Khoai lang Đồng Phó,
Đậu phộng Hà Nhung (4)
Chàng bòn, thiếp mót đổ chung một gùi.
Chẳng qua duyên nợ sụt sùi,
Chàng giận, chàng đá cái gùi thiếp đi.
Chim kêu dưới suối Từ Bi (4a)
Nghĩa nhân còn bỏ, huống chi cái gùi!
Khoai to bồn thì tốt cổ
Đậu ba lá thì bưa un
Gà mất mạ thì lâu khun
Trai thiếu gái thì thậm khổ
Gái thiếu trai thì thậm khổ
Trời sinh voi thì sinh cỏ
Trời sinh sông thì sinh đò
Trời sinh giếng thì sinh mo
Trời sinh O thì sinh tui
Tui một mình thì không đặng
Gió ngoài biển hắn thổi vô
Mây trên trời hắn cuốn lại
O với tui cùng cuốn lại
Tui với O cùng cuốn lại
Hai đứa mình cùng cuốn lại
Khoan hố khoan hết khoan tới hụi
Hết hụi lại tới khoan hố khoan
Khoan tới khoan lui, Khoan anh chưa vợ
Khoan tui chưa chồng là hố khoan
Hết khoan lại tới hụi hụi khoan
Phận anh có vợ hố hò khoan
Phận tôi có chồng là hò khoan.
Khoan khoan chân bước lên voi,
Thương cha nhớ mẹ, quan đòi phải đi.
Kể từ ngày mộ lính đi Tây,
Tiền Tây em không chuộng,
Bạc Tây em không màng.
Ở nhà cơm hẩm, muối rang
Bữa ăn có thiếp có chàng vẫn vui.
Anh đi bỏ mẹ ai nuôi,
Con thơ nó khóc ngùi ngùi thảm chưa ?
Anh ra đi trống đánh cờ đưa,
Con thơ, vợ dại nói chưa hết lời.
Anh ra đi mặt biển chân trời
Biết rồi có đặng sống đời cùng nhau !
Làm quan phải xét cho dân,
Không tin ngài xuống, ngài mần (1), ngài coi.
Làm trai cho đáng nên trai,
Thanh gươm, yên ngựa, dặm dài lướt xông.
Vẫy vùng nam, bắc, tây, đông,
Lấy thân che chở non sông nước cần.
Lấy chi mà trả ái ân,
Lấy chi mà nộp công ngân cho chàng ?
Phần thì quan bắt đắp đàngl Đào sông Câu Nhí, bòn vàng Bông Miêu.
Khoan khoan gá nghĩa,
Thủng thỉnh giao hòa,
Để cho em hỏi thử cửa nhà ra sao ?
Anh em, cha mẹ thế nào ?
Nói ra em biết âm hao cho tường,
Hà miền, hà thị, hà phương,
Hà quê, hà quán em chưa tường đục trong.
Và đây lời hỏi sau cùng
Nói ra cho em biết đã "tơ hồng" đâu chưa ?
- Xa xôi chi đó mà hỏi miền, hỏi thị,
Lạ lùng chi em hỏ quán hỏi quê
Đất Bình Dương vốn thật quê chàng
Lánh nơi thành thị tìm đàng du sơn
Xuân xanh hai tám tuổi tròn
Hoa còn ẩn nhụy, chờ bình đơm bông
Tinh Yêu Trai Gái,Lỡ Duyên,Thương Nhớ,Ứng Xử Tự Nhiên,
Khoan khoan mời bạn chớ lên
Mực tàu sa xuống giữa nghiên
Tiếc tờ giấy trắng mà biên chữ vàng
Đêm nằm mà bỏ tào khang
Phòng không chiếu lạnh mình chàng đi đâu
Hồi thương khoác nách choàng đầu
Biết chừng nào gặp mặt cho khuây tấm lòng
Ăn bưởi rồi lại nhớ bòng
Ăn cam nhớ quýt trực lòng nhớ chanh
Từ tôi xa bạn không thành
Ái ân lúc trước không thành thì thôi
Khoan khoan mời khoan lại hò... lờ
Hò hô hố hô...
Em nghe anh đau đầu chưa khá
Em băng đồng chỉ sá, kiếm ngọn lá nọ về cho anh xông (1)
Hò hô hố hô... hò...
Hò hô hô hò...
Ở làm ri đây cho phải đạo vợ chồng
Đổ mồ hôi ra em chặm, ngọn gió lồng em che
Hò hô hố hô... hò...
Hò hô...
Khu Bốn đẩy ra
Khu Ba đẩy vào
Bỏ chạy sang Lào
Nước Lào không nhận
Tức mình nổi giận
Lập quốc gia riêng
Thủ đô thiêng liêng
Là huyện Nông Cống
Quốc ca chính thống:
“Dô tá dô tà”
Nông nghiệp nước nhà:
Trồng cây rau má
Biển khơi lắm cá
Mười mẻ một cân
Nhà máy phân lân
Một năm hai tạ
Vang tiếng xa gần
Nem chua toàn lá
Còn công nghiệp hoá
Là phá đường tàu
Đục ống dẫn dầu
Cắt dây điện thoại
Thiên nhiên ưu đãi
Lũ lụt triền miên
Có nhiều nhất miền
Là đất pha cát
Rừng xanh bát ngát
Là rặng phi lao
Gió mát rì rào:
Gió Lào nóng hổi
Công trình nổi trội,
Vượt cả núi non
Cái cầu con con
Gọi là cầu Bố
Mấy cây lố nhố
Gọi là Rừng Thông
Con gái chưa chồng
Đặt vòng tránh đẻ
Thanh niên trai trẻ
Lại bắt về hưu
Làng xóm tiêu điều:
Nông thôn đổi mới
Dựa vào vách đá
Bắn được máy bay
Đàn lợn thả ngày
“Kinh tế hiện đại”
Sản phẩm hàng đầu
Toàn chum với vại
Mấy bà đứng đái:
“Thủy lợi tưới tiêu”
Phá đường tàu nhiều
Rau không kịp mọc
Trẻ con đi học
Thường nắm đuôi trâu
Tiết kiệm xăng dầu:
Bơi qua sông Mã
(Vè Thanh Hóa)
Khuyên anh đi lính cho ngoan
Cho dân được cậy cho dân được nhờ
Bao giờ nên Đội nên Cơ
Thì em sẽ quyết đợi chờ cùng anh
Bao giờ công toại danh thành (*)