Ngó lên Đất Đỏ nhiều bắp, nhiều khoai
Ngó xuống Đồng Dài nhiều mía, nhiều tranh.
Ngó vô Đồng Cọ nhiều lúa bạch canh, áo già.
Mỹ Phong, Mỹ Thuận, Mỹ Hòa,
Phú Điền, Phú Cốc thiệt là nhiều cau.
Anh về ở ngoải chi lâu,
Chiều chiều em đứng hàng dâu ngó chừng.
Hai hàng nước mắt rưng rưng
Chàng xa thiếp cách, dậm chưn kêu trời
Vắn hơi kêu khổng tới trời
Nghĩa ra đằng nghĩa, duyên rời đằng duyên
Chiều chiều ra đứng ngõ sau (7)
Hai tay xuôi xị như tàu chuối te.
Tiếc công anh vun bón cây mè
Mè chưa ra lá con chim què đậu lên
Hồi nào chàng xuống thiếp lên
Mòn đàng chết cỏ, không nên tại trời
Tưởng là kèo cột ở đời
Hay đâu cột rả, kèo rời hai phương
Hồi nào thiếp nói thiếp thương
Tưởng như trầm để trong rương chắc rồi
Bây giờ thiếp nói thiếp thôi
Rương kia mở nắp bay hơi mùi trầm
Em nghe lời ai quăng lược ném trâm
Ai bày cho bạn hoang dâm dứt tình
Con ơi muốn nên thân người
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha
Gái thì giữ việc trong nhà
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa
Trai thì đọc sách ngâm thơ
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa
Mai sau nối được nghiệp nhà
Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân
Kìa ai tiếng khóc nỉ non
Ấy vợ lính mới trèo hòn đèo ngang
Chém cha cái giặc chết hoang
Làm cho thiếp phải gánh lương theo chồng
Gánh từng xứ Bắc xứ đông
Đã gánh theo chồng lại gánh theo con
Lịch Sử,Phương Ngữ,Quê Hương, Đất Nước, Quân Sự, Núi Non
Ba đồn ở đất Châu Ô
Một đoàn vợ lính trãy vô thăm chồng
Gặp trộ mưa giông, Đàng trơn gánh nặng
Mặt trời đã lặn, Ðèo Ngang chưa trèo
Khớp hòn đá cheo leo, Chân trèo chân trợt
Gặp o gánh ló, Chộ chú chăn tâu
Ba Ðồn quan lính ở mô ?
Vè con gái (2)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè con gái
Vừa ăn vừa đái
Vừa địt vừa ho
Lỗ mũi thò lò
Lấy tay mà quẹt
Nấu cơm khét lẹt
Kho cá khét ngầm
Ban đêm đái dầm
Ban ngày ỉa trịn
(Vè Con Gái)
Vai mang xấp vải trong mo
Đi chưa tới chợ đã lo ăn hàng
Bánh in cùng những bánh bàng
Bánh bò bông, bánh ít trần, ngon thay.
Mít nghệ múi bằng cổ tay
Bánh đúc chấm mật, bánh gai, bánh bèo
Muốn ăn đừng có lo nghèo
Tiền tui trong túi đem theo đủ dùng,
Ăn một bụng ba mươi đồng
Mua mấy thứ để cho chồng tui đây
Vừa mới tới vuông đất cày
Ngồi dưới gốc cầy lật nón ra ăn
Làm vầy dạ cũng băn khoăn
Vì chưng lỗ miệng muốn ăn không chừng
(Vè Ăn Hàng)
Thương thay, hỡi các chú ơi
Ăn uống đã rồi thầy kể một văn:
Quý Tỵ giữa ngày mồng năm,
Giờ Dần chính nguyệt ầm ầm huyên hoa
Một chi đánh ở Đống Đa
Cầu Duệ kéo đến tốt xa muôn phần
Phép voi bại trận tiên phong
Cầu nhương sụt cả xuống sông Bồ Đề
Đao binh tử trận đầy khe
Dọc đường gài gác nằm kề ngăn ngăn
Chú sang cứu viện nước Nam
Chẳng may gặp phải suối vàng thương thay
Chú thì thắt cổ trên cây
Chú thì tự vẫn ở ngay trong nhà
Chú thì thác xuống Diêm La
Chú nào còn sống về nhà đại minh
Ai ai là chẳng đeo tình
Di Đà tiếp dẫn chúng sinh cô hồn
Chú nào có vợ có con
Có cha có mẹ hãy còn giỗ chung
Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông
Nam Kinh, Quảng Bắc có lòng sang đây
Trời làm một trận gió lay,
Sống làm tướng mãnh, thác rày thần linh
Phù hộ tín chủ bình an
Cửa nhà phú túc vững bền cao xây
Mạo chiên nón khách móng giầy,
Đuôi sam hảo tố chú rày cần lo
Chú thiêng nao đấy phụng thờ
Kính quan tôn sứ để nhờ hậu lai
Nhớ xưa chú vác lăng bài
Cung đao tay nỏ, đầu cài nón chiên
Tay vòng bạc, cổ đeo tiền
Cờ mao một ngọn xông tên chiến trường
Điền Châu Thái thú đảm đương
Liều mình tử trận chiến trường nên công
Trận vây ở trong Năm Đồng
Rạng ngày mồng sáu cờ dong lai hàng
Còn ông Tổng Đốc ban sang
Quyết liều một trận chiến trường ba quân
Muốn cho được chữ ái ân
Tuyền quyền vai gánh trung cần đế vương
Vua sai bộ sứ tiếp sang
Quan tài phong kín đón đường kéo ra
Con con cháu cháu hằng hà
Mừng lấy được xác Điền Châu đem về
Tướng tài can đảm cũng ghê
Làm đền phụng sự tức thì Đống Đa
Các chú thác xuống Diêm La
Bắc Nam đôi ngả trẻ già cùng thương
Cơm dày áo nặng nhà vương
Bõ công gối đất nằm sương bao đành
Thác ở chiến trận nên danh
Về thời vua giết chẳng lành được đâu
Chú thì thác ở đầu cầu
Chú thì tự vẫn đâm đầu xuống ao
Ai ai trông thấy thương sao
Lập đàn chẩn tế mà kêu cô hồn
Gọi là mảnh áo thoi vàng
Ít nhiều làm của ăn đường sính thiên
Khuông phù tín chủ bình an
Gái trai già trẻ thiên niên thọ trường.
(Vè Thiên triều văn)
Thân tôi coi vịt cực khổ vô hồi
Sáng ra ngồi trông trời mau xế như chúa trông hiền thần
Hai cẳng lần lần như Địch Thanh thắng trận
Quần áo chưa kịp bận như Tào Tháo bị vây
Tay cầm cái cây như Tề Thiên cầm thiết bảng
Vịt chạy qua bờ
Ngăn đón cản như Tiết Nhơn Quý rượt Cáp Tô Văn
Quần bận còn xăn như Uất Trì tắm ngựa
Vịt ăn
Ngồi dựa bóng tùng như Tần Thúc Bảo lúc bệnh đau
Vịt chạy
Đuổi lao xao như La Thông tảo Bắc
Tối về nhà đèn chưa tắt
Như đãi yến công nương
Ngày ra tới đứng ngoài đường,
Chiều về như Phàn Lê Huê nhập trại.
(Vè chăn vịt )
Con gái làng Sấu
Hay cấu hay cào
Cấu ra bờ rào
Cấu vào chuồng lợn
Nào ai có tợn
Lấy gái làng này?
Nó vác cả cày
Ra đồng nó cấu
Nó vác cả đấu
Ra đồng nó đong
Nó vác cả nong
Ra đồng nó quạt
Nó vác cả tháp
Ra đồng nó xây
Nó gói cả mây
Bỏ trong giỏ nó
Nó thắt khăn đỏ
Nó múa gươm thần …
(Vè con gái làng Sấu)
Chợ Lường họp lại vui thay
Đàng đông lúa gạo, đàng tây tru bò
Xã đã khéo lo
Lập lều hai dãy
Hàng sồi hàng vải
Thì kéo lên đình
Hàng xén xung quanh
Hàng thịt hàng lòng ở giữa
Ngong vô trửa chợ
Chộ thị với hồng
Dòm ngang xuống sông
Chộ thuyền với lái
Ngong sang bên phải
Chộ những vịt gà
Hàng nhãn, hàng na
Hàng trầu, hàng mấu
Hàng ngô, hàng đậu
Hàng mít, hàng cà
Hàng bánh, hàng quà
Hàng chi có cả
Rồi nào hàng cá
Hàng bưởi, hàng bòng …
(Vè chợ Lường)
Lẳng lặng mà nghe
Cài vè học vụ
Đồng bào mù chữ
Ở khắp mọi nơi
Chiếm chín phần mười
Toàn dân đất Việt
Muôn bề chịu thiệt
Chịu đui, chịu điếc
Đời sống vùi dập
Trong vòng nô lệ
Hơi đâu mà kể
Những sự đã qua
Chính phủ Cộng hòa
Ngày nay khác hẳn
Đêm ngày lo lắng
Đến việc học hành
Mấy triệu dân lành
Còn đương tăm tối
Bị đời hất hủi
Khổ nhục đáng thương
Ngơ ngác trên đường
Như mù không thấy
Những điều như vậy
Không thể bỏ qua …
(Vè bình dân học vụ)
Chồng chung khó lắm ai ơi!
Ai bước chân vô đó,
Không ăn ngồi được mô!
Quyền bán với quyền mua
Thời là em không có,
Đâm gạo với xay ló,
Thời là em đã có phần,
Đập đất với khiêng phân,
Đâm xay, rồi nấu nướng.
…
Gẫm như bọn người ở,
Chỉ sáu tháng thời thôi,
Cái thân em ở đời,
Hỏi làm sao chịu được?
Chồng sai đi múc nước,
Vợ bảo lấy que tăm.
Trải chiếu toan đi nằm,
Đọi dì hai chưa rửa
Có ba bốn thúng lúa,
Chị chồng đầu chân xay.
Cám em bắc lên đây,
Cây rau riu chưa cắt,
Ngọn rau riu chưa xắt.
Em làm công việc vặt,
Vừa đến tối canh ba,
Em vừa ngả mình ra,
Con chim kia vừa kêu,
Con gà rừng vừa gáy.
Chồng đánh em thức dậy,
Biểu nấu cơm đi cày;
Gạo em chưa đâm xay,
Đã soạn gánh gồng cho bà đi chợ.
Một tháng sáu phiên chợ,
Bà cho đi một phiên,
Bà trao cho một tiền,
Bà truyền cho đủ giống,
Mua mười đồng thì trứng,
Lại mua mười đồng trầu,
Mua mười tám đồng cau,
Hai mươi đồng thì mỡ,
Lựa còn một chữ,
Tráo lại hàng vôi
Mua đoạn, bán rồi
Vừa hầu tan buổi chợ
Về đến đầu ngõ,
Con đòi: “Bánh mẹ mô?”
– Được chồng riêng tê tồ
Chồng chung, mẹ nỏ dám mua thứ gì!
(Vè chồng chung)
Vè chữ phu
Chữ phu là dại
Tơ hồng dán lại
Nên điệu vợ chồng
Đụng con gái hung
Lang dâm trắc nết
Mình làm chí chết
Nó duỗi cẳng nó ăn
Sắm áo sắm khăn
Sắm vòng sắm niểng
Mình nói một tiếng
Nó nói lại mười
Mình làm cả đời
Nó tiêu một lát
Nó mê chốn khác
Nó bỏ nó đi
Mình nói nó săn si
Chữ phu là dại
(Vè chữ phu)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè cờ bạc
Đầu hôm xao xác
Bạc tốt như tiên
Đêm khuya hết tiền
Bạc như chim cú.
Cái đầu sù sụ
Con mắt trõm lơ
Hình đi phất phơ
Như con chó đói
Chân đi cà khói
Dạo xóm dạo làng
Quần rách lang thang
Lấy tay mà túm…
(Vè cờ bạc)
Bạn hẹn với ta mùng bốn tháng giêng (4)
Trông hoài không thấy bạn hiền vãng lai
Bạn hẹn với ta mùng bốn tháng hai
Tiết xuân con én đưa thoi đã rồi
Tháng ba, tháng tư ta không thấy bạn thời thôi
Chim kêu thỏ thẻ trước nơi sân hòe
Tháng năm, tháng sáu ta chẳng thấy nhắn nhe
Chim kêu nhỏ nhẻ, mùa hè sang thu
Chim kêu, vượn hú, cu gù
Cây khô lá rụng, mịt mù tang thương
Tháng bảy, tháng tám, tháng chín mưa trường
Đến khi ta nhắn gửi, hết lời ta lại qua
Tháng mười, tháng mười một, nước chảy mưa sa
Đương khi tiết lạnh bạn với ta xa vời
Còn mình tháng chạp bạn ơi
Niên tàn nguyệt tận, bạn phải tính cho rồi mưu chi?
Về nhà ngửa bàn tay tính lại đính đi
Tháng thời mười hai tháng, mùa y bốn mùa
Chuỗi sầu ai khéo thêu thùa
Đớn đau dạ ngọc, xót chua gan vàng!
– Bớ em ơi, một năm mười hai tháng, một tháng ba mươi ngày
Mắc lo canh cửi, hết ngày tháng giêng
Tháng hai khoai sắn liên thiên
Ta cam tâm nhớ bạn, còn phiền về tháng ba
Tháng ba anh mắc dọn dẹp việc nhà
Lo gặt lo hái nên không qua thăm nường
Tháng tư mắc lo việc lí hương
Mắc lo tạ tế, chay trường, công ngân
Tháng năm anh lo việc trăm phần
Lo sạ, lo cấy, gánh phân, đi cày
Tháng sáu anh nghĩ đã thậm gay
Mắc lo dựng xe đạp nước, không ngày nào ở không
Tháng bảy thiên não địa nùng
Ngày cơ tháng thiết, anh sợ em bậu có chồng chứ phải chơi!
Tháng tám ngó bộ thảnh thơi
Cha mẹ nhà trói buộc không cho anh đi, anh phiền
Tháng chín nước chảy khỏa biên
Mưa to gió lớn, anh sợ chiếc thuyền không bơi
Tháng mười chân rảnh tay rời
Đêm nằm nhớ bạn, ngày thời trông mong
Tháng mười một hết ngõ hết đường
Anh đau liệt giường, ới hỡi thuyền quyên!
Tháng chạp ngày tổ ngày tiên
Mắc lo dẫy mả tổ tiên cho rồi
Một năm mười hai tháng, em bậu ơi
Mong có ngày rảnh, để em bậu ngồi trách qua!
Sáo sậu là cậu sáo đen
Sáo đen là em sáo đá
Sáo đá là má bồ nông
Bồ nông là ông ác là
Ác là là bà tu hú
Tu hú là chú chim ri
Chim ri là dì chim xanh
Chim xanh là anh cò bợ
Cò bợ là vợ thằng Ngô
Thằng Ngô là cô sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen
Tượng nghe:
Nước có nguồn, cây có gốc
Huống chi người có da, có tóc
Mà sao không biết chúa, biết cha?
Huống chi người có nóc có gia
Mà sao không biết trung biết hiếu
Hai vai nặng trĩu
Gánh chi bằng gánh cang thường
Một dạ trung lương
Gồng chi bằng gồng xã tắc
Bớ những người tai mắt
Thử xem loại thú cầm:
Trâu ngựa dòng điếc câm
Còn biết đền ơn cho nhà chủ
Muông gà loài gáy sủa
Còn biết đáp nghĩa lại người nuôi
Huống chi ta:
Chưn đạp đất, đầu đội trời
Ở chi thói sâu dân mọt nước!
Sao chẳng nghĩ sau nghĩ trước
Lại làm thằng nghịch thằng gian
Sao bằng trai trí chúa an bang
Sao bằng trai thừa gia khai quốc
Lẽ phải thời:
Trải gan trung, bồi nghĩa mật
Đền ơn thuở trong bụng mẹ mười tháng sanh ra
Lẽ phải thời:
Vợ thúc chồng, con giục cha
Đền thuở ở đất vua, nắm rau, mớ ốc
Thậm tiếc bấy:
Những tay tham lợi muốn yên mình
Đành để tiếng vong tiên bội tổ
Tai đâu chẳng nghe, mắt đâu chẳng rõ?
Tổ tiên đâu, mồ mả nước nào?
Lòng sao không xót, dạ sao không bào?
Bờ cõi loạn, nhơn dân đổ thán
Mình nước Hớn, mẹ cha nước Hớn
Hỏi chớ nào thảo nào ngay?
Thù Tây rồi lại ở với Tây
Hỏi chớ nào tôi nào chúa?
Bởi mình mảng tham lam tiền của
Để cho Tây bắt vợ giết chồng
Bởi mình tham, ham hố bạc đồng
Để cho Tây lột da khỏ óc
Thân sao không biết nhục?
Vinh vang chi cũng lấy tiếng Tây
Sung sướng khó trọn đời
Cảm thương kẻ nó hành nó hiếp
Xóc tóc cúp đầu
Cám thương người nó móc nó treo
Hành thân hoại thể
Nghĩ thương không xiết kể
Giận nói chẳng hay cùng
Giận những phường bất hiếu bất trung
Thương những kẻ oan con oan vợ
Thương gã chệch đêm nằm không ngủ
Nóng gan son ra lập nghĩa đường
Giận thằng Tây chẳng giữ phong cương
Sống u mê theo tuồng tả đạo
Trách những kẻ lòng muông dạ cáo
Sống hư hèn sửa trấp nưng khăn
Thương những tay bảng quế trung thần
Thủa gan dạ thẻ ngời bia tạc
Làm người sao khỏi thác
Thác trung thần, thác cũng thơm danh
Làm người ai chẳng tham sanh
Lòng địch khái xin cho rỡ tiết
Đêm năm canh thương người chánh liệt
Ngày sáu khắc nhớ kẻ trung trinh
Chốn biên thuỳ lãnh ấn tổng binh
Cờ đề chữ “Bình Tây đại tướng”
Trước trí quân ư Nghiêu Thuấn thượng
Sau vi xã tắc lương thần
Phải cạn lời rao khắp muôn dân
Sửa tấc dạ dìu về một mối
Ai chẳng ra thú trước
Ắt phải luỵ về sau
Bớ trẻ già bé lớn đâu đâu
Kíp bội ám đầu minh tua gắng
Chiếu phụng dầu ta lãnh đặng
Nương lòng trời cứu lũ sanh linh
Phải cạn lời tỏ hết chơn tình
Cho con trẻ dân đen đều biết
Kẻ nào còn vi ngược trợ Kiệt
Mũi thiên oai nhất quyết không dung.
(Vè đánh Tây )
Hán Việt,Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Chính Trị,
Vâng lời troàn ngươn soái
Mình đeo ấn Tổng nhung
Lời khuyên rao chư sĩ anh hùng
Mặt phải trái coi qua thời biết
Mình là con trong đất Việt
Chẳng phải người sanh sản cõi Tây phiên
Mà ham di địch tước quyền
Lại nỡ khiến tấm lòng vô hậu
Chớ bắt chước những loài quân dậu
A dua hùa lưng lớn thờ chồn
Đừng bày theo những đảng ác côn
Ngưỡng mặt dọc mượn hơi lũ cáo
Người Nam bang hữu đạo
Chúa minh quân ơn đức đã trôi dầm
Hai mươi năm trường trị cửu yên
Dành dụm nghiệp Nam triều ba mươi tỉnh
Ngưỡng xem đức hoá ra ơn Thuấn
Đã lâm nhuần thiên hạ gội nhơn Nghiêu
Rưới khắp cả muôn dân
Bắc Nam cúi mặt xưng thần
Tứ hải cúi đầu cống lễ
Thưởng trăm họ ghe lòng lớn bé
Vua ta đều tha thuế
Cám muôn dân ruộng khô hư phế
Canh điền vua cũng tha phô
Ba năm dư thẩm xét tù đồ
Lai miễn tử xá sanh nhơn chánh
Ấy ví tề thương hải
Còn những người thất thập tuần dư
Ngoài thời yến diên ban, trong lụa vải cũng ban
Còn những người cô độc, với những kẻ bần hàn
Xuất phủ huyện chẩn bần, chẩn tế
Còn năm hung dịch tễ
Vua ta cũng ban ân
Phát tiền tuất thân mai táng
Ớ các làng xã ơi
Bay ngưỡng mặt theo Tây cho đáng
Nỡ lòng nào phản nghịch cho yên tâm?
Mả Nguỵ Khôi sao hỡi còn lầm?
Bài trung nghĩa, miễu công thần, sao bây không tưởng?
Trên đầu có hai bên hai vác
Làm việc chi trời đất cũng hay
Ngửa xem thần còn ở trên vai
Để biên chép người trong dương thế
Tội nào trọng bằng tội phản quân phế đế
Hình nào to bằng hình đứa gian thần
Tiếc của tiền sao chẳng tiếc thân?
Thân danh trọng, của tiền mấy trọng?
Vua thời dụng thánh đời, người dụng hiền
Dụng là dụng những kẻ tài trí kinh quyền
Dùng những kẻ trung quân ái quốc
Làm tôi con phải đền ngọn rau, tấc đất
Thời mới xong cái nợ tang bồng
Sao bình thời múa mặt xưng hùng
Cơn bác loạn kinh tâm tán loạn?
Ớ các quan viên ơi!
Lũ nào mến, lũ ta xin đừng mến
Bọn nào kinh, bọn mình hỡi chớ kinh
Nguyền gắng sức đền ơn cho quân thượng
Trời đã sanh có binh thời có tướng
Binh tướng phải hết lòng
Trời đã sanh có chúa lại có tôi
Niềm tôi chúa sao cho hết dạ
Khéo chỉ chọ cho mã tà khuấy khoả!
Mưu thày lay ai mượn phá luỹ bờ?
Phận làm tôi chẳng trọn một thờ
Không thương hại lại đam thói bạc!
Miệng niệm liến Quan Âm Bồ Tát
Lòng u ơ tưởng chúa Du De
A men, bát nhã khéo xô bồ
Thập ác, tràng phạn xui lộn lạo!
Nhà nghèo mới biết con rằng thảo
Nước rằng nguy, tôi chúa dạ biết ngay
Nên hư có một hội nầy
Sống thác cho tường mới tận
Hễ phận làm nam tử
Phải trả nợ quân ân
Hễ phận làm con dân
Phải đền ơn thuỷ thổ
Kìa là tông, nọ là tổ
Tông tổ ở đất nào?
Kìa là mẹ, nọ là cha
Cha mẹ đẻ, sao không đánh liệt?
Ớ bọn phản nghịch ơi!
Mình là con trong đất Việt
Chẳng phải người sanh sản giống Tây di
Nó là chi, nó dám tới đây?
Ta là chi, mà làm thinh ngồi vậy?
Ở đâu mà không thấy?
Loài mọi nó bất nhơn!
Tổng Định Thành chùa miễu phá tan hoang
Đồng tập trận mả mổ đào sạch quét!
Sao bây không biết xét?
Khiến dạ vô tình!
Chẳng thương tấm tượng sàng linh
Nở bỏ vùa hương trước án!
Nghĩ giận cho đáng
Hay ghét bỏ cho ưng!
Người ở đời lấy giặc làm hưng
Gầm đầu thú lấy Tây làm mạnh
Khá tua tu tỉnh
Cải ác tùng trung
Rất đỗi man di còn có một lòng
Huống chi ta là người trung quốc mà không gan ruột?
Đồn Bà Quẹo phản hồi chưa bên cuộc
Cũng vì quan, cũng vì quân không dạ cần vương
Lũy Mĩ Quý hoài đao thương
Cũng vì tướng, cũng vì binh không lòng nghĩa khí!
Chữ quân thần là đạo nghĩa
Phận làm nam tử phải trả nợ cho quân vương
Thà là nguyền ra giữa chốn chiến trường
Nhứt là nó, nhứt là ta
Đồng đánh liệt cho Tây di biết mặt!
Gẫm âu thế tình thậm ngặt
Vịnh râu dê làm mặt tài khôn
Tiếc cơm nước vua nuôi các gã
Mồ tổ phụ, cuộc táng chôn
Cho dài cửu họ, cho lớn tông môn
Đặng dương dương theo loài bất nghĩa
Tiếc cơm nước vua nuôi các ngươi
Thân cho dài, hình cho lớn, vóc cho cao
Theo loài Tây giặc, lấn Nam trào
Tám mươi kiếp, những loài vô hậu
Chữ “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”
Câu “Châu nhi phục thể, thiên địa tuần hường”
Bình rồi đây ơn cũng thấy ơn
Trị rồi đây oán thời thấy oán!
Mặt đứa gian thần xem cho hãn
Danh người trung nghĩa thấy cũng tường
Nguyện ngàn năm để tiếng “Cần Vương”
Thề muôn thuở chẳng nhơ danh đất Việt.
(Vè Cần vương)
Phụ đồng chổi
Phụ đồng, phụ chổi
Thổi lổi mà lên
Ba bề, bốn bên
Đồng lên cho chóng
Nhược bằng cửa đóng
Phá ra mà vào
Cách sông, cách ao
Cũng vào cho lọt
Cái roi von vót
Cái vọt cho đau
Hàng trầu, hàng cau
Là đồ cúng Phật
Hàng chuối, hàng mật
Hàng kẹo mạch nha
Hàng hương, hàng hoa
Của cô bán quế
Vừa đi, vừa tế
Một lũ học trò
Người cầm quạt mo
Phụ đồng, phụ chổi
Thổi lổi mà lên
Hỡi cô thắt lưng bao xanh (10)
Có về Kim Lũ với anh thì về!
Kim Lũ có hai cây đề
Cây cao bóng mát gần kề đôi ta
Tình sâu không quản đường xa
Nhà anh cao rộng cũng là nhà em.
Nhà anh có con sông êm
Cho em tắm mát giữa đêm mùa hè
Quê Hương, Địa Danh, Tình Yêu Trai Gái, Tỏ Tình, Con Người,
Cầu Tràng Kênh dầu có phân đôi ngả
Sông Lệ Thủy dầu có cách phá trở ghềnh
Vì em ăn ở có nghĩa có nhơn nên gương vỡ lại lành
Để đôi lứa ta đúc kết trọn chỉ mành nên duyên