Bên kia sông ai lập kiểng chùa Tân Thiện
Bên này sông, qua lập cái huyện Hà Đông
Cái huyện Hà Đông để ông Bao Công xử kiện
Cái chùa Tân Thiện nhiều kẻ tu hành
Chim kêu dưới suối trên cành
Qua không bỏ bậu, sao bậu đành bỏ quả
Chiều chiều én liệng trên trời
Rùa bò dưới đất, khỉ ngồi trên cây.
Con quạ đen lông, bay bổng về đồng
Hỏi thăm con sóc có chồng hay chưa?
Có chồng năm xửa năm xưa
Lúa mùa rồi trả nợ nần sạch ráo,
Để anh đi kiếm chén cháo đổi lấy chén cơm,
Trước là cho biết cái xứ Sài Gòn,
Sau nữa mua cái quần lãnh với gói bòn bon tặng con bạn tình
Bớ thảm ơi! Bớ thiết ơi!
Bớ bạn nhân tình ơi !
Thân em như cái quả xoài trên cây,
Gió đông gió tây gió nam gió bắc
Gió đánh lúc la lúc lắc trên cành !
Một mai rụng xuống biết vào tay ai ?
Kìa cành trúc, nọ cành mai
Ông Tơ bà Nguyệt xe hoài chẳng thương !
Một lần chờ, Hai lần đợi
Sớm lần nhớ, Trưa lần thương
Anh thương em nhưng bác mẹ họ hàng chẳng thương !
Ngó lên Châu Thới có đám mây bạch
Ngó xuống Rạch Cát thấy con cá trạch đỏ đuôi
Nước chảy xuôi con cá đỏ đuôi lội ngược
Anh mảng thương nàng có được hay không?
Gặp ba trò khiến hỏi ba trò
Đường lên trên bụng có đò hay không?
- Cao sơn lưỡng nhũ ở trên
Tiểu khê ở dưới muốn lên phải có sào
Dang tay mở khóa động đào
Nhất can trực nhật đến ao phụng hoàng
Đường lên trên bụng muốn sang
Cần chi đò dọc, đò ngang tốn tiền
Làng tôi công nghệ đâu bằng
Là làng Triều Khúc ở gần Thanh Xuân
Quai thao tết khéo vô ngần
Là nghề của Vũ sứ thần dạy cho
Tóc rối, lông vịt, mã cò
Bán ra ngoại quốc cũng to mối lời
Khăn san kiểu lối tân thời
Tua cờ nhà đạo, nhà binh
Bán ra Hà Nội, Huế, Vinh, Sài Gòn
Chân chỉ hạt bột y môn
Chỉ tơ, chỉ gốc, lại còn chỉ thêu
Dây đàn, dây rút thật nhiều
Chỉ quả chữ thọ có điều tinh thông
Khéo thay những dải kim tòng
Được bằng thưởng nhất Hà Đông bảo tàng
Phu-la, tơ lụa, đăng ten,
Tiêu thụ các xứ bán buôn thật nhiều
Buồng chơi dùng đệm lông cừu
Hỏi thăm Triều Khúc có nhiều tài hoa
Thắng đai ngựa, chổi lông gà
Thắt lưng, khăn mặt người ta thường dùng
Len đan mũ trẻ ít công
“Tích-cô” dệt máy dùng trong mùa hè
Hoa bằng lông vịt mới kỳ
Giỏ đựng ấm tích bằng tre khéo làm
Nghề kẹo mạ, thợ kim hoàn
Nghề nào cũng giỏi khôn ngoan ai tày
Quai túi dết, sợi giày tây
Vẽ tranh sơn thủy dùng bày phòng chơi
Hơn ba mươi nghệ tân thời
Sĩ, nông, công, cổ mọi người đều hay
Nghề nào cũng khéo chân tay
Nhất thân vinh hiển buổi này cạnh tranh
Đơ thao Triều Khúc rành rành
Tiếng khen công nghệ nổi danh Bắc Kỳ.
Trung Màu chuột nhắt xáo dưa
Kỳ Lân nấu cháo cả cua lẫn càng
Đổng Viên mặc ục khoai lang
Phù Đổng cơm tấm giần sàng khỏe ghê
Đổng Xuyên mỗi người mỗi nghề
Lớn thì đánh xiếc, bé thì mò tôm
Phù Dực đi bán vải non
Chửa đi đến chợ mía don đầy lồng
Tấm gốc, tấm ngọn phần chồng
Còn bao tấm giữa để vào lòng mà ăn.
Công Đình cưa xẻ đã quen
Tế Xuyên bắt rẽ lấy tiền mua nhiêu…
Nhân Lễ thì đúc lưỡi cày
To Khê Viên Ngoại thì hay hàn nồi
Xa Long lắm chuối mình ơi
Phù Ninh dệt vải người người thâu đêm.
Xưa kia mộc mạc mao từ
Nay thời ngói lợp chu vi trang hoàng
Xưa kia tre trúc tầm thường
Nay thời tứ thiết vững vàng biết bao
Bát Tràng có mái đình cong.
Làng Đam bán mắm tôm xanh
Làng Họa đan dó, làng Tranh quay guồng
Đông Phù cắp thúng đi buôn
Đông Trạch bán thịt, làng Om văn thừng
Tương Trúc thì giỏi buôn sừng
Tự Khoát đan thúng, Vẹt từng làm quan.
Trên trời có sao tua rua,
Ở dưới hạ giới đang mùa chiến tranh.
Máu rơi thịt nát tan tành,
Máu trên đồng ruộng mái tranh bến đò.
Em thương dân tộc xin hò,
Hò rằng dân Việt phải lo giữ gìn.
Lạy trời cho máu về tim,
Máu đừng chảy nữa trên miền quê hương.
Quê Hương,Đất Nước, Thắng Cảnh, Di Tích, Chợ Búa, Phố Phường
Hà Nội như động tiên sa
Sáu giờ máy hết đèn xa đèn gần
Vui nhất là chợ Đồng Xuân
Thức gì cũng có xa gần bán mua
Giữa chợ có anh hàng dừa
Hàng cam, hàng quít, hàng dưa, hàng hồng
Ai ơi đứng lại mà trông
Hàng vóc, hàng nhiễu thong dong nượp nà
Cổng chợ có chị hàng hoa
Có người đổi bạc chạy ra chạy vào
Lại thêm “sực tắc” bán rao
Kẹo cau, kẹo đạn, miến xào, bún bung
Lại thêm bánh rán, kẹo vừng
Trước mặt bún chả, sau lưng bánh giò
Ồn ào chuyện nhỏ, chuyện to
Líu lo chú khách bánh bò bán rao
Xăm xăm khi mới bước vào
Hàng tôm, hàng tép xôn xao mọi bề
Lịch sự là chị hàng lê
Quàng quạc hàng vịt, tò te hàng gà
Nứt nở như chị hàng na
Chua vào hàng sấu, ngọt ra hàng đường
Hà Nội như động tiên sa
Sáu giờ máy hết đèn xa đèn gần
Vui nhất là chợ Đồng Xuân
Thức gì cũng có xa gần bán mua
Giữa chợ có anh hàng dừa
Hàng cam, hàng quít, hàng dưa, hàng hồng
Ai ơi đứng lại mà trông
Hàng vóc, hàng nhiễu thong dong nượp nà
Cổng chợ có chị hàng hoa
Có người đổi bạc chạy ra chạy vào
Lại thêm “sực tắc” bán rao
Kẹo cau, kẹo đạn, miến xào, bún bung
Lại thêm bánh rán, kẹo vừng
Trước mặt bún chả, sau lưng bánh giò
Ồn ào chuyện nhỏ, chuyện to
Líu lo chú khách bánh bò bán rao
Xăm xăm khi mới bước vào
Hàng tôm, hàng tép xôn xao mọi bề
Lịch sự là chị hàng lê
Quàng quạc hàng vịt, tò te hàng gà
Nứt nở như chị hàng na
Chua vào hàng sấu, ngọt ra hàng đường
Thơm ngát là chị hàng hương
Tanh ngắt hàng cá, phô trương hàng vàng
Lôi thôi là chị hàng giang
Bán rổ, bán xảo, bán sàng, bán nia
Thưỡi môi là chị hàng thìa
San sát hàng bát nhiều bề long đong
Đỏ đon như chị hàng hồng
Hàng cam, hàng quít, bưởi bòng thiếu chi
Trống quân, cò lả sót gì
Mỗi người một vẻ ai thì kém ai
Lại thêm cạo mặt ngoáy tai
Lại thêm ngoài chợ có người họa tranh
Ngoài ra cải, diếp, răm, hành
Thìa là, cải cúc xanh xanh rõ ràng
Có người bán lược, bán gương
Có người bán cả hòm rương, tủ quầy
Có người bán dép, bán giày
Có người bán cả ghế mây để ngồi
Suốt ngày chợ họp ai ơi
Thượng vàng hạ cãm bao người bán mua
Hay cắp như chị hàng cua
Nhảy nhót hàng ếch ai mua được rày
Có người xem tướng xem tay
Chầu văn, đồng bóng ốp ngay tức thời
Thôi thì đủ thức, đủ người
Ồn ào nhộn nhịp nói cười chen vai.
Có anh bán thuốc cũng hay
Mồm rao liến láu, bệnh khỏi ngay tức thời
Lại còn kẻ cắp như rươi
Hở cơ chốc lát, tiền ôi mất rồi
Dậm chân xuống đất kêu trời
“Phú-lít” có đến cũng thôi đi đời
Tối đến đuổi chợ mình ơi!
Quá năm giờ rưỡi hết người bán mua.
Bảy phủ huyện ấy tên chi
Sát ngoài phía Bắc vậy thì Hòa Vang
Giữa thì có phủ Điện Bàn
Tỉnh thành kia cũng ở ngang một bề
Duy Xuyên huyện ở trong kề
Quế Sơn vô nữa thì về Phủ Thăng
Hà Đông Quảng Ngãi sát giăng
Còn huyện Đại Lộc mới tăng lên cùng
Nhìn xem non nước trùng trùng
Ngõ nguồn có sáu phải không tên gì
- Hữu Bang Sát núi Trà My
Chiên Đàn nguồn ấy ở về phía trong
Thu Bồn một dải quanh vòng
Ô Da thì ở trên dòng sông Con
Lỗ Đông sát núi Cao Sơn
Cu Đê thì ở gần hòn Hải Vân
Lại xem đến dưới hải phần
Cửa biển có bốn xa gần đâu đâu
Cu Đê Thủy Tú có cầu
Đà Nẵng hải khẩu nước sâu đậu tàu
Phố cùng Đại Chiếm gần nhau
Còn cửa Đại Yểm ở sau Tam Kỳ
Kìa bảy trạm ấy tên chi
- Nam Chơn phía bắc trong thì Nam Vân
Dọc theo đường cái kể lần
Nam Hòa thì lại ở gần phủ Thăng
Quế Sơn Nam Ngọc sát giăng
Còn trạm Nam Phước 13 ở đằng Duy Xuyên
Miếu Bông Nam Giản gắn liền
Nam Ô thì lại ở miền Hóa Ô
Ngàn năm xây dựng cơ đồ
Vật trong thổ sản tỉnh mô dám bì
Nông Sơn than đá thiếu chi
Bảo An đường tốt Trà My quế nhiều
Bạc vàng ở tại Bồng Miêu
Phú Nam Phú Thượng biết bao nhiêu chè
Tơ cau thuốc chở đầy ghe
Hội An buôn bán tiếng nghe xa gần
Một ngàn bốn chục xã dân
Ai ai cũng có một phần giang sơn.
Nón này chính ở làng Chuông
Làng Già lợp nón, Khương Thường bán mua
Hà Nội thì kết quai tua
Có hai con bướm đậu vừa chung quanh
Tứ bề nghiêng nón chạy quanh
Ở giữa con bướm là hình ông trăng
Nón này em sắm đáng trăm
Ai trông cái nón ba tầm cũng ưa
Nón này che nắng che mưa
Nón này để đội cho vừa đôi ta
Nón này khâu những móc già
Em đi thử nón đã ba năm chày
Muốn em chung mẹ chung thày
Thì anh đưa cái nón này em xin.
Rủ nhau mua nứa trên Trừm
Bơi qua bãi cát mới đem về nhà
Đem về mới đến bãi ta
Rỡ xong mới vác về nhà mới cưa
Mồ hôi lã chã như mưa
Cưa rồi mới thiến, thiến rồi mới pha
Ngồi rồi lại vót nan ra
Tính xem vốn lại được là bao nhiêu.