Thiên đàng hỏa ngục hai bên
Ai khôn thì lại ai dại thì qua
Đêm nằm nhớ chúa nhớ cha
Đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn
Linh hồn phải giữ linh hồn
Đến khi giờ chết được lên thiên đàng
Thiên đàng hỏa ngục hai quê
Ai khôn thì về ai dại thì sa
Đêm nằm nhớ chúa nhớ cha
Đọc kinh cầu nguyện kẻo sa linh hồn
Linh hồn phải giữ linh hồn
Đến khi mình chết được lên thiên đàng
Trời mưa lâm râm (1)
Cây trâm có trái
Con gái có duyên
Đồng tiền có lỗ
Bánh tổ thì ngon
Bánh dòn thì béo
Cái kéo thợ may
Cái cày làm ruộng
Cái xuổng đắp bờ
Cái lờ đơm cá
Cái ná bắn chim
Cái kim may áo
Cái giáo đi săn
Cái khăn bịt đầu
Cái cầu đi chợ
Có vợ đàn ông
Có chồng con gái
Cái trái mù u
Ông cu đi câu
Để trâu ăn lúa
Bắt được chặt đầu,
chặt đầu đuôi
Còn hai con mắt
đem nuôi mẹ già
Cái con chim chích
Nó rích cành chanh
Tôi lấy mảnh sành
Tôi vanh nó chết
Gặp ba ngày Tết
Làm ba mâm đầy
Ông thầy ăn một
Bà Cốt ăn hai
Cái thủ cái tai
Đưa lên biếu chú
Chú hỏi thịt gì
Thịt con chim chích
Nó rích cành chanh…
Mèo già ăn trộm
Mèo ốm phải đòn
Mèo con phải vạ
Con quạ đứt đuôi
Con ruồi đứt cánh
Đòn gánh có mấu
Củ ấu có sừng
Bánh chưng có lá
Con cá có vây
Ông thầy có sách
Thợ ngạch có dao
Thợ rào có búa
Xay lúa có giàng
Việc làng có mõ
Cắt cỏ có liềm
Câu liêm có lưỡi
Cây bưởi có hoa
Cây cà có trái
Con gái có chồng
Đàn ông có vợ
Kẻ chợ có vua
Trên chùa có Bụt
Cái bút có vòi (ngòi)
Ông voi có quản
Chim hay lớn tiếng
Tu hú, ác là
Nhảy nhót lăng ba
Chích choè bìm bịp
Tính hay ăn hiếp
Chim cú chim diều
Lưng trâu sáng chiều
Sáo hành sáo nghệ
Ăn không xiết kể
Công cốc, chàng bè
Đáp xuống cành tre
Là con chim bói
Cái mồng đỏ chói
Cao các hồng hoàng
Thức suốt canh tàn
Chim heo chim vọ
Một ngón tay nhúc nhích này/ một ngón tay nhúc nhích này
Một ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy…
Hai ngón tay nhúc nhích này/ hai ngón tay nhúc nhích này!
Hai ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy!
Khéo ăn làng Thói
Khéo nói Úc Kỳ
Rù rì Phương Độ
Sừng sộ Nga Mi
Ru không chịu đi
Là anh làng Vạn
Ăn chơi có hạng
Là đất Phao Thanh
Thích được làm anh
Thanh niên làng Cả…
Vặt đầu gà
Cho con lợn
Bảo thằng tao
Lấy con ếch
Mách trẻ con
Đá con cá
è lá gianh…
(Vặt lấu cạy
Ạy tú mâu
Cạu vằng câu
Àu tú ếch
Cạu Lực đêc
Thệch tú pa
Đè bay hà…)(Đồng Dao Cao Lan)
Mình về đường ấy thì xa
Để anh bắc cầu sông Cái về qua Ninh Bình
Đất Ninh Bình có chùa Non Nước
Núi Phi Diên, Hồi Hạc xung quanh
Em về em chớ quên anh.
Anh ngồi đầm Ô ngó vô cửa Mỹ
Thấy miệng em cười mủ mỉ mà thương
Ngọn trầu bò dưới đất là ngọn trầu lương
Hồi này mới biết nẫu không thương ta rồi
Đêm năm canh không ngủ mãi ngồi
Bởi chưng thương bạn bồi hồi lá gan.
Bạn tình ơi!
Ai biết nước sông Lam răng là trong là đục
Thì biết sống cuộc đời răng là nhục là vinh
Thuyền em lên thác xuống ghềnh
Nước non là nghĩa là tình ai ơi
Bạn tình ơi!
Nhìn núi nhìn sông thêm nhớ nguồn nhớ cội
Qua cơn sóng dữ ắt đến hội rông mây
Bao giờ Ngàn Hống hết cây
Sông Rum hết nước đó với đây mới hết tình
(Ví Đò Đưa, Nghệ An)
Vè kể giăng
Mồng một cho tới mồng năm
Giăng còn thơ ấu, tối tăm biết gì
Mồng sáu, mồng bảy trở đi
Đến ngày mồng tám giăng thì lên cao
Mồng chín giăng ánh vườn đào
Mồng mười giăng mọc đã cao hơn đầu
Mười một sáng cả vườn dâu
Mười hai giăng ở địa cầu trung thiên
Mười ba giăng gió giữ duyên
Đến ngày mười bốn giăng lên giữa trời
Gặp giăng em hỏi em chơi
Liệu giăng sáng cả trần đời được chăng?
Đến rằm giăng đã lên cao
Tới ngày mười sáu giăng treo tỏ tường
Mười bảy giăng sẩy chiếu giường
Mười tám dọn dẹp cương thường anh đi
Mười chín em định em ngồi
Hai mươi giấc tết, em thì ra trông
Kể từ hăm mốt nửa đêm
Giăng già thì cũng có phen bạc đầu
Cuối tháng giăng xuống biển sâu
Ba mươi mồng một ai cầu được giăng
(Vè Kể Trăng) (Vè Kể Giăng)
Cái sáo mặc áo em tao
Làm tổ cây cà, làm nhà cây chanh
Đọc canh bờ giếng
Môi miệng tiếng kèn
Hỡi cô trồng sen
Cho anh hái lá
Hỡi cô trồng bưởi
Cho anh hái hoa…
Một cụm cà là ba cụm lý
Con nhà ông Lý mặc áo tía tô
Con nhà thằng Ngô mặc áo lang khách
Hai con chim khách đánh nhau trên cây
Hai cái bánh dày đánh nhau mâm cổ
Hai hạt đỗ đánh nổ nồi rang
Hai con kiến càng đánh nhau lọ mật
Hai hòn đất đánh vật bờ ao
Mày tát chuôm tao, tao tát chuôm mày
Mày đầy rổ cá, tao đầy rổ tôm
Mày đi chợ Cầu Nôm, tao đi chợ Cầu Dền
Mày bán cửa đền, tao bán cửa vua
Mày làm mắm chua, tao làm mắm thính
Mày con ông chanh, tao con sả
Mày là cái cả, tao là cái hai
Mày đội bồ dài, tao đội nón méo
Mày cầm cái kéo, tao cầm con dao
Mày làm sao, tao làm vậy
Mày đi buôn cậy, tao đi buôn hồng
Mày đi lấy chồng, tao đi lấy vợ
Mày lên kẻ chợ, tao về nhà quê…
Con gái đương thời
Phải nơi thì đặt
Cái áo em mặc
Giăng mắc hoa hồng
Trong yếm đại hồng
Chuỗi xe con toán
Cái quai dâu chạm
Em đội lên đầu
Cái nhôi gắp dâu
Quấn vào đỏ chói
Cái miệng em nói
Có hai đồng tiền
Như cánh hoa sen
Giữa ngày mới nở
Mẹ em đi chợ
Có gánh có gồng
Anh đứng anh trông
Má hồng đỏ thắm
Anh đứng anh ngắm
Đẹp đẽ làm sao
Con cái nhà nao
Chân đi đẹp đẽ
Anh có vợ rồi
Không lẽ anh sêu
Kiến lửa tập đoàn, kiến vàng ở ổ
Cao đầu lớn cổ thiệt là kiến hùm
Cắn chúng la um: kiến kim, kiến nhọt
Nhỏ như con mọt thiệt là kiến hôi
Động trời nó sôi: kiến cánh, kiến lửa
Bò ngang, bò ngửa: kiến riện đơn chai
Bò dông, bò dài, bò qua, bò lại
Kiến đực nói phải, kiến cái làm khôn
Rủ nhau lên cồn xoi hang lạch cạch
Thuở xưa, trong sách Bàn Cổ sở phân
Sanh ra chúng dân đỏ đen như kiến
Ấu tử làm biếng chẳng có mẹ cha
Không ai dạy la, nên không biết sợ
(Vè Cái Kiến)
Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Chính Trị, Quê Hương, Đất Nước,Thương Nhớ
Vè phu làm đường lên Tam Đảo
Tôi có nhời thăm u cùng bá
Ở trên này khổ quá u ơi
Khi nào thong thả mát giời
Mời u quá bộ lên chơi vài ngày
Làm kíp chả được tiền ngay
Phải ăn gạo ngữ của thầy cai Sơn
Một đồng mười sáu bơ đơn
Đong đi đong lại chỉ còn mười lăm
Thầy cai cứ đứng chăm chăm
Hễ ai hút thuốc lại nhằm cắt công
Trời mưa có thấu hay không
Quanh năm chẳng có một đồng thừa ra
Lấy gì đồng bánh, đồng quà
Lấy gì mà gửi về nhà nuôi con
Mười năm làm ở đỉnh non
Ở nhà cha mẹ vợ con mất nhờ
Thân tôi khổ đến bao giờ?
Ái Quốc,Lịch Sử,Chống Ngoại Xâm,Chính Trị, Hành Chính, Hành Chánh
Nghĩ xem cái nước Nam mình
Tây sang bảo hộ tài tình đến đâu?
Nghĩ xem tiền của ở đâu
Đưa ra mà bắc được cầu qua sông
Chả hay tiền của của chung
Đưa ra mà bắc qua sông Bồ Đề
Bắc cho thiện hạ đi về
Những cột dây thép khác gì nhện chăng
Tưởng rằng anh Pháp nghĩa nhân
Chả hay lấy của dân Nam làm giàu
Tưởng rằng bảo hộ cho nhau
Chả hay đánh mắng ra màn coi khinh
Cũng giang sơn cũng triều đình
Thế mà nước mất dân tình lầm than
Lo sưu, lo thuế đã cam
Nay kinh, mai lính, gian nan mịt mù
Dân thì phải thợ, phải thu
Tỉnh thành đặt chốn lao tù cấm ngăn
Một năm biết mấy lần liền
Nay thuế quốc trái, mai thu quốc phòng
Những quân vui thú nức lòng
Đua nhau ăn bẩn như muông khác gì…
Nước khô rồi nước lại hồi
Còn trời, còn đất, còn nòi giống ta.
Bớ chị em ơi! Đi chợ
Chợ nào bằng chợ Gò Chàm
Tôm tươi cá trụng thịt bò thịt heo
Còn thêm bánh đúc bánh xèo
Bánh khô bánh nổ bánh bèo liên u
Những con cá chép cá thu
Cá ngừ cá nục cá chù thiệt ngon
Ngó ra ngoài chợ
Nẫu bán thịt phay
Nem tươi chả lụa
Rượu trà no say
Ngó ra ngoài chợ
Nẫu bán trạnh cày
Roi mây, lưỡi cuốc
Nẫu bày nghinh ngang
Ngó ra ngoài chợ
Nẫu bán sàn sàn
Khoai lang, bắp đỗ
Ðục, chàng, kéo, dao
Xem ra chẳng sót hàng nào
Quảng Nam, Quảng Ngãi cũng vào đây mua
Lại còn những món bánh khô
Xem đi xét lại nhiều đồ lắm thay
Những còn hàng dép hàng giày
Nón ngựa nón chóp bán rày liên thiên
Lại còn những món nhiều tiền
Cà rá, hột đá, dây chuyền, dầu thơm
Song thần An Thái
Dừa trái Tam Quan
Ðường cát Dương An
Ðĩa bàn Nội phủ
Kể đủ hàng hoa
Cà dê, cà dĩa, cà chình
Ớt ngà, ớt bị, ớt sừng, ớt cay
Rau răm, rau húng
Bầu thúng, cà tây
Mua bán bạc cây
Những người hàng xén
Mấy chú rón rén
Ăn cắp thiệt lanh
Mấy chú gian manh
Là anh trùm chợ
Buôn mọi bán rợ
Mấy chú An Khê
Ở trển đem về
Xấp trần nài rể
Dễ mua dễ bán
Bánh tráng, kẹo cà
Xoa xoa, đậu hũ
Mè xửng, bánh canh
Dạo hết xung quanh
Hành ngò, cúc cải
Dây dừa, dầu rái
Kẹo đỗ, kẹo dừa
Mấy chị ngủ trưa
Nẫu mua trợt lớt •
(Vè đi chợ)
Cái cú cái cao
Mặc áo em tao
Làm tổ cây cà
Làm nhà cây chanh
Đọc canh bờ giếng
Mở miệng tiếng kèn
Hỡi cô trồng sen
Cho anh hai lá
Hỡi cô trồng bưởi
Cho anh hái hoa
Có một cụm cà
Với ba cụm bí
Con nhà ông Lý
Mặc áo tía tô
Con nhà thằng Ngô
Mặc áo lang khách
Hai con chim khách
Đánh nhau trên cây
Hai cái bánh dầy
Đánh nhau mâm cỗ
Hai cái hạt đỗ
Đánh nhau nồi rang
Hai con kiến càng
Đánh nhau lọ mật
Hai cái hòn đất
Đánh vật bờ ao
Mày tát ao tao
Tao tát ao mày
Mày đầy giỏ cá
Tao đầy giỏ tôm
Mày đi Chợ Hôm
Tao đi Cầu Dền
Mày bán cửa đền
Tao bán cửa vua
Mày làm mắm chua
Tao làm mắm thính
Mày con ông Chính
Tao con ông Xã
Mày mặc áo mả
Tao mặc áo gai
Mày đội bù đài
Tao đội nón méo
Mày cầm cái kéo
Tao cầm cái dao
Mày làm sao tao làm vậy
Mày đi buôn cậy
Tao đi buôn hồng
Mày đi lấy chồng
Tao đi lấy vợ
Mày đi chợ
Tao đi chơi
Mày lên trời
Tao xuống bể
Tao kể mày nghe
Mầy nghe cho lọt
Lẳng lặng mà nghe
Cái vè xin thuế
Mùa màng mất tệ
Buôn bán không ra
Kẻ gần người xa
Cũng nghèo cũng khổ
Hai đồng xâu nọ
Bảy ngày công sưu
Cao đã quá đầu
Kêu đà ngắn cổ
Ở đâu ở đó
Cũng rúc mà ra
Kẻ kéo xuống Tòa
Người nằm trên tỉnh
Đông đà quá đông
Trong tự Hà Đông
Ngoài từ Diên Phước
Đại Lộc xin trước
Duy Xuyên, Quế Sơn
Thăng Bình, Hòa Vang…
Huyện mô cũng có
Lạy quan bảo hộ
Dân thiệt cơ hàn
Phải tới kêu van
Nhờ ơn chuẩn giám
Đứa thời lởm chởm
Đùm muối đùm cơm
Đứa chạy lơm xơm
Bọc khoai, mang gộ
Quần thì đóng khố
Áo chí mông tròn
Hình tợ châu ôn
Dạng như Phật đất
Trong Tòa cũng chật
Nằm tới ngoài đàng
Từ phố Hội An
Đến sông Chợ Củi
Kêu nghèo, kêu đói
Xin thuế, xin xâu
Có kẻ cúp đầu
Người thì dài tóc
Đi ngang, đi dọc
Kéo vô, kéo ra
Miệng nói: “Chu choa!”
Lòng thời tở mở
Thằng xâu thuế chợ
Cũng đánh chạy tan
Ông cai đắp đàng
Sợ đều trốn phứt
Ban đầu la cực
Sau lại làm hung
Vì kẻ lung tung
Bắt người sậm sực
Nhộn nhộn nhựt nhựt
Túi búi tăng băng
Kẻ tống dù đen
Người mang trát đỏ
Các quan sức tỏ
Tất cả vọng hô
Từ dân trấn vô
Bất tuân trong dạ
Lạ đà quá lạ
Kinh cũng quá kinh
Trong réo lãnh binh
Ngoài khiêng tri phủ
Có quan tổng cũ
Cũng trấn nước nhầu
Xin thuế xin xâu
Sao hung chi dữ
Từ tỉnh, từ sứ
Chí huyện, chí nha
Thấy những người ta
Nằm thôi chật nức
Sứ đà hiểu sức
Biểu nhau kéo về
Dân cũng chẳng nghe
Cứ việc nằm đó
Lính kêu khố đỏ
Đánh bể mật xanh
Kẻ thì dập mình
Người kêu bể trốc
Mấy anh đầu trọc
Cũng xiểng mang tai
Mấy chú tóc dài
Cũng đơ cán cuốc
Súng dộng rật rật
Roi quất vo vo
Ai cũng tự do
Khôn bề độc lập
Tòa tư ra gấp
Bộ kéo về liền
Tỉnh có quan phiên
Người về hiểu trấp
Hai trăm lính tập
Quan một, quan hai
Súng đạn hẳn hòi
Quan gia minh bạch
Cúp thì trốn sạch
Miệng hết nói vông
Gần sông xuống sông
Gần núi lên núi
Kẻ rúc vô bụi
Người chui vô rừng
Bắt đánh tưng bừng
Bắt đi lịu địu
Vợ chồng bận bịu
Cha mẹ thiết tha
Kẻ giải xuống tòa
Người giam trên phủ
Thuế đà đến vụ
Xâu đã đến kỳ
Chẳng thấy giảm chi
Sao không xin nữa?
(Vè Xin Xâu)
Mồng năm chợ Ó
Quan họ dồn về
Hội vui lắm lắm
Chưa kịp đi tắm
Chưa kịp gội đầu
Trầu chửa kịp têm
Cau chưa kịp bổ
Miếng lành, miếng sổ
Miếng lại quên vôi
Người có yêu tôi
Thì người cầm lấy
Các anh đứng đấy
Thầy mẹ đứng đâu?
Mời lại xơi trầu
Mừng cho dâu mới
Mặt trời đã tối
Đám hội đã tàn
Ai có hồng nhan
Mang ra chơi hội
Dưới sông múa rối
Trên bãi trồng vừng
Một đấu, một thưng
Bằng nhau như tiện
Như tiện như tề
Kẻo thế gian chê
Chồng cao vợ thấp!
(Vè Mồng năm chợ Ó)
Đánh Chuyền, Đánh Thẻ (Chơi chuyền: 10 bàn)
Bàn 1: Cái mốt, cái mai
Con trai, con hến
Con nhện chăng tơ
Quả mơ, quả mận
Cái cận, lên bàn đôi
Đôi chúng tôi
Đôi chu'ng nó
Đôi con chó
Đôi con mèo
Hai chèo ba
Ba đi xa
Ba về gần
Ba luống cần
Một lên tư
Tư củ từ
Tư củ tỏi
Hai hỏi năm
Năm em nằm
Năm lên sáu
Sáu lẻ tư
Tư lên bảy
Bảy lẻ ba
Ba lên tám
Tám lẻ dôi
Đôi lên chín
Chín lẻ một
Mốt lên mười.
Chuyền chuyền một, một đôi...
Bàn 2: Đôi tôi, đôi chị, đôi cành thị, đôi cành na, đôi lên ba
Bàn 3: Ba đi ra, ba đi vào, ba cành đào, một lên tư
Bàn 4: Tư ông sư, tư bà vãi, hai lên năm.
Bàn 5: năm con tằm, năm lên sáu
Bàn 6: Sáu của ấu, Bốn lên bảy
Bàn 7: Bảy lá đa, ba lên tám
Bàn 8: Tám quả trám, hai lên chín
Bàn 9: Chín cái cột, một lên mười
Bàn 10: Ngả năm mươi, mười quả đấm, chấm tay vỏ, bỏ tay chuyền
2. Chặng 2: chuyền thẻ, gồm 5 bàn
Bàn 1: chuyền chuyền một, một đôi
Bàn 2: chuyền chuyền khoai, hai đôi
Bàn 3: chuyền chuyền cà, ba đôi
Bàn 4: chuyền chuyền từ, tư đôi
Bàn 5: chuyền chuyền tằm, năm đôi, Sang bàn chống
3. Chặng 3: chống, gồm 5 bàn
Bàn 1: chống cột, một đôi
Bàn 2: Chống khoai, hai đôi
Bàn 3: chống cà, ba đôi
Bàn 4: chống từ, tư đôi
Bàn 5: Chống tằm, năm đôi
4. Chặng 4: quét, gồm 5 bàn
Đọc giống chặng 3, thay chữ chống bằng chữ quét
5. Chặng 5: đập, gồm 5 bàn
Đọc giống chặng 3 thay chữ quét bằng chữ đập
6. Chặng 6: Trải
Đọc giống chặng 3 thay chữ quét bằng chữ trải
Bao giờ cho đến tháng ba (2)
Ếch cắn cổ rắn, tha ra ngoài đồng
- Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi
- Ông trăng mà lấy bà trời
Tháng năm ăn cưới, tháng mười nộp cheo
- Con lợn to bằng con mèo
Làng ăn chẳng hết, đem treo cột đình
- Con voi nằm dưới gậm giường
Cóc đi đánh giặc, bốn phương nhọc nhằn
- Chuồn chuồn thấy cám thì ăn
Lợn kia thấy cám, nhọc nhằn bay qua
- Trời mưa cho mối bắt gà
Cào cào đuổi cá, chui qua khe rào
- Chó con bắt trạch dưới ao
Có một quả đào, ném ngã năm cô
- Thóc giống cắn chuột trong bồ
Một trăm con muỗi đuổi vồ con trâu
- Chim chích cắn cổ diều hâu
Gà con tha quạ, biết đâu mà tìm
- Bong bóng thì chìm, gỗ lim thì nổi
Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai
- Hòn đá dẻo dai, hòn xôi chắc rắn
Gan lợn thì đắng, bồ hòn thì bùi
- Hương hoa thì hôi, nhất thơm là cú
Đàn ông to vú, đàn bà rậm râu
- Con cá mày ở dưới ao
Tao tát nước vào, mày chạy đi đâu
- Ngồi buồn vác giỏ đi câu
Được ả Thị Màu con gái phú ông
- Sông Hồng rộng chẳng tày gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi
- Chơi cho quạt lá long nhài
Cầu Ô gãy nhịp, thuyền chài bong đinh.
- Bao giờ cây cải làm đình
Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta
- Bao giờ trạch đẻ ngọn đa
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình
- Lênh đênh bảy lá thuyền tình
Chìm ba bến nước mới tìm thấy hoa.
- Con rận bằng con ba ba
Đêm nằm nó ngáy cả nhà thất kinh.
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè về hoa
Vác mai đi xoi
Là bông hoa giếng
Hay bay hay liệng
Là hoa chim chim
Xuống biển mà chìm
Là bông hoa đá
Bầu bạn cùng cá
Là đá san hô
Hỏi Hán qua Hồ
Là bông hoa sứ
Gìn lòng nắm giữ
Là hoa từ bi
Ăn ở theo thì
Là hoa bầu ngọt
Thương ai chua xót
Là hoa sầu đâu
Có sông không cầu
Là hoa nàng cách
Đi mà đụng vách
Là hoa mù u
Cạo đầu đi tu
Là hoa bông bụt
Khói lên nghi ngút
Là hoa hắc hương
Nước chảy dầm đường
Là hoa mùi tưới
Rủ nhau đi cưới
Là hoa bông dâu
Nước chảy rạch sâu
Là hoa muống biển
Rủ nhau đi kiện
Là hoa mít nài
Gái mà theo trai
Là hoa phát nhũ
Đêm nằm không ngủ
Là hoa nói ngày
Bạn chẳng lìa cây
Là bông hoa cúc
Nhập giang tuỳ khúc
Là bông hoa chìu
Ở mà lo nghèo
Là hoa đu đủ
Đi theo cậu Thủ
Là hoa mồng quân
Đánh bạc cố quần
Là bông hoa ngổ
Ngồi mà choán chỗ
Là hoa dành dành
Giận chẳng đua tranh
Là bông hoa ngải
Bắt đi tha lại
Là hoa phù dung
Ăn ở theo luồng
Là bông hoa thị
Theo mẹ bán bí
Là hoa thanh hao
(Vè Hoa Lá)
Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Khuyến Học, Quê Hương, Đất Nước
Cơn mây gió trời Nam bảng lảng
Bước anh hùng nhiều chặng gian truân
Ngẫm xem con tạo xoay vần
Bày ra một cuộc duy tân cũng kì
Suốt thân sĩ ba kì Nam Bắc
Bỗng giật mình sực thức cơn mê
Học, thương, xoay đủ mọi nghề
Cái hồn ái quốc gọi về cũng mau
Hồn đã tỉnh, bảo nhau cùng dậy
Chưa học bò vội chạy đua theo
Khi lên như gió thổi diều
Trong hò xin thuế, ngoài reo hãm thành
Cách hoạt động người mình còn dại
Sức oai quyền ép lại càng mau
Tội nguyên đổ đám nho lưu
Bắc kì thân sĩ đứng đầu năm tên
Người tỉnh Bắc, Nguyễn Quyền là một
Cơn nhiệt thành lửa đốt buồng gan
Đùng đùng gió cuốn mây tan
Lạng thành giáo chức từ quan cáo về
Mở tân giới, xoay nghề tân học
Đón tân trào, dựng cuộc tân dân
Tân thư, tân báo, tân văn
Chân đi miệng nói xa gần thiếu đâu
Trường nghĩa thục đứng đầu dạy dỗ
Khắp ba mươi sáu phố Hà thành
Gái trai nô nức học hành
Giáo sư mấy lớp, học sanh mấy ngàn
Kỳ diễn thuyết người xem như hội
Buổi bình văn khách tới như mưa
Nôm quốc ngữ, chữ Hán thư
Bài ca yêu nước, câu thơ hiệp đoàn
Trong chín tháng, sóng tràn gió dập
Tiếng Đông kinh lừng khắp Đông Dương
Khắp đâu đâu cũng học trường
Cùng nhau đua bước lên đường văn minh
Họ càng thấy người mình càng ghét
Càng bảo nhau đè nẹt càng già
Thương ôi ấu trĩ sơn hà
Nước chưa lặng sóng, giò đà rung cây
Trong sóng gió nhưng tay vẫn vững
Bế học rồi lại đứng khai thương
Rủ nhau một hội Hồng Bàng
Hồng Tân Hưng mở ngôi hàng buôn chung
Đồ Nam hóa bá công kỹ xảo
Khách Bắc Hà thập hiệu vãng lai
Sửa sang trong cái khuôn trời
Mở mang trí não cho người nước ta
Trời đương buổi nắng mưa tầm tã
Dấn thân mình đứng giữa cơn giông
Cả gan cho biết anh hùng
Hỏi xem mấy mặt trong vòng trần ai
(Vè Đông Kinh)
Nghe vẻ nghe Ve
Nghe vè về Hoa
Hoa nhài thoang thoảng bay xa
Mùi thơm khác hẳn, thật là có hương
Hoa cúc không sợ thu sương
Để màu ẩn dật, mùi hương đậm đà
Hoa sen mùa hạ nở ra
Ở bùn mà lại không pha sắc bùn
Hoa mai chót vót đỉnh non
Trắng như bông tuyết hãy còn kém xa
Mẫu đơn phú quý gọi là
Hải đường sắc đẹp nhưng mà không hương
Hoa quỳ nhất ý hướng dương
Hoa liễu trong trắng, trông thường như bông
Phù dung mọc ở bên sông
Hoa đào gặp được gió đông mới cười
(Vè Về Hoa)
Vè con gái (2)
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè con gái
Vừa ăn vừa đái
Vừa địt vừa ho
Lỗ mũi thò lò
Lấy tay mà quẹt
Nấu cơm khét lẹt
Kho cá khét ngầm
Ban đêm đái dầm
Ban ngày ỉa trịn
(Vè Con Gái)
Tai nghe Nhà nước mộ dân
Đêm lo ngày sợ chín mười phần em ơi!
Anh ra đi mặt biển chân trời
Ơn cha nghĩa mẹ hai vai chưa đền
Dầu mà Tây bắt làm phên
Dầu thắng dầu bại không quên công sinh thành
Trên trời mây trắng dưới thủy xanh dờn dờn
Tứ bề súng nổ từng cơn
Đau lòng nát dạ nhớ công ơn mẫu từ
Anh ra đi như con cá vào lờ
Rúc vô đăng, đó biết bao chừ đặng ra
Ai về nhắn với mẹ cha
Xuống Hàn chớp bóng gởi qua cho con tường
Kẻo mà đêm nhớ ngày thương
Đĩa xôi miếng bánh cũng thường cho con.
Những lo những sợ chín mười phần em ơi
Anh đi mặt biển chân trời
Ơn cha nghĩa mẹ hai nơi chưa đền
Dầu mà ông Tây có bắt đi làm phên
Nhứt thắng nhì bại không quên cái ơn sinh thành
Xót thương em vò võ một mình
Anh đi biển thẳm non xanh tứ bề
Vai mang khẩu súng lưng giắt lưỡi lê
Thôi thôi em bồng con ở lại lo bề làm ăn
Ví dầu anh có mần răng
Nơi mô xứng gió vừa trăng em đành
Phận anh vạn tử nhứt sinh
Trên trời mây đen kịt, dưới nước xanh dờn dờn
Tư bề sóng vỗ từng cơn
Đau lòng xót dạ nhiều cơn bớ nàng
Trăm lạy ông trời cho đặng chữ bình an
Đóng lon chức đội về làng hiển vinh
Làm thịt con heo cúng tế tại đình
Rượu chè chàng đãi dân tình một phiên
Tay bắt tay miệng lại hỏi liền
Anh đi mấy tháng anh có phiền hay không
Bây giờ anh bước xuống tàu đồng
Tối tăm mù mịt như rồng trong mây
Hai bên những lính cùng Tây
Quan gia kéo tới chở đầy tàu binh
Từ đây hai chữ tùng chinh
Phận anh cam chịu linh đinh sóng dồi.
(Vè lính mộ)
Trách vua Tự Đức hai lòng
Đi về bên đạo, bỏ công bên đời
Mần quan ra rồi
Vượt lòng không cạn
Tây sang buôn bán
Viện lấy giữ nhà
Ai biết sự là
Tây sang cướp nước
Khi mới sang, đánh được
Răng không đánh đi cho
Những bậc quan to
Đều cáo quan về lão
Quan huấn, quan giáo
Gánh của về mần giàu
Mần quan lớp sau
Ra tuồng đã khổ
Mần quan hậu thổ
Phải ăn lương nhà
Xuất thân xông pha
Cức mình biết mấy
Tây sang hắn quấy
Hư hại nước Nam
Trở ra mà làm
Nhờ vua ái ngại
Ăn lương vua mãi
Trở lại mần quan với Tây
Đi ra không nhớ nghĩa thầy
Cũng đòi ôm quyển sách
Ba năm vua hạch
Học trò đi thi
Đỗ được ông chi
Cũng nhờ cái phận
Ra trữa chiến trận
Thiên hạ chết nhiều
Mần quan bên triều
Trở lại mần quan bên giáo
Nó thà cáo lão
Cũng như không đi
Như ông quan lĩnh tác vi
Cũng đòi làm quan trữa tỉnh,
Đem Tây đem lính
Đốt biết mấy ngày
Khói lửa chất đầy
Một trời đỏ đậm.
Nhờ quan cậu ấm
Bọc lại bên sông
Đốt phá hại đồng
Nhất là quan lĩnh.
Mần quan trữa tỉnh
Ai được cậy nhờ?
Xuân Liễu, Xuân Hồ
Mần giặc ở mô?
Tây biết hắn vô
Cắn răng mà chịu
Mần đồn Xuân Liễu
Các quan ta kép về Tây
Sức phu chặt cây
Tre gai rào bên đạo
Ông tra, bà lão
Đời thủa mô như ri
Kiếp người năm ni
Mần dân đã khổ
Nho Lâm, Lò Cổ
Đốt biết mấy ngày
Bỏ nhà mà đi
Quyên sắt về rèn đồ hoả mại
Rèn đồ khí giới
Súng ống cho nhiều
Cho đủ phạng, siêu
Tháng năm chưa dễ
Thúc thành đội vệ
Tuyển lại tinh binh
Để chờ triều đình
Viện Tàu về đã
Bỏ mành bỏ giã
Vượt biển sang Tàu
Cho khá mau mau
Sang đến năm sau
Tháng mô không định
Ba mươi sáu tỉnh
Tây giữ nẻo đàng
Tàu không thể sang
Bình Tây giúp nước
Ba mươi năm còn được
Nữa là năm sau
Quyên hết nhà giàu
Khẩn đồn điền cày ruộng
Cối xay ba họng
Đổ biết khi mô cho đầy
Trên trời hết mây
Ta đây mới hết tiền, hết bạc
Hồi buổi loạn lạc
Quấy chắc cho hay
Bên giáo có Tây
Ta đây không có
Tàu sang đã chộ
Ăn hết lương tiền
Giừ phải về cho dân yên
Chứ không mần chi được
Quân ông Lưu lớp trước
Nỏ đánh lại Tây
Huống chi là ta
Lưa ba gian nhà
Đừng còn hăm hở
Đi ra cũng lỡ
Ở nhà không đành
Những kẻ học hành
Thúc thành chưa vội
Dân sự ở túp
Thần thánh ở đền
Tại cả hai bên
Ra rồi quấy chắc
Ai sinh ra giặc?
Ai rước Tây về?
Đốt phá hai xã lưa chi
Từng mô dưới tỉnh cu ly
Từng mô đồn binh thế?
Mần quan trữa tỉnh Nghệ
Cức biết mấy phần
Nỏ lẽ về mần dân
Như các quan văn thân
Ra mần mới phải
Đêm nằm nghĩ lại
Nhớ đến đền chùa
Nghĩ rằng như vua
Đang còn phải chạy
Hồi giừ bay nhảy
Giáo múa, gươm khua
Đặt bõ nhờ vua
Một hồi đã sướng
Như ông quan thượng
Ở trữa tỉnh với Tây
Thi đỗ khoa này
Ra mần như rứa
(Vè trách vua Tự Đức hai lòng)
Nghe vẻ nghe ve (4)
Nghe vè bài tới
Cơm chưa kịp xới
Trầu chưa kịp têm
Tôi đánh một đêm
Thua ba đồng rưởi
Về nhà chồng chửi
Nói rằng đau máu
Ăn sáu chén cháo
Chồng đơm không kịp
Ăn một cặp bồ câu
Một đầu cá nhám
Một đám rau lang
Một sàng bánh đúc
Một xách rau rừng
Một cặp bánh chưng
Còn la lưng lửng
(Vè bài tới)
Con Gái,Tính Nết,Thói Hư,Tật Xấu,Ăn Uống,Phương Ngữ,
Nghe vẻ nghe ve (7)
Nghe vè con gái
Tay chân mềm mại
Khác thể bông ba
Chờ mẹ đi ra
Cắp tiền thu giấu
Muốn ăn khoai nấu
Muốn ăn khoai nướng
Muốn ăn xôi chè
Ăn rồi ngồi xếp bè he
Nghe vẻ nghe ve,
Nghe vè con gái
Cái lưng bơ bừng cái thúng
Ăn chùng ăn vụng
Cho sướng cái thân
Việc nỏ muốn mần
Dôông thì muốn lấy
Áo năm bảy cấy
Mược vào đi chợ
Béng ướt dụy tôm
Hai tay bóoc lá
Lộ mồm hả ra
(Vè con gái)
Đàng trơn đi cho chóng
Cháo nóng húp lộn quanh
Sự lẹ đã rành rành,
Muốn cho kíp nỏ thành,
Muốn cho chầy răng (sao) được,
Nỏ muốn chầy răng được?
(Vè Con Người)
Miền Đông, Bà Rịa, Vũng Tàu, Miền Trung, Huế, Thừa Thiên, Bình Định,
Vè,
Quê Hương, Địa Danh, Buôn Bán, Sông Nước,Thời Gian,
Vè các lái (hát vô)
Ghe bầu các lái đi buôn
Đêm khuya ngồi buồn, kể chuyện ngâm nga
Bắt từ Gia Định kể ra
Anh em thuận hòa ngoài Huế kể vô
Trên thời ngói lợp tòa đô
Dưới sông thủy cát ra vô dập dìu
Trên thời vua Thuấn, vua Nghiêu
Ngoài dân, trong triều tòa chính sửa sang
Trên thời ngói lợp tòa vàng
Dưới dân buôn bán nghênh ngang chật bờ
Này đoạn các lái trở vô
Thuận An là chốn thuyền đô ra vào
Vát ra một đỗi khơi cao
Ta sẽ lần vào thì tới Cửa Ông
Nay đà giáp phủ Thuận Phong
Hòn Am, Cửa Kiểng nằm trong thay là
Nới lèo ráng bánh trở ra
Khỏi mũi Châu Mới thì ta lần vào
Ngó lên núi Ải rất cao
Ta sẽ lần vào Hồ Chuối, Hang Dơi
Ghe vô củi nước nghỉ ngơi
Hòn Hành nằm đó là nơi Cửa Hàn
Cửa Hàn còn ở trong xa
Ngoài mũi Sơn Trà lại có Hòn Nghê
Bãi Nồm, Bãi Bấc dựa kề
Mỹ Khê làng mới làm nghề lưới đăng
Ngó về Non Nước thẳng băng
Có chùa thờ Phật, Phật hằng linh thiêng
Lao Chàm nay đã gần miền
Hòn Lá, Hòn Lụi nằm liền Hòn Tai
Năm hòn nằm đó không sai
Hòn Khô, Hòn Dài lố nhố thêm vui
Ngó về Cửa Đợi thương ôi
Hòn Nồm nằm đó mồ côi một mình
Tam Ấp có rạn trời sinh
Bàn Than, Cửa Lở liên kinh An Hòa
Sa Cần, Châu Ổ bao xa
Ngoài mũi Cây Quýt thiệt là Tổng Binh
Lâm châm, cỏ ngựa trời sinh
Làng Gành, Mỹ Giảng ăn quanh Vũng Tàu
Nới lèo, ráng lái mau mau
Châu Me, Lò Rượu sóng xao Hòn Nhàn
Vát mặt xem thấy Bàn Than
Ngoài cù lao Ré nằm ngang Sa Kỳ
Quảng Ngãi, Trà Khúc núi chi?
Có hòn Thiên Ấn dấu ghi để đời
Hòn Sụp ta sẽ buông khơi
Trong vịnh, ngoài vời, núi đất mênh mang
Buồm giăng ba cánh sẵn sàng
Anh em chúng bạn nhiều đàng tư lương
Mỹ Á, Cửa Cạn, Hàng Thương
Chạy hết Bãi Trường xích thố băng băng
Vát ra khỏi mũi Sa Hoàng
Kìa kìa ngó thấy Tam Quan nhiều dừa
Hèn chi lời thốt thuở xưa
Nam thanh nữ tú đã vừa con ngươi
Gặp nhau chưa nói đã cười
Kìa mũi Từ Phú là nơi nhiều ghè
Non xanh nước biếc chỉnh ghê
Núi Hương, Gành Trọc dựa kề Lộ Giao
Ngó ra thấy lố Khô Cao
Ta sẽ đi vào cửa cạn Hà Ra
Bàu Bàng, Gành Mét bao xa
Trống Kinh, Hòn Đụn thiệt là Lố Ông
Ngó vô thấy mũi Vi Rồng
Hòn Lan, Nước Ngọt ăn vòng Hòn Khô
Trực nhìn Suối Bún, Vũng Tô
Ông Ầm nằm đó lớn to vô hồi
Thương cha nhớ mẹ bùi ngùi
Hòn núi Kẻ Thử có người bồng con
Nhớ lời thề nước hẹn non
Bồng con tạc đá ghi son để đời
Vũng Nồm, Vũng Bấc buông khơi
Trong vịnh ngoài vời, Hòn Cỏ, Hòn Cân
Nam Lò, Eo Vượt rần rần
San Hô, Mũi Mác ăn lần Hòn Mai
Cửa Giã có hòn án ngoài
Các lái thường ngày hay gọi Lao Xanh
Vũng Mú, trong vịnh ngoài gành
Cù Mông, Vũng Trích ăn quanh bãi liền
Gành Ba ai khéo đặt tên
Cảnh Dương, Gành Móm nối liền Vũng La
Bắt từ Vũng Lấm bương qua
Xuân Đài, Mũi Yến chạy qua Sông Cầu
Mái Nhà, Cát Xối liền nhau
Sơn thủy sắc màu tợ gấm kim quy
Ngó vô mây nước cực kỳ
Trong thì có mả, ngoài thì có lao
Giữa kinh có một Hòn Trào
Hòn Yến, Hòn Mác ăn vào Ma Liên
Hòn Chùa, Hòn Dứa nằm riêng
Chớp Chài nằm đó ăn liền Bãi Dinh
Ngó vô thấy tháp xinh xinh
Nới lèo, ráng lái Bãi Dinh dặm dài
Tuy Hòa cách chẳng bao dai
Qua khỏi nơi này tới cửa Đà Nông
Hòn Khô đá chất chập chùng
Thông trong có vịnh, giữa dòng có kinh
Mũi Nạy có Đá Bia xinh
Tạc để lưu truyền nối nghiệp Hùng Vương
Vũng Rô núi tấn bốn phương
Mịt mờ sơn thủy như sương tựa đồ
Bịt bùng chỉ một đường vô
Dầu nồm, dầu bấc không xô phía nào
Hòn Nưa không thấp không cao
Ta sẽ đi vào Bãi Võ sóng ngang
Hòn Gầm sóng vỗ đá vang
Chạy khỏi Cát Thắm lại sang Đồi Mồi
Anh em lời thốt thương ôi
Đi bảy ngày trời mới tới Bà Gia
Ngó vô bãi cát trường sa
Có đôi lưới bủa, có nhà thôn dân
Xa Cừ nay đã hầu gần
Lần qua Bãi Giếng lánh thân Trâu Nằm
Nam lò Hòn Khói tăm tăm
Cứt Chim, Hòn Bạc, Cây Sung, Chà Là
Nha Trang, Đất Chụt bao xa
Kẻ vô mua đệm, người ra mua chằng
Gặp nhau chào hỏi lăng xăng
Xùng xình Bãi Miễu, phăng phăng lướt vào
Nhìn ra Nội, Ngoại sóng xao
Vát mũi chạy vào Bãi Dài, Con Nghê
Chụt đèn ngó xuống chỉnh ghê
Ngó về Hòn Tý dựa kề Cam Linh
Mò O, Dỏ Tó rất kinh
Lại thêm Đá Vách dựa kề Vũng Găng
Vũng Găng, Đá Vách tựa thành
Hai bên núi tấn vây quanh như buồng
Mặc dầu thuyền đậu bán buôn
Nào ai đình trú ở luôn mặc lòng
Túi thơ bầu rượu rong chơi
Buồm giương ba cánh nhắm vời chạy ra
Nam mù mù, Hòn Chông, Bãi Lúa
Khỏi Ma Văn ới tới Phan Rang
Vũng Tròn lai láng nguồn cơn
Trông xa thăm thẳm là rừng Mũi Dinh
Qua Mũi Dinh cho liền Chín Vại
Tắt mặt trời các lái ra đi
Nhắm chừng bãi lưới một khi
Tây phương chỉ mũi lái thì gác Đông
Gò lèo ba cánh thẳng dong,
Cà Ná đã tới khu Ông đã gần
Lao Cau sóng vỗ rần rần,
Cà Ná Bực Lở cũng lần mà qua.
Gò lèo ráng lái gác ra,
Lòng Sông, Mũi Chọ thẳng ngay La Gàn
Ngó vô thuyền đậu nghênh ngang
Gành Son, Trại Lưới tiếng vang làng nghề
Cửa Duồng nay đã gần kề
Lạch kia Phan Rí ghe nghề xôn xao
Nhắm chừng Mũi Nhỏ băng qua
Vũng Môn, Đá Dựng đã xa Hòn Hường
Hòn Nghề, Quang Thí dựa nương
Hòn Rơm, Mũi Né là đường vô ra
Ghe thuyền tụ tập gần xa
Phú Hài, Phan Thiết ấy là trạm trung
Hỡi ai đốn củi Gành Thông
Sơn lâm một gánh chất chồng hai vai
Kê Gà nay đã đến nơi
Anh em làm lễ một hồi cho qua
Nới lèo, quay lái trở ra
Hòn Lan, Cửa Cạn ấy là Tam Tân
Sóng ào ào, buồm giương ba cánh
Chạy một hồi tỏ rạng La Gi
Hòn Bà, Rạn Gõ một khi
Ngoài khơi Rạn Đập, trong ni Rạn Hồ
Buồm giương ba cánh chạy vô
Hòn Bà, Hóc Kiểm quanh co Hồ Tràm
Kim ngân lễ vật cúng dường
Lâm râm khấn nguyện lòng thường chớ quên
Bãi Giống chạy thẳng Xích Ram
Lưới Rê qua khỏi, Rạn Cam nằm ngoài
Ngoài Ba Lũy sóng rền Cửa Cạn
Vát một hồi tỏ rạng Thùy Vân
Ngoài Kỳ Vân trong liền Giếng Bộng
Vát một hồi lồng lộng ra khơi
Ba non chót vót cao vời
Muốn cho khỏi rạn phải lơi ra ngoài
Vũng Tàu kia đã đến rồi
Trình đồn, rồi lại thẳng nơi Sài Gòn
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về
(Vè các lái hát vô)
Lẳng lặng mà nghe
Tôi nói cái vè
Vè các thứ bánh
Mấy tay phong tình huê nguyệt
Thì sẵn có bánh trung thu
Mấy ông thầy tu
Bánh sen thơm ngát
Ai mà hảo ngọt
Thì có bánh cam
Những kẻ nhát gan
Này là bánh tét
Còn như bánh ếch
Để mấy ông câu
Hủ lậu từ lâu
Thì ưa bánh tổ
Mấy tay hảo võ
Bánh thuẫn sẵn sàng
Các thứ bánh bàn
Kính như chấp bút
Ai năng thống phúc
Nên đụng bánh gừng
Còn bánh ếch trần
Cu li chia lấy
Kẻ nào trồng rẫy
Thì sẵn bánh khoai
Mấy gã uống say
Bánh men rất quý
Này bánh bao chỉ
Để các thợ may
Má phấn bông tai
Thì ưa bánh dứa
Những người thổi lửa
Thì có bánh phồng
Bánh kẹp bánh còng
Để cho đạo tặc
Còn bánh quai vạc
Đạo chích muốn ăn
Ai thích thoát giang
Thì ăn bánh lọt
Trôi nước rất ngọt
Để các thuyền chài
Dầm mưa hoài hoài
Thì ăn bánh ướt
Bất toại vô chước
Thì ăn bánh bò
Những kẻ hay lo
Ăn bánh tai yến
Ai ham trồng kiểng
Có bánh bông lan
Còn như bánh tráng
Để hạng trai tơ
Mấy ả giang hồ
Bánh bèo sẵn đó
Ai mà mặt rỗ
Thì bánh chôm chôm
Tay xách nách ôm
Bánh bao khá ních
Mấy tay hàng thịt
Da lợn để dành
Còn trã bánh canh
Để ba chú lính
Chủ nhân Lục tỉnh
Thì có bánh in
Đầu bếp mấy tên
Phải ăn bánh rế
Này là bánh nghệ
Cho chị nằm nơi
Kẻ dệt lụa tơ
Bánh tằm sẵn để
Còn như bánh quế
Mấy đấng y sanh
Tọc mạch rành rành
Thì ăn bánh hỏi
Hễ là thầy bói
Thì ăn bánh quy
Mấy ổ bánh mì
Cho nhà nho nhã
Quảng Đông mấy gã
Ăn bánh cà na
Béo thịt thẳng da
Thì ăn bánh ú
Rộng đường mấy chú
Như để sẵn đây
Phật giáo mấy thầy
Xin ăn bánh cúng
Phận tôi lúng túng
Trái đất tôi giành
Ai có lanh chanh
Tôi cho bánh khọt
(Vè bánh trái I)
Bánh đứng đầu vè
Ðó là bánh tổ
Cái mặt nhiều lỗ
Là bánh tàn ong
Ðể nó không đồng
Ðó là bánh tráng
Ngồi lại đầy ván
Nó là bánh quy
Sai không chịu đi
Ðó là bánh bàng
Trên đỏ dưới vàng
Là bánh da lợn
Mây kéo dờn dợn
Là bánh da trời
Ăn không dám mời
Nó là bánh ít
Băng rừng băng rít
Ðó là bánh men
Thấy mặt là khen
Nó là xôi vị
Nhiều nhân nhiều nhị
Là bánh trung thu
Vô lửa nổi u
Ðó là bánh phồng
Ðem thả giữa dòng
Ðó là bánh neo
Ra nắng dẻo queo
Ðó là bánh sáp
Không ai dám xáp
Ðó là bánh xe,
Xỏ lại tréo que
Ðó là bánh rế
Ăn rồi còn ế
Ðó là bánh dừa
Ăn không có chừa
Ðó là bánh tiêu
Ðể lâu nó thiu
Vốn là bánh ướt
Chưa ăn giấu trước
Nó là bánh cam
Bỏ vô khám giam
Ðó là bánh còng
Ôm ấp vào lòng
Nó là bánh kẹp
Xem coi thật đẹp
Ðó là bánh chưng
Chồng nói mới ưng
Ðó là bánh hỏi
Ðêm nằm mệt mỏi
Ðó là bánh canh
Kéo níu từng khoanh
Ấy là bánh tét
Ráp lại từng nét
Nó là bánh gừng
Bước lên có từng
Ðó là bánh cấp
Nằm ngủ dưới thấp
Là bánh hạ nhân
Mình nó trợt trơn
Ấy là bánh lọt
Ăn thơm mà ngọt
Là bánh hoa viên
Ăn khỏi trả tiền
Ðó là bánh bao
Ðem liệng đàng sau
Là bánh quai vạc
Trắng trong như bạc
Là bánh xu xê
Mặt tràng ê hề
Ðó là bánh bún
Mình đen lốm đốm
Là bánh hạt mè
Thấy ai cũng kè
Ðó là bánh dập
Người thích mặt chắc
Ðó là bánh dày
Nói nghe rất hay
Ðó là bánh mật
Bụng no ấm cật
Ðó là bánh âm
Mình mẩy trắng trong
Là bánh bột lọc
Ai cũng mời mọc
Là cái bánh trôi
Ðứng không thấy vui
Ðó là bánh bò
Nằm cứ co ro
Ðó là bánh cuốn
Cái gì cũng muốn
Nó là bánh đa
Dứt hoài không ra
Nó là bánh dẻo
Nổi trôi khắp nẻo
Ðó là bánh bèo
Giàu mãi không nghèo
Chính là bánh khoái
Ðược người ưu đãi
Là bánh phồng phềnh
Nhẹ mỏng và mềm
Ðó là bánh cốm
Áo quần lốm đốm
Nó là bánh gai
Một giống như hai
Chính là bánh đúc
Tròn cho một cục
Ðó là bánh vo
Ăn hoài không no
Ðó là bánh vẽ
Dùng cho lính trẻ
Là bánh chè lam
Ăn uống tham lam
Ðó là bánh ú
Ði mấy không đủ
Ðó là bánh giò
Từng đoạn quanh co
Ðó là bánh khúc…
(Vè bánh trái (II))
Vè ở mướn
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè ở mướn
Muốn cho sung sướng
Sanh tật quáng gà
Đi thì đầu ngả tới ngả lui
Thân tôi ăn cơm muối mặn
Ăn rồi uống hai tô chẵn chọt
Đầu đội nón chút
Vai vác cuốc cùn
Mần giùm mong cho mau tối
Tối về ăn ba hột cơm
Đầu hôm còn lao xao
Khuya lại vắng hoe
Chủ kêu làm bộ không nghe
Ngủ thêm chút nữa
(Vè ở mướn)
Năm Đinh Tỵ mười ba tháng bảy
Nước Nam mình phút dậy can qua
Thái Nguyên nay có một tòa
Khố xanh, khố đỏ được ba trăm người
Cũng chí toan chọc trời khuấy nước
Ông Đội ra đi trước cầm binh
Rủ nhau lập tiểu triều đình
Những là cai đội khố xanh bằng lòng
Duy phó quản bất tòng quân lệnh
Hóa cho nên hủy mệnh xót xa
Sai người mở cửa nhà pha
Đem tù ra điểm được là bao nhiêu?
Truyền tù nhân cứ theo quân lệnh
Chớ thị thường uổng mệnh như chơi
Rồi ra làm lễ tế trời
Cờ đề “Phục Quốc” tài bồi Nam bang
Phong tám tướng quyền đương quân chính
Tù ba trăm với lính ba trăm
Đều cùng phát súng cho cầm
Vai thì vác súng, lưng khuân đủ đồ
Đường tỉnh Thái kì khu chật vật
Các đường dây thép chặt ngay
Bấy giờ chủ tướng ra tay
Chọn đường mai phục, định ngày giao công
Kí dây thép lòng không theo phụ
Nối dây vào đường cũ đánh đi
Đánh về Hà Nội một khi
Trình rằng có giặc ở thì Thái Nguyên
Tòa thống sứ, toàn quyền hội nghị
Lại có lời phủ dụ ra cho
Bây giờ nhà nước sẽ lo
Sang nhà ông sáu nhỏ to sự tình
Tỉnh Thái Nguyên loạn binh quấy rối
Một đám tù, cai đội khố xanh
Vậy nên ông Sáu biết tình
Giấy tư sang tỉnh Bắc Ninh tức thì
Truyền ngũ tỉnh nơi nào cũng vậy
Lính Đáp Cầu phải dậy tiên phong
Lính Tây, khố đỏ hội đồng
Mang quân lên đóng đồn ông Chủ điền
Ngày mười sáu tiến lên giáp trận
Lính Tây đà tử trận trăm ba
Bấy giờ khố đỏ tiếp qua
Súng trường, trái phá, bắn hòa liên thanh
Xông lên thành khố xanh bỏ chạy
Kéo quân vào đóng tại đình trung
Ngoài thời trái phá đùng đùng
Khi vào đến tỉnh sạch không còn gì
Quân ông Đội liền đi lên núi
Đào hầm sâu làm chỗ lánh thân
Nửa đêm quân kéo đi dần
Qua vùng Tam Đảo về gần Vĩnh An
Mang quân thẳng hướng chợ Vàng
Đến làng Hoàng Xá rẽ ngang quân vào
Xã đoàn không biết nghĩ sao
Sai tuần ra hỏi quân nào đóng đây?
Tân quân mới nói khi nay
Các quan đi khôi phục ngày rày nước Nam
Truyền cho dân cứ ăn làm
Các quan đi mở nước không can cớ gì
Xã đoàn lòng vẫn hồ nghi
Tay cầm cái quắm đứng thì giờ lâu
Ông Đội truyền ra chặt đầu
Nếu không biết phép pheng đầu một khi!
Ông Đội sai quân tức thì
Mổ bò giết lợn kịp kì cơm ăn
Truyền đòi các cụ trong dân
Cho báo có giặc tân quân đóng làng
Việt Trì Tây mới kéo sang
Súng ống xe ngựa chật đường kéo đi
Đến ga Hướng Lại gặp thì
Quân Tây đến đó định kỳ nghỉ ngơi
Xe cộ tiếp vận tới nơi
Quân Tây đi trẩy ngất trời ghê thay!
Bài binh lập trận bủa vây
Thổi kèn, súng bắn đạn bay vào làng
Đi đùng như thể ngô rang
Bắn như cuội rải cản đường quân đi
Trời cao còn có thánh tri
Gió mưa kéo đến Tây thì thôi ngay
Đến hai mươi, tin này đã báo
Ông Đội kéo về đóng đạo Giang Tiên
Đêm nghe súng nổ vang rền
Lính thua, lính phải băng miền Tuyên Quang
Xuyên qua đèo Khế, đèo Giàng
Lính thua, lính lại kéo sang Hoàng Đàm
Bên Tây có ông ba xồm
Cho mày đi trước, mày nom beng đầu
Ông ba bắn chẳng trúng đầu
Ông Đội bắn một phát vỡ đầu quan ba
Ngày nổi dậy can qua xối động
Muốn hoàn công trời chẳng cho làm
Sau quân ông Đội phải tan
Quân thua, quân phải kéo sang bên Tàu
Sau chờ nấn ná ít lâu
Nuôi quân dưỡng tướng mưu cầu chuyện sau…
((Vè Đội Cấn)
Khu Bốn đẩy ra
Khu Ba đẩy vào
Bỏ chạy sang Lào
Nước Lào không nhận
Tức mình nổi giận
Lập quốc gia riêng
Thủ đô thiêng liêng
Là huyện Nông Cống
Quốc ca chính thống:
“Dô tá dô tà”
Nông nghiệp nước nhà:
Trồng cây rau má
Biển khơi lắm cá
Mười mẻ một cân
Nhà máy phân lân
Một năm hai tạ
Vang tiếng xa gần
Nem chua toàn lá
Còn công nghiệp hoá
Là phá đường tàu
Đục ống dẫn dầu
Cắt dây điện thoại
Thiên nhiên ưu đãi
Lũ lụt triền miên
Có nhiều nhất miền
Là đất pha cát
Rừng xanh bát ngát
Là rặng phi lao
Gió mát rì rào:
Gió Lào nóng hổi
Công trình nổi trội,
Vượt cả núi non
Cái cầu con con
Gọi là cầu Bố
Mấy cây lố nhố
Gọi là Rừng Thông
Con gái chưa chồng
Đặt vòng tránh đẻ
Thanh niên trai trẻ
Lại bắt về hưu
Làng xóm tiêu điều:
Nông thôn đổi mới
Dựa vào vách đá
Bắn được máy bay
Đàn lợn thả ngày
“Kinh tế hiện đại”
Sản phẩm hàng đầu
Toàn chum với vại
Mấy bà đứng đái:
“Thủy lợi tưới tiêu”
Phá đường tàu nhiều
Rau không kịp mọc
Trẻ con đi học
Thường nắm đuôi trâu
Tiết kiệm xăng dầu:
Bơi qua sông Mã
(Vè Thanh Hóa)
Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Chính Trị, Quê Hương, Đất Nước
Giáp Thân đã mãn
Ất Dậu tấn lai
Chánh ngoạt sơ khai
Bình yên phước thọ
Nhựt nguyệt soi tỏ
Nam chiếu phúc bồn
Tục danh Hóc Môn
Xứ Bình Long huyện
Hà do khởi chuyện?
Hà sự hàm mai?
Tích ác bởi ai?
Giết quan rửa hận
Nhứt nhơn bất tận
Bá tánh thọ ương
Chẳng nhớ câu “bất cảm hủy thương”
Lại quên chữ “thời thìn vị đáo”
Người sang trọng vô nhơn vô đạo
Muốn đặng mình ích kỷ hại nhơn
Dân Hóc Môn ăn oán uống hờn
Bình Long huyện tha nha thiết xỉ
Tân trào dầu chẳng nghĩ
Có giết sự cũng đành
Giết một người đặng cứu dân lành
Sách có chữ “hại nhơn nhơn hại”
Gẫm đốc phủ giết đà thậm phải
Khai lục tuần địch thể với vua
Theo tân trào phá miễu đốt chùa
Thuở cựu chúa làm Cai Chánh Tổng
Ở một ngày một lộng
Lầu ba từng lại có vọng cung
Nhựt nhựt thường chuông đổ trống rung
Xe song mã sướng đà quá sướng
Dân bần tiện đem lòng chẳng tưởng
Ép lấy dầu nạp thiểu thâu đa
Tục danh chàng là Đốc Phủ Ca
Cập thân tử Phủ Luông mĩ hiệu
Bởi bội quốc hồn phi yểu yểu
Vì phi quân phách quá xa ngàn
Phi ân đã đáng tội chàng
Giết một gã mà răn muôn chúng
Vật phi nghĩa người ngay bất dụng
Nhơn phi ân kẻ chánh mạc giao
Người ở đời như giọt nước sóng xao
Gẫm sự thế như ngọn đèn trước gió
Xưa đạo Phật, lòng đà đành bỏ
Mộ Di Du tấc dạ yêu cầu
Bị tử hình đức Chúa đi đâu?
Cầm thánh giá sao không cứu khổ?
Chẳng qua thiên số
Rước mẫu tử ư thiên đàng
Theo Di Du mình thác chẳng oan
Phải đạo Phật đao tầm vạn đoạn
Nhựt trình đặt đọc chơi cho hãn
Sự bất khả lậu ngôn
Tuy là mình ăn ở tại đồn
Còn sợ nỗi di thần lăng nịnh
Tham biện quan bất định
Tống trát ra cho xã với làng
Gậy tầm vông mõ đánh vai mang
Qua giờ Dậu tự nơi yếu lộ
Chức cựu tân bất khả thệ tề
Năm canh chầy giấc ngủ đã mê
Trở lộn về nỗi sưu với thuế
Qua năm Dậu gẫm âu quá tệ
Dân bần hàn như khúc gỗ tròn
Tưởng có người quá hải vượt non
Ra giúp nước cứu dân thuỷ hoả
Người sang trọng vô ơn, án tả:
Đã quên câu thuỷ thổ quốc vương
Mười tám thôn ai dám trở đương
Hàn nhơn đáo thâu sanh thát tử
Người hữu học, quên câu “thiện ác đáo đầu”
Nhơn tham tài thác tại bao lâu
Điểu tham thực tắc vong mấy khắc
Dân Hóc Môn đau tầm ruột thắt
Huyện Bình Long tợ muối xát lòng
Chữ phu cừu chuyện ấy tưởng xong
Câu tử đạo tu đường ái nhựt
Chớ ỷ cao qườn lớn chức
Ra chăn dân trở lại hại dân
Giết một gã phi ân
Mà cứu dân đồ thán
Phật còn mang tám nạn
Huống chi người sao khỏi tai ba
Huyện Bình Long bất luận trẻ già
Nạp bắt hết giải qua tòa bố
Trời sanh dân vắn cổ
Dẫu có kêu, kêu chẳng thấu trời
Việc tân trào khảo đã hết hơi
Câu tích ác có câu phùng ác
Cư vương thổ sống thời gởi nạc
Tá vương thần thác lại gởi xương
Nhựt trình đặt đặng cho biết chữ phi thường
Ít người biết suy kim nghiệm cổ
(Vè giết đốc phủ Ca)
Quan tướng là quan tướng dai
Tổ tôm xóc đĩa dông dài cả đêm
Canh trước còn khi êm êm
Canh sau thua thiệt ngồi bên lọ hồ
Cái ngoảnh đi thò tay móc lọ
Cái ngoảnh lại chuyện trò tỉnh say
Được thời đàn hát cũng hay
Thua thời đi ngủ lại hay giật mình
(Vè Tổ Tôm, Xóc Đĩa)
Cầu sắt mà bắc ngang sông
Chàng ơi sang tỉnh mà trông chẳng lầm
Hà Nội bắc sang Gia Lâm
Tính cây lô mét độ năm cây tròn
Họa hình Tây bắc ống nhòm
Ngắm đi ngắm lại xem còn cong không
Giở về hội nghị cộng đồng
Đến năm Mậu Tuất khởi công bắc cầu
Mộ phu khắp cả đâu đâu
Xây từ Ái Mộ bắt đầu xây ra
Bắc qua con sông Nhị Hà
Chia khoang làm nhịp, mười ba cột vừa
Lập mưu xây được bây giờ
Chế ra cái chụp để mà bơm lên
Bơm hết nước đến bùn đen
Người chết như rạ vẫn phải len mình vào
Vỡ bơm nước lại chảy vào
Chết thì mặc chết ai nào biết không
Mỗi giờ thuê có một đồng
Xi măng với đá, dây dòng xuống xây
Đóng phà, đóng cột, cắm cây
Xây trên buông xuống thành ngay chân cầu
Bây giờ đục sắt bắc cầu
Cột ngang, cột dọc, đường tàu song song
Bắc từ Dốc Gạch bắc sang
Chính giữa đường sắt làm đường tàu đi
Đôi bên nhịp sắt chữ chi
Bên đi, bên lại chớ hề gặp nhau
Còn hai bên cạnh rìa cầu
Sắt chằng hoa thị đi cầu không kinh
Hai vì đèn máy sáng tinh
Ai đi đến đấy có xinh chăng là
Kẻ đi người lại hằng hà
Mưu kia nào kiệt tính đà cũng thông
Bề khoát tàu chạy bên trong
Khoát vừa ba thước đủ dùng không hơn
Đường ô tô chạy rập rờn
Cũng khoát thước rưỡi đường trơn phẳng lì
Còn đường của An Nam đi
Khoát hơn nửa thước vậy thì tính sao
Bây giờ kể đến bề cao
Cao hơn mười thước ai nào biết không
Làm xong Tây tính tiền công
Lập mưu, lập kế trả công chẳng rành
Chế ra giấy bạc dâu xanh
Trừ tiền giấy bút hết toanh dăm đồng
Tiền công chẳng đáng tiền công
Kẻ còn, người mất mà lòng xót thay!
Hội cầu năm ấy vui vầy
Nhớ ngày hăm mốt tháng hai, công hoàn.
(Vè cầu Doumer)
Tổ cha thằng bố cu gồ
Làm cho tao phải dọn đồ xuống ao
Giường thờ thì ngâm xuống ao
Lại bắt ông vải chui vào bụi năn
Vợ chồng nói chuyện thì thầm
Đêm ngày cắp bị ra nằm cồn Me
Nằm thì lắng tai mà nghe
Nó đang đốt ở ngoài nghè Phú Vinh
Súng thì nó bắn ình ình
Mẹ con giật mình lại phải chạy xa
Sớm mai nó đốt Mỹ Đà
Cửa nhà tan nát, vại cà sạch không
Bấy giờ vợ mới biểu chồng
“Thôi thôi ta phải dốc lòng xin đi”
Chồng thì nó bắt cu li
Vợ thì mặt bủng da chì mà lo
Chẳng qua đến lúc mạt đồ
Nước Nam có đám sao cờ mọc ra
Triều đình bảy vía còn ba
Quân Tây vừa dọa đái ra đầy quần
Cho nên mới khổ đến dân
Tổ tiên cũng bị muôn phần lao đao.
(Vè chửi Pháp và vua quan)
Thấy cậu tôi buồn
Giả tuồng làm vui
Phận tôi là cháu
Ngồi buồn nói láo
Cho cậu tôi nghe
Có một chiếc ghe
Chở ba trăm tượng (voi)
Chờ khi gió chướng
Chạy tuốt về te
Có con cá he
Nó xòe đuôi phượng
Có con khỉ ở trong lùm
Nó nhảy lừng tưng, lừng tưng
(Vè Con Người)
Lẳng lặng mà nghe
Kể vè thằng nhác
Gia đình khổ cực
Vợ yếu con thơ
Chồng ai được nhờ
Chẳng nên trò trống
Nửa ngày thức dậy
Lục đục soong nồi
Vắt áo đi chơi
La cà hàng xóm
Vợ nhờ cày ruộng
Tao bị đau chân
Vợ nhờ quét sân
Đau lưng vẹo cổ
Vợ nhờ bửa củi
Cái búa nó hư
Vợ bảo đi bừa
Sợ rằng trâu húc
Vợ nhờ đi gặt
Tao gánh đau vai
Thở ngắn than dài
Tội tình chị vợ
Ấy thế mà!
Nồi cơm vừa dở
Chưa kịp ai mời
Cúi cổ cúi tai
Một hồi chén sạch
Là cái thằng nhác
Ăn dữ không làm
Nghe vè thằng nhác
Cô bác xóm giềng
Lẳng lặng mà nghe
Cá nuôi thiên hạ
Là con cá cơm,
Không ăn bằng mồm
Là con cá ngác
Không ăn mà ú
Là con cá voi,
Hai mắt thòi lòi
Là cá trao tráo
Không may quần áo
Là con cá chim,
May áo không kim
Là con duối dẻ
Sống lâu mạnh khoẻ
Là cá trường sanh
Ở ngoài đầu gành
Là cá bống cát
Đi thời xách mác
Là con cá đao
Đốn cây mà rào
Là con cá chép
Nó kêu óp ép
Là con cá heo
Buộc lại mà treo
Là cá cờ phướng
Để lên mà nướng
Là cá nóc vàng
Để được hai thoàn
Là cá nhám nghệ
Đi thời chậm trễ
Là cá lù đù,
Đầu óc chù vù
Là con cá úc
Bắt lên chặt khúc
Là con cá sòng
Vợ đánh với chồng
Là con cá sào
Mình cũng như dao
Là cá lưỡi trâu
Eo đầu ngắn cổ
Là con cá ét
Miệng mồm lép xẹp
Là con cá móm
Chơi trăng cả hám
Là con cá thu
Vừa sủa vừa tru
Là cá hàm chó
May ngồi xỏ rỏ
Là cá hàm be
Lắng tai mà nghe
Là con cá mỏng
Việc làm cho chóng
Là con cá mau
Lãi đãi theo sau
Là con cá nóc
Chân đi lốc thốc
Là con cá bò
Ăn chẳng hay no
Là con cá liệc
Gái tham huê nguyệt
Là con cá dâm
Lấy cây mà đâm
Là cá nhám nhọn
Nước da lạm xạm
Là cá nhám trâu
Mặt trắng làu làu
Là cá bạc má
Hình đen như quạ
Là cá ô mun
Đặt giữa đình trung
Là cá ông sáp
Vừa đi vừa táp
Là cá dọ đàng
Kiều lạc khua vang
Là con cá ngựa
Rước thầy về chữa
Là cá tà ma
Đi xét từ nhà
Là con cá sát
Đắp bờ mà tát
Là cá ở mương
Giống không biết đường
Là con cá lạt
Kể cho cô bác
Nghe lấy mà chơi
Kể đã hết hơi
Xin cho tôi nghỉ.
(Vè về cá)
Từ ngày có mặt thằng Tây
Phu phen tạp dịch hàng ngày khốn thân!
Tai vạ trửa dân
Hắn mần đã nghiệt:
Khắp nơi ráo riết
Giở sổ đếm người
Kể chi lão phụ con trai
Người đi phu cũng tội
Kẻ ở nhà cũng tội
Vua quan bối rối
Họ đập đánh lút đầu:
– Phu phải đi cho mau
Việc quan cần cho kịp!
Một ngày phải kíp
Để kiểm phu chợ Lường
Kẻ có vợ, vợ thương
Theo lên đưa đón
Tay xách cái nón
Vai mang cái bù,
Phải một lớp phu
Tai trời ách nước
Vợ về chồng ngược
Đã cực lắm thay
Kẻ bắt giữa ruộng cày
Người không cho sắm sửa
Chồng trốn, bắt vợ
Con yếu, cha đi
Tiếng khóc như ri
Nông nỗi nước ni
Ruộng cày bỏ trắng!
Mẹ già lòng nặng,
Nằm đêm nghĩ lại thương con
Phải trèo núi lặn non
Giữa chân sim bóng đá
Thấy những đá với gỗ
Chộ thấy săng lẻ với kiền kiền
Con chim hót, vượn rên
Con hùm kêu, mang toác
Phu đi lớp trước
Đến Khe Vẽ, Con Cuông
Chộ phụ lão mà thương
Đi đường xa chịu nắng
Đi đường dài say nắng
Phu đi lẳng lặng
Một tháng trời tròn
Có vàng ăn cũng nỏ biết ngon!
Vè đi phu Cửa Rào