Làng Đam bán mắm tôm xanh
Làng Họa đan dó, làng Tranh quay guồng
Đông Phù cắp thúng đi buôn
Đông Trạch bán thịt, làng Om văn thừng
Tương Trúc thì giỏi buôn sừng
Tự Khoát đan thúng, Vẹt từng làm quan.
Làng tôi nhỏ bé xinh xinh
Chung quanh có lũy tre xanh rườm rà,
Trong làng san sát nóc nhà,
Đình làng lợp ngói có vài cây cau,
Chùa làng rêu phủ mái nâu
Dân làng thờ cúng để cầu bình an
Làng tôi công nghệ đâu bằng
Là làng Triều Khúc ở gần Thanh Xuân
Quai thao tết khéo vô ngần
Là nghề của Vũ sứ thần dạy cho
Tóc rối, lông vịt, mã cò
Bán ra ngoại quốc cũng to mối lời
Khăn san kiểu lối tân thời
Tua cờ nhà đạo, nhà binh
Bán ra Hà Nội, Huế, Vinh, Sài Gòn
Chân chỉ hạt bột y môn
Chỉ tơ, chỉ gốc, lại còn chỉ thêu
Dây đàn, dây rút thật nhiều
Chỉ quả chữ thọ có điều tinh thông
Khéo thay những dải kim tòng
Được bằng thưởng nhất Hà Đông bảo tàng
Phu-la, tơ lụa, đăng ten,
Tiêu thụ các xứ bán buôn thật nhiều
Buồng chơi dùng đệm lông cừu
Hỏi thăm Triều Khúc có nhiều tài hoa
Thắng đai ngựa, chổi lông gà
Thắt lưng, khăn mặt người ta thường dùng
Len đan mũ trẻ ít công
“Tích-cô” dệt máy dùng trong mùa hè
Hoa bằng lông vịt mới kỳ
Giỏ đựng ấm tích bằng tre khéo làm
Nghề kẹo mạ, thợ kim hoàn
Nghề nào cũng giỏi khôn ngoan ai tày
Quai túi dết, sợi giày tây
Vẽ tranh sơn thủy dùng bày phòng chơi
Hơn ba mươi nghệ tân thời
Sĩ, nông, công, cổ mọi người đều hay
Nghề nào cũng khéo chân tay
Nhất thân vinh hiển buổi này cạnh tranh
Đơ thao Triều Khúc rành rành
Tiếng khen công nghệ nổi danh Bắc Kỳ.
Làng ta đây lễ bái lòng thành
Sao lại rước ê-a chú tiểu
Đọc "Quan Ban" bảo rằng "Dịch biểu (?)
Tụng "Dược sư" bảo chữ "Quang Lai"
Thủy sám kinh tụng giữa ban ngày
Chữ "Bát nhã" tụng ra "Ban nhược"
Làng ta phong cảnh hữu tình
Dân cư đông đúc như hình con long
Nhờ trời hạ kế sang đông
Làm nghề cày cấy, vun trồng tốt tươi
Vụ năm cho đến vụ mười
Trong làng già trẻ, gái, trai đua nghề
Mặt trời lặn mới ra về
Ngày ngày, tháng tháng, nghiệp nghề truân chuyên!
Dưới dân tráng trên quan viên
Công binh giữ mực, cầm quyền thẳng ngay
Bao giờ gặp hội chẳng may
Khi trời hạn hán, khi đây mưa dầm
Khi trời gió bão ầm ầm
Đồng ruộng thóc lúa, mười phần được ba
Lấy gì cung ứng can qua
Lấy gì lo việc trong nhà cho đương
Lấy gì sưu thuế phép thường
Lấy gì hỗ trợ cho đường làm ăn
Trời làm khổ cực hại dân
Vì mùa mất mát trăm đương lao đao!
Làng ta mở hội vui mừng
Chuông khua trống gióng, (đánh) vang lừng bốn (đôi) bên.
Long ngai, Thánh ngự ở trên
Tả văn, hữu võ hai bên đứng chầu
Cầu sinh nam tử công hầu (*)
Cầu sinh con gái, được chầu Thánh quân.
Làng mình có một nghề thương
Mua to bán lớn Triều Dương đứng đầu
Xưa nay chuyên việc đóng dầu
Kể ra bảy bộng từ lâu đến chừ
Bộng Thuỳ bộng Yến cho đến bộng Như
Tính trong bảy bộng của dư muôn ngàn
Bộng Nghị cho chí bộng Làng,
Bộng Hưng tấp nập bạn hàng thậm đông.
Anh em mình làm không hở chút công
Ngó xuống bộng Luỹ bảy ông y sì.
Làng Vạc ăn cỗ ông Nghè
Làng Vận, làng Chè kéo đá ông Ðăng
Lao động là vinh quang
Lang thang là chết đói
Hay nói thì ở tù !
Lù khù thì đi kinh tế mới !
Làng Mọc mở hội tháng hai
Rước hôm mười một, mười hai rõ ràng
Nhất vui mở hội năm làng
Để cho thiên hạ phố phường vào xem.
Nào là hương án, long đình
Phường bồng, phường trống rập rình theo sau…
Tàn vàng quạt vá sánh bầy
Đuôi nheo phấp phới, cờ bay hằng hà.
Làng Mui thì bán củi đồng
Nam Dư mía mật giầu lòng ăn chơi
Thanh Trì buôn bán mọi nơi
Đồng Nhân, Thúy ái là nơi chăn tằm
Làng Mơ thì bán rượu tăm
Sở Lờ cua ốc quanh năm đủ đời.