Trách vua Tự Đức hai lòng
Đi về bên đạo, bỏ công bên đời
Mần quan ra rồi
Vượt lòng không cạn
Tây sang buôn bán
Viện lấy giữ nhà
Ai biết sự là
Tây sang cướp nước
Khi mới sang, đánh được
Răng không đánh đi cho
Những bậc quan to
Đều cáo quan về lão
Quan huấn, quan giáo
Gánh của về mần giàu
Mần quan lớp sau
Ra tuồng đã khổ
Mần quan hậu thổ
Phải ăn lương nhà
Xuất thân xông pha
Cức mình biết mấy
Tây sang hắn quấy
Hư hại nước Nam
Trở ra mà làm
Nhờ vua ái ngại
Ăn lương vua mãi
Trở lại mần quan với Tây
Đi ra không nhớ nghĩa thầy
Cũng đòi ôm quyển sách
Ba năm vua hạch
Học trò đi thi
Đỗ được ông chi
Cũng nhờ cái phận
Ra trữa chiến trận
Thiên hạ chết nhiều
Mần quan bên triều
Trở lại mần quan bên giáo
Nó thà cáo lão
Cũng như không đi
Như ông quan lĩnh tác vi
Cũng đòi làm quan trữa tỉnh,
Đem Tây đem lính
Đốt biết mấy ngày
Khói lửa chất đầy
Một trời đỏ đậm.
Nhờ quan cậu ấm
Bọc lại bên sông
Đốt phá hại đồng
Nhất là quan lĩnh.
Mần quan trữa tỉnh
Ai được cậy nhờ?
Xuân Liễu, Xuân Hồ
Mần giặc ở mô?
Tây biết hắn vô
Cắn răng mà chịu
Mần đồn Xuân Liễu
Các quan ta kép về Tây
Sức phu chặt cây
Tre gai rào bên đạo
Ông tra, bà lão
Đời thủa mô như ri
Kiếp người năm ni
Mần dân đã khổ
Nho Lâm, Lò Cổ
Đốt biết mấy ngày
Bỏ nhà mà đi
Quyên sắt về rèn đồ hoả mại
Rèn đồ khí giới
Súng ống cho nhiều
Cho đủ phạng, siêu
Tháng năm chưa dễ
Thúc thành đội vệ
Tuyển lại tinh binh
Để chờ triều đình
Viện Tàu về đã
Bỏ mành bỏ giã
Vượt biển sang Tàu
Cho khá mau mau
Sang đến năm sau
Tháng mô không định
Ba mươi sáu tỉnh
Tây giữ nẻo đàng
Tàu không thể sang
Bình Tây giúp nước
Ba mươi năm còn được
Nữa là năm sau
Quyên hết nhà giàu
Khẩn đồn điền cày ruộng
Cối xay ba họng
Đổ biết khi mô cho đầy
Trên trời hết mây
Ta đây mới hết tiền, hết bạc
Hồi buổi loạn lạc
Quấy chắc cho hay
Bên giáo có Tây
Ta đây không có
Tàu sang đã chộ
Ăn hết lương tiền
Giừ phải về cho dân yên
Chứ không mần chi được
Quân ông Lưu lớp trước
Nỏ đánh lại Tây
Huống chi là ta
Lưa ba gian nhà
Đừng còn hăm hở
Đi ra cũng lỡ
Ở nhà không đành
Những kẻ học hành
Thúc thành chưa vội
Dân sự ở túp
Thần thánh ở đền
Tại cả hai bên
Ra rồi quấy chắc
Ai sinh ra giặc?
Ai rước Tây về?
Đốt phá hai xã lưa chi
Từng mô dưới tỉnh cu ly
Từng mô đồn binh thế?
Mần quan trữa tỉnh Nghệ
Cức biết mấy phần
Nỏ lẽ về mần dân
Như các quan văn thân
Ra mần mới phải
Đêm nằm nghĩ lại
Nhớ đến đền chùa
Nghĩ rằng như vua
Đang còn phải chạy
Hồi giừ bay nhảy
Giáo múa, gươm khua
Đặt bõ nhờ vua
Một hồi đã sướng
Như ông quan thượng
Ở trữa tỉnh với Tây
Thi đỗ khoa này
Ra mần như rứa
(Vè trách vua Tự Đức hai lòng)
Trai người ta như thế
Trai nào phải như anh
Chỉ luẩn quẩn lanh quanh
Trong xó giường xó bếp
Bắt con rận con rệp
Đập con muỗi con ruồi
Giận con gà hay bươi
Buồn con heo chậm nẩy
Tranh hơn thua với gấy
Lại ra oai cùng con
Một tấc đất tấc vườn
Cũng rày thưa mai kiện!
Phụ đồng phụ chổi, thổi lỗi mà lên,
Ba bề bốn bên, sôi lên cho chóng.
Nhược bằng cửa đóng phá ra mà vào,
Cách chuôm cách ao, cách ba ngọn rào,
Cũng vào cho lọt, cái roi von vót,
Cái vọt cho đau, hàng trầu hàng cau,
Hàng hương hàng hoa, là đồ cúng Phật,
Hàng chuối hàng mật, hàng kẹo mạch nha.
Nào cô bán quế, vừa đi vừa té,
Một lũ học trò, người cầm quạt mo,
Là ông đồng chổi, thổi lỗi mà lên.
Buổi mai em xách cái thõng
Em xuống dưới ao em bắt con cua
Em bỏ vô trong cái thõng
Hắn kêu cái rỏng, hắn kêu cái rảnh.
Hắn kêu một tiếng chàng ôi!
Chàng đã yên phận tốt đôi
Em nay lẻ bạn, mồ côi một mình"
Trích đoạn Hò Bả Trạo
Tổng hậu (xướng) :
Án nội lễ nghi chỉnh túc
Đăng chúc huy hoàng ..
Truyền cho bả trạo lường ban
Xếp chèo vào bái yết.
Trạo (đồng thanh) : Dạ ?
Tổng hậu :
Xuân thu lộ tiết
Thốn niệm thanh hương
Tửu cúc trà lan
Hạ các đẳng cung kiên
Ớ bả trạo ! Cái (1) khai thuyền hầu trạo.
Trạo (đồng thanh) : Dạ !
(Lúc này tất cả đứng dậy, xốc chèo lên nách, theo tiếng phách của tổng tiền, tiến vẽ nơi trình diễn (hoặc nơi đặt quan tài cá ông).
Đồng thanh : Hạ thiên quan thủy sắc
Hốt nhật chiếu huy hoàng
Khai thuyền hầu linh vị
Đẳng bá trạo quý vương !
Đẳng bá trạo vương !
(Các con trạo làm động tác chèo)
Tổng hậu (tay lúc nào cũng làm động tác giữ chèo lái)
xướng :
Chói rạng hai vầng nhật nguyệt
Thẳm sâu một dải giang hà
Ngàn năm vang tiếng âu ca
Muôn thuở đên ơn báo bổ
Dâng tế lễ cầu ngư lạc lợi
Đội ơn nhuần lụy nhỏ chứa chan.
....... Còn nữa) Vì bài quá dài mời Xem trọn bài hát tại: http://e-cadao.com/tieuluan/phongtuctapquan/hatbatrao.htm
Nhớ khi rộn rịp bến tàu
Quán cơm Đà Nẵng cao lầu Hội An.
Thăng Bình nhớ dĩa khoai lang
Duy Xuyên bánh đập Hòa Vang thịt rừng
Bò thui chấm dĩa muối gừng
Điện Bàn nhớ trận giặc, lùng đánh Tây
Nhớ những hồi khi mô ăn nói cùng nhau
Nhớ khi miếng thuốc miếng cau miếng trầu
Nhớ những hồi khi mô trên bộc dưới dâu
Gối loan gối phụng gối lên đầu cánh tay
Nhớ làm chi nhớ đắng nhớ cay
Nhớ năm nhớ tháng nhớ ngày nhớ đêm
Còn ngày còn nhớ còn thêm
Còn đau đoạn ruột còn mềm lá gan
Nhớ làm chi nhớ lắm hỡi chàng
Cũng vì nhơn ngãi công đàng xuống lên
Sá chi cái tiếng gièm pha
Bạn ơi quớ bạn dứt ngãi ta sao đành!
Đèo mô cao bằng đèo Cây Cốc
Dốc mô cao bằng dốc Mỹ Cang
Một tiếng anh than hai hàng luỵ nhỏ
Có chút mẹ già bỏ lại cho ai?
- Mẹ già ở lại với anh trai
Phận em là gái một mai theo chồng.
Đi chơi một chút vuông tròn
Về nhà vợ bắt ru con tối ngày
Còn ba hột lúa đổ vô xay
Gà vịt nó ăn hết rối vày như tơ
Công chuyện thì nó bỏ làm lơ
Nó sai gánh nước tui quơ gióng vò
Nó thức nó gáy khò khò
Tui tưởng nó ngủ tui mò tui lên
Nó dấn cho tui một đạp rót xuống tấm phên
Tui tức tui tối tui rên ậm ừ
Ngồi buồn nghĩ lại mà suy
Nó trông tui chết nó đi lấy chồng.
Lâu ngày mới gặp người thân
Ta xin hỏi bạn mấy tầng trời cao
- Hai ta là chỗ tâm giao
Ta nghe bạn hỏi lẽ nào không phân
Đất sâu mấy tấc, thì mấy tầng trời cao.
Lạy trời đừng nắng đừng mưa (4)
Âm u gió mát thiếp đưa chàng về
Chàng về tới đất Hóa Quê
Xây lưng trở lại ủ ê gan vàng
Đêm nằm thở thở than than
Trông trời mau sáng lên đất Nghi An gặp mình
Duyên ba sinh nợ ba sinh
Trời mô khéo biểu hai đứa mình gặp nhau.
Thiếp tới chàng dọn một dĩa rau
Hai bên là hai củ hành tàu
Ở giữa có một con cá tràu nằm ngang
Ăn vô thấu bụng thấu tràng
Bữa nay thiếp mới biết của chàng thật ngon!
Văn chi chàng chưa đầy lá mít
Võ chi chàng đập không bể đít hũ sành
Thấy vua treo bảng chòng chành vô thi
Văn thi không biết chữ chi
Mài nghiên cắn bút có khi tối ngày.
Tiếng đồn cô Bốn hát hay
Hỏi thăm cô Bổn cối xay mấy niềng
- Cối xay mười hai cái niềng
Hỏi thăm cô Bốn quan tiền mấy dui
Quan tiền là một chục đồng
Hỏi thăm cô Bốn chợ đông mấy người
- Chợ đông vô giá quá chừng
Hỏi thăm cô Bốn trên rừng mấy cây
- Trên rừng thiên vạn cái cây
Hỏi thăm cô Bốn biết mây mấy từng
Mấy từng cô Bốn chịu thua
Hỏi thăm cô Bốn con cua mấy càng
- Con cua có hai cái càng tám cái ngoe
Hỏi thăm cô Bốn chiếc ghe mấy chèo
- Chiếc ghe có hai mái chèo
Hỏi thăm cô Bốn con mèo mấy lông
- Bạn về tát cạn biển Đông
Rồi ta sẽ nói cái lông con mèo
Trên rừng mù mịt tối tăm
Hỏi thăm cô Bốn một năm mấy mùa
- Một năm thì có bốn mùa
Hỏi thăm cô Bốn con rùa mấy chân?
Sáng nay em đi chợ phiên
Anh gửi một tiền mua cam cùng quýt
Đừng nhiều đừng ít mua lấy một trăm
Cam ba đồng một quýt một đồng năm
Thanh yên tươi tốt năm đồng một trái
Tang tảng sáng vừa mới rạng đông
Rủ nhau đi hái mấy quả bòng
Mỗi người năm quả thừa năm quả
Mỗi người sáu quả một về không
Cô là con gái buôn
Buôn rồi tính lại thảnh thơi
Cậy cô tính thử vốn lời là bao nhiêu?
Thiếp có chồng rồi an phận khỏi lo
Chàng mà xa thiếp buồn thôi là buồn
Vì ai giọt lệ nhỏ tuôn
Khó khăn phải giữ ngọn nguồn lạch sông
Nói rồi lời nói như không hỡi nường
Hồi mô đánh sáp soi gương
Lại thêm câu chuyện cho nường nhọc thân
Ăn chanh nhớ đến mùi gừng
Bạn đặng nơi mô sang trọng cũng nhớ mấy lần gian truân
Bạn đặng nơi mô phê phủ áo quần
Nhớ khi dang nắng nhớ tuần dầm sương
Nhớ khi ta bạn ngoài đường
Hồi mô thân ngoài ngõ khi mô thương vô nhà
Tạm đôi lời nhắc bạn tình xa
Bạn có chồng xách nón bỏ ta mặc lòng
Nước non bao quản đục trong
Khuyên ai giữ dạ tấm lòng cho y
Em đi lấy chồng tới tám phần đi
Thương chàng có hai chuyện dôi khi không rồi
Cân đong chia lại ai ơi cho vừa
Uổng công chàng sớm đón chiều đưa
Chốn phòng loan vắng vẻ chốn vườn xưa héo sầu.