Nghìn thu gặp hội thái bình
Trải xem phong cảnh khắp thành Thăng Long
Phố ngoài bao bọc thành trong
Cửa Nam, Giám, Bắc, Tây, Đông rõ ràng
Ba mươi sáu mặt phố phường
Hàng Giày, Hàng Bạc, Hàng Ngang, Hàng Đào
Người đài các, kẻ thanh tao
Qua hàng thợ Tiện lại vào Hàng Gai
Hàng Thêu, Hàng Trống, Hàng Bài
Hàng Khay trở gót ra chơi Tràng Tiền
Nhác trông chẳng khác động tiên
Trên đồn cờ kéo dưới thuyền buồm giăng
Phong quang lịch sự đâu bằng
Dập dìu võng lọng, tưng bừng ngựa xe
Hàng Vôi sang phố Hàng Bè
Qua tòa Thương Chính trở về Đồng Xuân
Trải qua Hàng Giấy dần dần
Cung đàn nhịp phách nên xuân bốn mùa
Cầu Đông vang tiếng chợ Chùa
Trăng soi giá nến, gió lùa khói hương
Mặt ngoài có phố Hàng Đường
Hàng Mây, Hàng Mã, Hàng Buồm, Hàng Chum
Tiếng Ngô, tiếng Nhắng um um
Lên lầu xem điếm tổ tôm đánh bài
Khoan khoan chân trở gót hài
Qua Hàng Thuốc Bắc sang chơi hàng Đồng
Biết bao của báu lạ lùng
Kìa đồ bát bửu, nọ lồng ấp hương
Hàng Bừa, Hàng Cuốc ngổn ngang
Trở về Hàng Cót dạo sang Hàng Gà
Bát ngô, Hàng Sắt xem qua
Hàng Vải, Hàng Thiếc lại ra Hàng Hòm
ở đâu nghe tiếng om om?
Trống chầu rạp hát thòm thòm vui thay
Hàng Da, Hàng Nón ai bày
Bên kia Hàng Điếu, bên này Hàng Bông
Ngã tư Cấm Chỉ đứng trông
Qua Hàng Thợ Nhuộm thẳng rong Hàng Tàn
Đoái xem phong cảnh bàn hoàn
Bút hoa dở viết chép bàn mấy câu.
Trải qua một cuộc bể dâu
Nào người đế bá, công hầu là ai?
Hà Thành là chốn kinh đô
Vừa đông, vừa đẹp lại vừa rộng thay!
Cửa nhà san sát đó đây
Gác trên gác dưới bên ngoài, bên trọng
Ai ơi đứng lại mà trông
Nguy nga tráng lệ non bồng nào hơn!
Dập dìu xe ngựa bon bon
Ban đêm đèn điện sáng hơn ban ngày.
Này đây hàng Trống, Hàng Bài
Đi thêm mấy bước rẽ ngay Hàng Hòm
Hai bên chồng chất tráp son
Hàng Gai chỉ bước đường con rõ ràng
Hàng Đào rồi đến Hàng Ngang
Tập trung khách trú bán hàng vui thay
Hàng Buồm, Hàng Mã, Hàng Mây
Hàng Bút, Thuốc Bắc, tạt ngay Hàng Bồ
Hiệu ta, hiệu Khách đổ xô
Bán đèn, bán lọ những đồ rất sang
Cầu Gỗ trông ra rõ ràng
Đi thêm mấy bước thì sang Hàng Bè
Dần dần tới chợ Hàng Tre
Ngổn ngang nhộn nhịp thuyền bè dưới song
Đứng ở Hàng Mắm mà trông
Kìa Ô Quan Chưởng, Cầu Đông đó mà
Hàng Đường, Hàng Đậu đâu xa
Hàng Nâu rẽ lại thì là Đồng Xuân
Hàng Than, Hàng Cót rảo chân
Đến phố Hàng Lọng là gần nhà ga
Trở lại đến phố Hàng Lờ
Rẽ tay phải phố Hỏa Lò chẳng sai
Nhằm dốc Cây Thị ta xuôi
Chiều tà, Chợ Đuổi thì người mới đông
Bán mua vội vã cho xong
Nhá nhem thời tối chợ không kéo dài
Phố ta tạm kể thế thôi
Phố Tây thì phải dạo chơi: Tràng Tiền
Thái Hà, Trường Bưởi, Trung Hiền
Có tầu điện chạy liên miên cả ngày
Tiền đi thì thực rẻ thay
Hai xu cái vé lên ngay tha hồ
Lại còn cả bến ô tô
Chở khách, chở đồ tùy ý người thuê.
Bờ hồ cảnh ấy vui ghê
Ngọc Sơn, Tháp Bút, vua Lê tượng đồng
Đua nhau ngàn tía muôn hồng
Một màu nước biếc soi lồng bóng cây
Đêm nào cũng có tích hay
Kìa nhà chớp bóng, ta nay rẽ vào
Lòng em nghĩ ngợi ra sao?
Sán Nhiên, Quảng Lạc ồn ào cả đêm
Cải Lương Hý viện kề bên
Ngọt ngào tiếng hát cũng nên mất tiền
Những khi vui thú giải phiền
Dạo chơi Bách thú, quanh miền Hồ Tây
Mặt hồ hây hẩy heo may
Trong trong gió mát dễ say lòng người
Hà thành đẹp lắm ai ơi!
Thành Nam cảnh trí an bài
Phố phường trên bộ, vạn chài dưới sông.
Nhất thành là phố Cửa Đông
Nhất lịch Hàng Ghế, Hàng Đồng, Hàng Thao
Hàng Giầy đẹp khách yêu đào
Muốn tìm quốc sĩ thì vào Văn Nhân
Ba năm một hội phong văn
Lại lều lại chõng về thăm Cửa Trường.
Ngọt ngào lên đến Hàng Đường
Say sưa Hàng Rượu, phô trương Hàng Cầm
Hàng Tiện, Hàng Sũ, Hàng Mâm
Gặp nhau Bến Gỗ, vui sân một nhà.
Hàng Cót, Hàng Sắt bao xa
Ai về Bến Ngự rẽ ra Khoái Đồng.
Vải Màn nhỏ chỉ, nõn bông
Hàng Cấp dệt lĩnh, Hàng Song buôn thừng.
Hàng Dầu, Hàng Lạc, Hàng Vừng,
Hàng Nâu tươi vỏ đỏ lòng vốn quen
Hàng Vàng lắm bạc nhiều tiền
Hàng Sơn gắn bó gần bên Hàng Quỳ.
Trăm năm nghĩa bạc tình nghi
Hàng Đàn, Hàng Ghế chung nghề thủ công.
Cột Cờ lên đó mà trông,
Đò Chè lơ lửng bến sông cắm sào.
Phố khác buôn bán vui sao,
Lợi quyền chểnh mảng nỡ trao tay người.
Hàng Dầu, Hàng Mã, Hàng Nồi,
Hàng Trống, Hàng Thiếc, lên chơi Hàng Thùng
Hàng Cau, Hàng Nón, tưng bừng,
Thành Nam văn vật lẫy lừng là đây
Trèo lên cây gạo cao cao (3)
Lệ cheo làng Nhót độ bao nhiêu tiền?
Cheo thời có bảy quan hai
Lệ làng khảo rể trăm hai mươi vồ.
Thôi thôi tôi giã ơn cô
Tiền cheo cũng nặng, trăm vồ cũng đau.
Rủ nhau lên núi hái chè (3)
Hái dăm ba mớ xuống khe ta ngồi
Ta ngồi cho ráo mồ hôi
Xuống sông tắm mát thảnh thơi ta về.
Ta về thăm quán thăm quê
Thăm chợ Bồ Đề, thăm giếng Ô Long
Bồ Đề họp chợ mồng mười
Trên đánh cờ người, dưới thổi cơm thi
Ba bốn năm nay anh dở việc gì
Để em bắt chạch, thổi cơm thi một mình.
Bao giờ lở núi Tản Viên
Cạn sông Tô Lịch cho quên nghĩa nàng
Thung dung từ thuở thanh nhàn
Mực nghiên giấy bút ta bàn khúc nhôi
Phen này anh quyết lấy nàng thôi
Em tránh đằng trời chẳng khỏi tay anh.
Nói ra mang tiếng dỗ dành
Mặc ý nàng liệu, mặc tình nàng lo
Yêu nhau nên phải dặn dò.
Dạo xem phong cảnh Long Thành
Đủ mùi phường phố, đủ vành núi sông
Nhị Hà quanh bắc sang đông
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này
Nùng Sơn, Long Đỗ đâu đây
Tam Sơn núi đất cao tầy Khán Sơn
Ngọc Sơn nhân tạo bé hơn
Bên hồ Hoàn Kiếm ngay đền Văn Xương
Trúc Bạch, Mã Cảnh nên tường
Xa hồ Bảy Mẫu giáp đường gần nhau
Ngoài đường quai có hồ sâu
Tây Hồ rộng rãi ngay đầu phía tây
Xung quanh bao bọc kín thay
Đất cao thành lũy, cửa xây nên tường
Mười lăm ô đúng đường đường
Yên Ninh, Yên Phụ, Thụy Chương một bề
Tiên Trung, Nghĩa Lập gần kề
Thanh Hà, Ưu Nghĩa dưới là Đông An
Cựu Lâu, Mỹ Lộc, Lương Yên
Thịnh An, Thanh Bảo, Kim Liên, Thịnh Hào
Sở tại là những huyện nào
Thọ Xương, Vĩnh Thuận, phủ Hoài thống kiêm
Thọ tám tổng, Vĩnh có năm
Đồng Xuân, Đông Thọ, Phúc Lâm, mé ngoài
Vĩnh Xương, Thuận Mỹ, An Hòa
Thanh Nhàn tổng cuối giáp tòa Kim Liên
Yên Thành huyện Vĩnh ở bên
Thượng, Trung, Nội, Hạ ngoài miền ô môn
Yên Thành gồm mấy phường thôn
Khán Xuân, Thanh Bảo, Yên Viên gần thành
Trúc An, Lạc Chính, Yên Thành
Yên Trạch, Yên Định, Yên Ninh các làng
An Quang, An Thuận, Châu An
Phúc Lâm giáp giới đi sang tổng này
Ven sông một dải đất dài
Phúc Lâm, Nghĩa Dũng đến vài thôn Nguyên
Trừng Thanh thượng, hạ trung liền
Ngũ Hầu, Sài Thúc, Hạ tên Kiếm Hồ
Hương Nghĩa, Mỹ Lộc, Vọng Hà
Tây Long, Hữu Thị giáp là Bảo Linh
Thanh An, Bến Cổ, Trừng Thanh
Trang Lâu, Cơ Xá, đất dành phù sa
Thanh Nhàn liên tiếp không xa
Tổng này tám xóm, một là Lương Yên
Lãng Yên, Cẩm Hội, Hương Viên
Hàm Khánh, Vọng Đức, Tràng Tiền thẳng trông
Thanh Nhàn với xóm Lạc Trung
Kim Liên bên cạnh, tổng trong xóm ngoài
Mười lăm thôn trại rộng dài
Quỳnh lôi, Trung Tự, Bạch Mai, Cầu Giền
Phúc Lâm, Đông Tác, Kim Liên
Vân Hồ, Yên Nhất, Thịnh Yên, Giáo Phường
Hòa Mã, Phục Cổ cùng đường
Vũ Thạch, Hồi Mỹ hỏi đường Đông Tân
Quá lên mười một thôn dân
Hạ Hào đến tổng dần dần cửa tây
Xã Đàn, Trung Phụng cả đây
Nối Thổ Quan nữa một dây vòng tròn
An Hòa nguồn nước sông con
Văn Hương, Thanh Miến giữa nom Hồ Đình
Văn Tân, Lương Sử, thôn Minh
Giám thôn bên hữu, cống sinh đi về
Vĩnh Xương nay đất Tràng Thi
Mười lăm thôn kế trước thì Vĩnh Xương
Linh Quang, An Tập, Thuyền Quang
Bích Lưu, Linh Đổng, Liên Đàng, Nam Ngư
An Trung, Thượng, Hạ dân cư
Bắc Thượng, Bắc Hạ vốn như một phường.
Tiên Mỹ, Phụ Khánh gần trường
Đông Mỹ, Mỹ Đức lại đường bên trên
Tổng Thuận Mỹ ở ngay liền
Hăm hai thôn với phường bên cho rành
Chớ nhầm An Nội Đông Thành.
Cổ Vũ An Nội phận đành đôi nơi
Phường Đồng Lạc, phường Đại Lời
Cách xa thôn chợ Tân Khai mới dừng
Đông Môn, Nhân Nội phỏng chừng
Hội Vũ, Bảo Khánh, Chân Cầm bên kia
Phúc Tô, Kim Cổ đó kìa
Báo Thiên, Tự Tháp tới vừa chợ Tiên
An Thái, Thuận Mỹ, Xuân Yên
Tô Tịch, Khánh Thụy cách bên Đông Hà
Phường thôn Đông Thọ mười ba
Cựu Lâu, Hương Dính, Thanh Hà mé sông
Nam Phố, Ưu Nghĩa cùng thông
Gia Ngư, Nhiễm Thượng, An Trung độ chừng
Đông An, Dũng Thọ, Duyên Hưng
Còn thôn Ngư Võng sau lưng phường Hà
Đến đây rồi lại rẽ ra
Qua Hương Bài đến tổng là Đồng Xuân
Đoài Môn, An Phú gần gần
Sang sông Tô ấy là phần Cổ Lương
Thanh Hà thôn, Đông Hà phường
Tiền Trung, Nghĩa Lập về đường bờ sông
Huyền Thiên, Đồng Thuận bên trong
Vĩnh Trù liền với Phương Trung, Phủ Từ
Thôn phường mười bốn hết chưa
Vĩnh Hanh phường nữa còn chừa Đồng Xuân
Ngoài ô những tổng vân vân
Sáu phường Trung Tổng, Bái Ân, Trích Sài
Thụy Chương, Hồ Khẩu dọc dài
Võng Thị, Yên Thái vừa đầy tổng Trung
Tổng Hạ có phường Nhược Công
Thịnh Hào với trại Nam Đồng thứ ba
Khương Thượng, Yên Lãng nữa mà
Thịnh Quang trại ấy kể đà sáu dân
Tổng Nội chín trại chớ nhầm
Liễu Giai, Giảng Vũ tiếp gần Đại An
Thủ Lệ, Cỗng Vị là năm
Hữu Tiệp, Vạn Bảo, Cống An, Ngọc Hà
Bẩy phường, tổng Thượng nào xa
Nghi Tàm, Yên Phụ, Nhị Hà neo lên
Nhật Tên, Quảng Bá ở trên
Thạch Khối, Giai Cảnh cùng bên Tây Hồ
Long Thành thật xứng cố đô
Kim âu chẳng mẻ, cơ đồ bền lâu.
Rồng nằm núi Chúa (*)
Hạc múa xa chừng
Tối trời quân tử dừng chân
Khuyên em ở lại giữ xuân má đào
Nơi nào chức trọng quyền cao
Tốt như tiên mặc kệ
Em đừng trao ân tình
Qua Chùa núi Hó, thắp bó nhang vàng
Xin cho bạn cũ lại hoàn như xưa
Trông trời chẳng thấy trời mưa
Rồng đi mấy nước rồng chưa kịp về
Lựu tìm đào, đào chẳng tìm lê
Lên non tìm quế, quế về rừng xanh
Trách cho anh trông ngọn thác cành
Cho chàng xa thiếp, cho anh xa nàng
Nước ta mấy đống núi cao
Tản viên cao độ chừng bao hỡi chàng
Nước ta mấy khúc sông trường
Nhị Hà đo được độ chừng mấy mươi
Đường trong cho chí đường ngoài
Cửa rừng ghềnh hiểm mấy nơi bến thuyền
Sông nào đệ nhất Nam Thiên
Chùa nào lập chốn Cô Tiên ấy mà
Chàng đi vực thẳm non cao
Em mong tìm vào đến núi Tản Viên
Bao giờ lở núi Tản Viên
Cạn sông Tô Lịch chẳng quên nghĩa người
Nghĩa người em để trong cơi
Nắp vàng đậy lại để nơi em nằm
Mỗi ngày sáy bảy lần thăm.
Tản Viên núi ấy kiêu thay
Tầng trên tầng dưới thắt ngay cỏ bồng
Họa núi tôi lại họa sông
Vì chàng em phải long đong thế này
Họa nhà quan sở lầu tây
Em sang Hà Nội họa ngay Cột Cờ
Họa nhà máy Nước, máy Tơ
Xin chàng hãy cứ đợi chờ chàng ơi
Vườn Bách thú em đã họa rồi
Em xuống dưới biển, họa đôi cá vàng.
Chăm sao cho lá dâu dày
Để khi kéo kén cho đầy nong tơ
Dâu non em để tằm tơ
Dâu già đến cữ em chờ tằm khôn
Đã mang lấy cái thân tằm
Không vuơng tơ nữa vẫn nằm trong tơ.
Thanh trời rạng thấy núi xây
Rừng xanh suối bạc đáo vầy tứ phương
Trà Trì, Văn Vận hai phường
Đá Nầm, Chinh Thạch giao lương thuận hòa
Tháng năm bắp đã tới mùa
Chè thơm mít chuối bên Cùa gánh sang
Bao nhiêu thao vải, lụa hàng
Vật gì phường chợ cũng băng ngàn trải lên
Đò thì mắm nục, mắm nêm
Đò thì cá khô, muối ruốc cũng mang lên tại phường
Đò thì gạo, nếp, trứng, đường
Đò thì vàng bạc, lược, gương, cau trầu
Đò thì ghè, đục, ang, âu
Tréc, om, trình thống, dĩa dầu, bình vôi
Buôn chi thì nỏ có lời
Lưỡi cày, lưỡi cuốc, núc, nồi, đá, dao
Buôn chi than, vải lụa thao
Nhuộm màu xanh lục, rêu rao thêu thùa
Bao nhiêu cũng nhờ hột bắp mà thôi
Rồi mùa ngó lại, giơ cồi với mao
Làng mình có một nghề thương
Mua to bán lớn Triều Dương đứng đầu
Xưa nay chuyên việc đóng dầu
Kể ra bảy bộng từ lâu đến chừ
Bộng Thuỳ bộng Yến cho đến bộng Như
Tính trong bảy bộng của dư muôn ngàn
Bộng Nghị cho chí bộng Làng,
Bộng Hưng tấp nập bạn hàng thậm đông.
Anh em mình làm không hở chút công
Ngó xuống bộng Luỹ bảy ông y sì.
Quý Tị giữa ngày mồng Năm
Giờ Dần chính nguyệt ầm ầm huyên hoa
Một chi đánh ở Đống Đa
Cầu Duệ kéo xuống, tốt xa muôn phần
Phép voi bại trận tiên phong
Cầu Tương sụt cả xuống sông Bồ Đề
Đao binh tử trận đầy khe
Dọc đường giáo mác nằm kề năm năm
Điền Châu Thái thú đảm đương
Liều mình tử trận chiến trường nên công
Trận vây ở trong Nam Đồng
Rạng ngày mồng Sáu cờ dong lai hàng
Vua ban sứ bộ tiếp sang
Quan tài phong kín đón đường kéo ra
Con con cháu cháu hằng hà
Mừng lấy được xác Điền Châu đem về
Tướng tài can đảm cũng ghê
Làm đền phụng sự tức thì Đống Đa.
Bàn Cờ, Trảm Tướng, Cao Tung
Mũi Cày, Đụn Rạ, trùng trùng non cao
Sóc Sơn là ngọn núi nào
Có ông Thánh Gióng bay vào trời xanh
Sông Cà Lồ phía Nam quanh
Uốn quanh trăm khúc như tình đôi ta.
Nhớ xưa thứ sáu đời Hùng
Giặc Ân sang chiếm cả vùng Vũ Ninh
Chúng nó có Thạch Linh thần tướng
Dạ hung tàn chúng nướng dân đen
Vua Hùng sai sứ một phen
Về làng Phù Đổng thuộc miền Tiên Du
Thánh sai gọi sứ vua vào báo:
Họp thợ rào rèn nấu ngựa, roi
Ngựa, roi, áo sắt đúc rồi
Ra oai một trận tơi bời giặc Ân.
Công Thánh đã cứu dân, cứu nước
Con cúc cung đứng trước đền vàng
Lòng thành chén rượu, tuần nhang
Cầu xin rộng lượng Thánh ban phúc lành
Giáo gươm cờ quạt tưng bừng
Nhác trông uy vũ tưởng chừng năm xưa
Anh hùng trí dũng có thừa
Sử vàng bia đá bây giờ là đây
Non xanh nước biếc sánh tày
Danh thơm Phù Đổng xưa nay tiếng truyền.
Ba Biều chí dũng gan liền
Tả xung hữu đột, trận tiền chỉ huy
Đạn của giặc tứ vi bắn lại
Biều chẳng may bị phải trọng thương
Khen thay khí tiết kiên cường
Trước khi tắt thở khẩn trương dặn dò:
Khuyên đồng đội đánh cho quyết liệt
Dẫu hy sinh tử tiết không hàng
Dặn xong xuống cõi suối vàng
Nghĩa quân thương tiếc hai hàng châu sa.
Đá Bia khói hận mây mù
Nuớc sông bàn Thạch lững lờ máu trôi
Ai xưa tạo hóa khéo xây
Núi hiểm lại gặp phải tay quân thù
Hàng ngày đánh đập lu bù
Khảo tra truớc mắt,ngục tù sau lưng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng
Ngó ra đồng đẫu duới chân đá đề
Lịch triều có sắc truy phong
Tiếng tăm lừng lẫy khắp trong nước nhà
Trước nơi đinh vũ nguy nga
Muôn dân kính chúc hương hoa kính thành
Đời đời nổi tiếng anh linh
Tùy dân hộ quốc uy danh rõ ràng
Cúi đầu lạy đức Thiên Vương
Nghìn thu sông Nguyệt, non Thường ghi công.
Quảng Nam là xứ sở ta
Trong là Quảng Ngãi ngoài là Thừa Thiên
Phía đông là biển sát liền
Phía tây giáp giới với miền Ai Lao
Tua-ran 3 tàu lớn ra vào
.
Phai-phô 4 là phố người Tàu bán buôn
Nhớ thuở có loạn Tống binh
Đức vua ngự giá thân chinh về làng
Cửa nhà giặc đốt tan hoang
Lợn bò giặc bắt, đường làng vắng tanh
Người người cầu khấn thánh linh
Có Thánh Phù Đổng hiện hình cứu dân
Đôi bên giáp trận ầm ầm
Đầu rơi kín đất, máu đầm cỏ cây.
Gươm khua, ngựa xéo, voi giày
Giặc như kiến cỏ chúng quay ra hàng
Đức vua ngự giá hồi loan
Đổi tên Bình Lỗ cho làng Vệ Linh
Khao quân mở tiệc linh đình
Tạ từ Thánh Sóc hiển linh giúp vầy
Dựng đền, tạc tượng vào đây
Truyền sai dân chúng tháng ngày khói hương.
Văn Lang sạch bóng giặc Ân
Nơi đây Thánh Gióng dừng chân gội đầu
Cổ xưa truyền lại có câu
Vùng quê lấy Sọ làm đầu vẻ vang
Nước trong, trong mát như gương
Cổ giếng ghi tích lưu truyền mai sau
Hằng năm rưới nước gội đầu
Dâng lên Thánh Gióng bấy lâu tôn thờ.
Nghĩ cảnh sống làng ta mà chán
Nợ bề bề, ruộng bán không trôi
Năm nay Tết đến nơi rồi
Chủ Hàng Bồ sắp cho người về thăm
Người năm chục kẻ một trăm
Bấm tay nợ phải đến dăm ba nghìn…
Quê Hương,Đất Nước,Lễ Hội,Di Tích, Thắng Cảnh, Thời Gian
Hàng năm cứ tháng tư mồng chín
Hội Gióng là nức tiếng khắp nơi
Nước Nam các tỉnh trong ngoài
Gần xa nô nức mọi người đến xem
Xã Phù Đổng sơn xuyên anh đục
Dãy núi Hằng, sông Đức tứ chung
Vườn hoa vạn cổ anh phong
Là nơi cố trạch, anh hùng giáng sinh
Ngôi miếu đền uy linh rạng rỡ
Đủ tứ thời hương lửa phụng thờ
Nguy nga lầu các sùng tu
Danh lam thắng cảnh từ xưa lưu truyền
Thánh chính vị ngự trên long giá
Địa thế bên giếng đá mắt rồng
Kiểu đền ngoại quốc, nội công
Trước hồ thủy tạ linh lung huy hoàng
Ngũ môn, lầu linh quang tuấn nhạc
Thạch long kiều thủy các chầu ra
Xung quanh cổ thụ rườm rà...
Lâu đài sầm uất thực là tối linh
Những ngày hội linh đình rước tế
Khách các nơi đến lễ rất đông
Trầm hương nghi ngút xa trông
Cuộn bay từng đám như rồng khói tuôn
Giữ thiên địa trường tồn bất diệt
Rõ “chí kim vi liệt” không sai
Vốn là hiển thánh trong ngoài
“Bách thần nguyên tự” rực trời uy nghi
“Đại nhi hóa” lưu kỳ phụng sự
“Thiên thượng thần” ba chữ môn lâu
Hội từ mồng một bắt đầu
Thi kèn thi trống mọi màu bách công
Ngày mồng năm tập trung phù giá
Như tập quân chuẩn bị chiến công
Chỉ huy xướng xuất tiên phong
Cờ nào đội ấy phân công chỉnh tề
Ngày mồng sáu hành nghi rước nước
Đôi chum ngô bày trước án son
Cửa đền Mẫu có giếng tròn
Rước từ giếng ấy nghiêm tôn về đền
Ngày mồng bảy thiên thanh minh tú
Sáng rước cờ, rước cỗ, rước văn
Trưa phù giá tập binh quân
Tập ngoài trong tế, suốt tuần tế trưa
Chiều phù giá đi đưa về đón
Đi khám đường kéo đến ải môn
Ba cây số Đổng Viên thôn
Xứ đồng cửa ải, tiếng còn lưu danh
Ngày mồng tám tuyển binh, kén tướng
Bày hai mươi tám tướng nữ nhân
Tướng nào là tướng giặc Ân
Cơ nào đội ấy, đai cân chỉnh tề
Ngày mồng chín hành nghi chính hội
Đúng buổi trưa kéo tới Đổng Viên
Roi rồng áo đỏ, áo đen
Hiệu cờ chiêng trống loa kèn nhạc âm
Hiệu hàng dăng trung quân tiểu cổ.
Phường ải Lao áo hổ đi theo
Là phường Tùng choặc cờ mao
Người bên Hội Xá năm nào cũng sang
Đoàn phù giá xếp hàng lần lượt
Vác biển cờ, tàn quạt tiêu dao
Người mang lồng mũ, áo bào
Vừa reo vừa chạy ào ào ầm vang
Xa nghe tiếng nhạc vàng rung động
Xướng suất cầm kẻng trống trong vòng
Xe long giá kéo thẳng dong
Đến nơi giá ngự hợp đồng phụng nghi
Các hiệu đi bao vi nữ tướng
Quay trở về bái vọng ngự tiền
Điểm ba tiếng trống tiên nghiêm
Nối theo chiêng trống nổi lên ba hồi
Mở miếu cờ tung trời đỏ chói
Ngũ sắc bay phấp phới bướm ra
Trên trời có đám mây sa
Hiệu cờ quỳ xuống phất ba ván liền
Gạt ba lần bắt đàn cướp chiếu
Phất cờ xong hội kéo về đền
Khao quân thưởng tướng yến diên
Phù giá xướng suất sân đền hạ công
Đang cuộc vui chưa xong tiệc yến
Lại vội vàng kéo đến Soi Bia
Hội bày như buổi ban trưa
Lại phất ba ván dựng cờ thành công
Hội kéo về vừa xong gần tối
Bắt giặc Ân rong ruổi theo sau
Bắt hai thủ tướng vào chầu
Tướng đốc, tướng ngựa hai đầu quân binh
Gươm thần đứng rạch phanh cưởi áo
Vung gươm lên gạt tháo mũ ra
Giả chặt đầu với lột da
Giả hình hai tướng ý là giặc tan.
Ngày mồng mười nghi loan rước tướng
Dâng vàng vào tiến cống xin hàng
Truyền cho các tướng tọa an
Ban cho tiệc yến hoàn toàn hồi quy
Ngày mười một hành nghi rước nước
Lại rước như kỳ trước nghiêm trang
Giặc Ân cờ trắng đầu hàng
Ngày mười hai hội biểu dương khám cờ
Ngày nào cũng tuồng ca vũ nhạc
Tối đuốc bông sáng quắc góc trời
Lại còn mở các trò vui
Sân cờ Đế Thích, đua tài vật thi
Các ông hiệu được đi phụng sự
Lòng trai thành ăn ngủ ở đền
Dãy nhà hiệu cạnh ba gian
Chỗ ngồi lịch sự bằng tiên trên trần
Khi hành hội đai cân áo mũ
Dàn hai bên có đủ gươm hèo
Roi rồng, tay thước, kiếm đeo
Hiệu cờ bốn lọng còn đều là hai
Hội Gióng này trưng bày buổi trước
Có giặc Ân chiếm nước Nam ta
Hùng Vương thứ sáu đời qua
Bốn ngàn năm kể hơn thừa đến nay
Thánh giúp nước ra tay giết giặc
Thanh gươm vàng, ngựa sắt, áo nhung
Lên ba tuổi, rõ anh hùng
Dẹp xong giặc biến lên không lạ thường
Linh sơn núi đằng không di tích
áp nhung treo, ngựa sắt, dấu tiên
Xã Phù Đổng dựng miếu đền
Hàng năm mở hội lưu truyền công ơn.