi chăn tằm
Làng Mơ thì bán rượu tăm
Sở Lờ cua ốc quanh năm đủ đời.
Làng tôi công nghệ đâu bằng
Là làng Triều Khúc ở gần Thanh Xuân
Quai thao tết khéo vô ngần
Là nghề của Vũ sứ thần dạy cho
Tóc rối, lông vịt, mã cò
Bán ra ngoại quốc cũng to mối lời
Khăn san kiểu lối tân thời
Tua cờ nhà đạo, nhà binh
Bán ra Hà Nội, Huế, Vinh, Sài Gòn
Chân chỉ hạt bột y môn
Chỉ tơ, chỉ gốc, lại còn chỉ thêu
Dây đàn, dây rút thật nhiều
Chỉ quả chữ thọ có điều tinh thông
Khéo thay những dải kim tòng
Được bằng thưởng nhất Hà Đông bảo tàng
Phu-la, tơ lụa, đăng ten,
Tiêu thụ các xứ bán buôn thật nhiều
Buồng chơi dùng đệm lông cừu
Hỏi thăm Triều Khúc có nhiều tài hoa
Thắng đai ngựa, chổi lông gà
Thắt lưng, khăn mặt người ta thường dùng
Len đan mũ trẻ ít công
“Tích-cô” dệt máy dùng trong mùa hè
Hoa bằng lông vịt mới kỳ
Giỏ đựng ấm tích bằng tre khéo làm
Nghề kẹo mạ, thợ kim hoàn
Nghề nào cũng giỏi khôn ngoan ai tày
Quai túi dết, sợi giày tây
Vẽ tranh sơn thủy dùng bày phòng chơi
Hơn ba mươi nghệ tân thời
Sĩ, nông, công, cổ mọi người đều hay
Nghề nào cũng khéo chân tay
Nhất thân vinh hiển buổi này cạnh tranh
Đơ thao Triều Khúc rành rành
Tiếng khen công nghệ nổi danh Bắc Kỳ.
Rau Lĩnh Nam nấu suông mà ngọt
Bưng bát cơm đơm một muốn hai
Trưa nay vừa bức vừa oi
Hái nhanh cho kịp gửi nơi trận tiền
Cà muối xổi, rau dền, cải trắng
Tuy đơn sơ nhưng thắm tình dân
Sớm chiều em tưới em chăm
Cho rau mượt lá, anh ăn mát lòng
Anh giữ súng phòng không vững chắc
Em trồng rau xanh ngắt trên đồng
Rau tiếp luống, đạn lên nòng
Giặc nào thoát khỏi trong vòng tay ta.
Sông Tô mấy khúc uốn vào
Ấy là có lắm anh hào ở trong
Sông Tô một dải lượn vòng
Ấy nơi liệt nữ anh hùng giáng sinh
Sông Hồng một khúc uốn quanh
Văn nhân tài tử lừng danh trong ngoài.
Trên trời có sông Ngân Hà
Tỉnh Nam sông cái, Bắc là sông sâu
Bắc Ninh lại có sông Cầu
Anh còn tơ tưởng sông Dâu, sông Đào
Anh còn tơ tưởng sông Thao
Qua sông Hà Nội anh vào Kinh đô
Đại Đồng lại có sông Hồ
Bước qua sông Đuống thờ ơ với tình
Sông Thương chơi đã thập thành
Bước qua sông Cái bẻ cành phù dung.
Trời mưa róc rách bãi cây
Cá rô rạch ngược cá ngày lên hương
Đừng thấy chúng bạn coi thường
Dân đất Hàn Lạc chẳng phường ăn chơi
Thông manh đứng lại mà coi
Kìa như châu chấu đá voi gãy ngà.
Trăm năm nơi đất phù sa
Lấy gì mà được vinh hoa bằng người
Bực mình chẳng được ăn chơi
Trăm năm vẫn chịu là người lầm than
Chị đây vốn thực đất Hàn
Quanh năm có được vinh hàn gì đâu.