Bậu lỡ thời như ruộng bỏ hoang
Ruộng bỏ hoang người ta còn cấy
Bậu lỡ thời như giấy trôi sông
Giấy trôi sông người ta còn vớt
Bậu lỡ thời như ớt chín cây
Ớt chín cây người ta còn hái
Bậu lỡ thời như nhái lột da
Nhái lột da người ta còn xáo
Bậu lỡ thời như như áo vá vai
Áo vá vai ngươi ta còn mặc
Bậu lỡ thời ai muốn làm chi
Thấy cậu tôi buồn
Giả tuồng làm vui
Phận tôi là cháu
Ngồi buồn nói láo
Cho cậu tôi nghe
Có một chiếc ghe
Chở ba trăm tượng (voi)
Chờ khi gió chướng
Chạy tuốt về te
Có con cá he
Nó xòe đuôi phượng
Có con khỉ ở trong lùm
Nó nhảy lừng tưng, lừng tưng
(Vè Con Người)
Làm người có vợ có chồng,
Mấy ai mà chịu phòng không tới già.
Hữu duyên chẳng quản đường xa,
Vô duyên dầu ở một nhà chẳng nên.
Trăm năm giữ tấm lòng bền,
Trọn đời tôi quyết chẳng quên mặt nàng.
Cô kia bới tóc đuôi gà
Nắm đuôi cô lại hỏi nhà cô đâu?
- Nhà tôi ở dưới đám dâu
Ở bên đám đậu đầu cầu ngó qua
Ngó qua đám bắp trổ cờ
Đám dưa trổ nụ, đám cà trổ bông
Sông Tương ai gọi sông sâu
Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta,
Sông tuy sâu hãy còn có đáy,
Bệnh (Bịnh) tương tư không bãi không bờ,
Đầu sông chàng đợi chàng chờ,
Nào hay thiếp đợi hững hờ cuối sông.
Quê Hương, Địa Danh, Tình Yêu Trai Gái, Tán Tỉnh, Chốn Ở, Chống Ngoại Xâm
Hai con sông nước mênh mông
Nhà em sông Hậu nhà anh sông Tiền
Cách nhau một dải đất liền
Hai con sông nước chảy riêng hai dòng
Ta cùng uống nước Cửu Long
Nước sông càng ngọt lúa đồng càng xanh
Dù em cách trở xa anh
Cách trăm quả núi cách nghìn con sông
Chúng ta một dạ một lòng
Mối thù đế quốc ta đồng chung lo
Cùng nhau xây dựng cơ đồ
Nước nhà hết giặc bấy giờ mới yên
Khế với chanh một lòng chua xót
Mật với gừng một ngọt một cay
- Ra về bỏ áo lại đây
Để khuya em đắp gió tây lạnh lùng
- Có lạnh lùng lấy mùng mà đắp
Trả áo cho anh về đi học kẻo trưa.
Hư nên các việc tỏ bày
Tôi không có ép có nài chi ai.
Thương thay ông lão Bán Khoai.
Lên non xuống núi hôm mai dạy đời.
Thân sao nay đổi mai dời.
Xóm kia làng nọ, khổ thay thân già!
Nam mô đức Phật Di Đà
Khiến người trở lại thảo gia của người .
Bạc bảy đâu sánh vàng mười.
Hiền lương đâu xứng với người hung hăng.
(Vãn ông Sư Vãi Bán Khoai)
Tà Lơn xứ rày con tạm ở
Nghiệp lưới chài nhiều tháng náu nương
Gởi thơ cho cha mẹ tỏ tường.
Cùng huynh đệ cho hãn ý
Kể từ con đăng trình vạn lý
Đến bây giờ có bảy tháng dư
Nghiêng mình nằm nhớ tới mẫu từ
Ngồi chờ dậy ruột tằm quặn thắt.
(Thơ người Minh gửi về cố quốc)
Đời phải đời thạnh trị
Cuộc phải cuộc văn minh
Kìa là gió mát trăng thanh
Nầy bớ em ơi! Biết đâu nhân đạo bày tình cho vui . .
- Nước bích non xanh
Người bạn lành khó kiếm
Đây em cũng có hiếm, chẳng lựa đặng chỗ nào
Mãn lo mua bán ra vào Cần thơ . .
Tay cầm quyển sách Minh Tâm anh đọc:
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo.
Cao phi viễn tấu khả nan tàng
Từ khi anh xa cách con bạn vàng
Cơm ăn chẳng được như con chim phụng hoàng bị tên.
Từ trên trời xuống mặt nước mấy trăm ngàn thước
Từ mặt nước xuống âm phủ đi mấy ngày đường?
Một bộ Tây Du mấy cuốn?
Một cuốn mấy trang
Một trang mấy hàng chữ?
Nói cho có ngăn có ngũ, gái má đào mới chịu thua!
Vận bất tề nay trẻ nổi trôi
Thời bất đạt nên con xa xứ
Con cũng biết mười ơn vẹn giữ
Dạ lâm bền ba thảo ghi lòng
Câu tam niên nhủ bộ bất vong
Nghĩa thập ngoại lòng con lo trả
Khó vì nỗi anh thì một ngả
Cực lòng thay em ở một nơi
Bảy ngày Xuân con chịu tả tơi
Ba bữa Tết khoanh tay ngồi ngó
. . .
Việc ở ăn nhiều nỗi đắng cay
Vái Trời phật xin về quê cũ
Xứ hiểm địa, chim kêu vượn hú
Dế ngâm sầu nhiều nỗi đa đoan
Ngó dưới sông: cá mập lội dư ngàn . .
Nay con tới nơi nguồn cao nước đục
Lọai thú cầm nhiều thứ chỉnh ghê!
Giống chằng tinh lai vãng dựa bên hè
Con gấu ngựa tới lui gần xó vách
. . Bầy chồn cáo đua nhau lúc ngúc
Lũ heo rừng chạy giỡn bát lọan thiên . .
. . .Trên chót vót, nai đi nối gót
đôi vượn bạch nựng con thảnh thót
Cặp dã nhơn kếu tiếng rảnh rang
Ngó sau lưng: con kỳ lân mặt tợ như vàng
Nhìn trứơc mặt: ông voi đen huyền tợ thổ.
Hướng đông Bắc, con công kêu tố hộ.
Cõi Tây Nam, gà rừng gáy ó o . .
(Thư Người Minh gửi về cố quốc)
Hò... hò … hò … Ơ...
Tiếng ai như tiếng con Điêu Thuyền?
Anh đây Lữ Bố kết nguyền thuở xưa
Đó ở dưới thuyền buông, thả luông tuồng theo nhịp?
Có phải là: Ngũ Hồ ký tính Đào Công vi nghiệp
Tứ hải ngoa du Yến Tử phòng
Linh đinh nay lớn mai ròng
Vậy đà có chốn loan phòng hay chưa?
Tình Yêu Trai Gái, Tán Tỉnh, Thương Nhớ, Trách Móc
Đèn tọa đăng để tước bàn thờ
Vặn lên nó tỏ, vặn xuống nó lờ
Xuống sông hỏi cá, lên bờ hỏi chim
Trách ai làm cho thế nọ xa tiềm
Em xa người nghĩa mà nằm điềm chiêm bao.
Mời anh một lần về với đất Hậu Giang
Người sẽ phải ngỡ ngàng về miền quê sông nước
Dẫu trong mơ anh chưa từng thấy được
Tình đất, tình người… miền sông nước Hậu Giang !!
Hiu hiu gió thổi đầu non
Mấy người uống rượu là con Ngọc Hoàng
Ngọc Hoàng ngồi tựa ngai vàng
Thấy con uống rượu hai hàng lệ rơi
Tưởng rằng con uống con chơi
Ai dè con uống con rơi xuống sình
Có bản khác
Hiu hiu gió thổi đầu non
Mấy thằng uống rượu là con Ngọc Hoàng
Ngọc Hoàng ngự tại đền vàng
Thấy con uống rượu hai hàng lụy rơi
Tưởng rằng con uống con vui
Nào ngờ con uống con vô nhị tỳ (*)
(Nhị tỳ = Nghĩa địa Tàu ở Quận 5)
Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Chính Trị, Quê Hương, Đất Nước
Giáp Thân đã mãn
Ất Dậu tấn lai
Chánh ngoạt sơ khai
Bình yên phước thọ
Nhựt nguyệt soi tỏ
Nam chiếu phúc bồn
Tục danh Hóc Môn
Xứ Bình Long huyện
Hà do khởi chuyện?
Hà sự hàm mai?
Tích ác bởi ai?
Giết quan rửa hận
Nhứt nhơn bất tận
Bá tánh thọ ương
Chẳng nhớ câu “bất cảm hủy thương”
Lại quên chữ “thời thìn vị đáo”
Người sang trọng vô nhơn vô đạo
Muốn đặng mình ích kỷ hại nhơn
Dân Hóc Môn ăn oán uống hờn
Bình Long huyện tha nha thiết xỉ
Tân trào dầu chẳng nghĩ
Có giết sự cũng đành
Giết một người đặng cứu dân lành
Sách có chữ “hại nhơn nhơn hại”
Gẫm đốc phủ giết đà thậm phải
Khai lục tuần địch thể với vua
Theo tân trào phá miễu đốt chùa
Thuở cựu chúa làm Cai Chánh Tổng
Ở một ngày một lộng
Lầu ba từng lại có vọng cung
Nhựt nhựt thường chuông đổ trống rung
Xe song mã sướng đà quá sướng
Dân bần tiện đem lòng chẳng tưởng
Ép lấy dầu nạp thiểu thâu đa
Tục danh chàng là Đốc Phủ Ca
Cập thân tử Phủ Luông mĩ hiệu
Bởi bội quốc hồn phi yểu yểu
Vì phi quân phách quá xa ngàn
Phi ân đã đáng tội chàng
Giết một gã mà răn muôn chúng
Vật phi nghĩa người ngay bất dụng
Nhơn phi ân kẻ chánh mạc giao
Người ở đời như giọt nước sóng xao
Gẫm sự thế như ngọn đèn trước gió
Xưa đạo Phật, lòng đà đành bỏ
Mộ Di Du tấc dạ yêu cầu
Bị tử hình đức Chúa đi đâu?
Cầm thánh giá sao không cứu khổ?
Chẳng qua thiên số
Rước mẫu tử ư thiên đàng
Theo Di Du mình thác chẳng oan
Phải đạo Phật đao tầm vạn đoạn
Nhựt trình đặt đọc chơi cho hãn
Sự bất khả lậu ngôn
Tuy là mình ăn ở tại đồn
Còn sợ nỗi di thần lăng nịnh
Tham biện quan bất định
Tống trát ra cho xã với làng
Gậy tầm vông mõ đánh vai mang
Qua giờ Dậu tự nơi yếu lộ
Chức cựu tân bất khả thệ tề
Năm canh chầy giấc ngủ đã mê
Trở lộn về nỗi sưu với thuế
Qua năm Dậu gẫm âu quá tệ
Dân bần hàn như khúc gỗ tròn
Tưởng có người quá hải vượt non
Ra giúp nước cứu dân thuỷ hoả
Người sang trọng vô ơn, án tả:
Đã quên câu thuỷ thổ quốc vương
Mười tám thôn ai dám trở đương
Hàn nhơn đáo thâu sanh thát tử
Người hữu học, quên câu “thiện ác đáo đầu”
Nhơn tham tài thác tại bao lâu
Điểu tham thực tắc vong mấy khắc
Dân Hóc Môn đau tầm ruột thắt
Huyện Bình Long tợ muối xát lòng
Chữ phu cừu chuyện ấy tưởng xong
Câu tử đạo tu đường ái nhựt
Chớ ỷ cao qườn lớn chức
Ra chăn dân trở lại hại dân
Giết một gã phi ân
Mà cứu dân đồ thán
Phật còn mang tám nạn
Huống chi người sao khỏi tai ba
Huyện Bình Long bất luận trẻ già
Nạp bắt hết giải qua tòa bố
Trời sanh dân vắn cổ
Dẫu có kêu, kêu chẳng thấu trời
Việc tân trào khảo đã hết hơi
Câu tích ác có câu phùng ác
Cư vương thổ sống thời gởi nạc
Tá vương thần thác lại gởi xương
Nhựt trình đặt đặng cho biết chữ phi thường
Ít người biết suy kim nghiệm cổ
(Vè giết đốc phủ Ca)
Bán buôn vật nọ hàng kia,
Lao xao thương khách xiết vì là đông.
Chiếc qua chiếc lại đầy sông,
Mù mù khói tỏa, đùng đùng máy kêu.
Những tàu đồng dát sắt neo,
Càng nhìn tận mắt càng xiêu cả hồn.
Sợ chi nghịch thủy nghịch phong
Dầu lòng chạy ngược, dầu lòng chạy xuôi.