Cần Thơ có bến Ninh Kiều
Có dòng sông đẹp với nhiều gia nhân
Cuộc đời luống những phù vân
Trở về bến cũ cố nhân xa rồi.
(Bản cũ: Phong Dinh có bến Ninh Kiều)
Quê Hương, Địa Danh, Con Người, Thiên Nhiên, Sông Nước,
Tiếng mẹ ru con trên chiếc thuyền con
Rời bến Ninh Kiều tim tím lục bình trôi
Nhìn ra sông Hậu bềnh bồng mênh mang quá
Về Cái Răng rồi, nghe tiếng hò trên sông…
Cá trê trắng nấu với rau cần,
Muốn về Kinh Xáng cho gần với em
Ðâu vui bằng xứ Kinh Cùng,
Tràm xanh củi lục anh hùng thiếu chi.
Chừng nào chiếc xáng nọ bung vành
Tàu Tây kiệt máy anh mới đành bỏ em.
Gặp em Ngã Bảy hò ơ
Dòng sông bảy ngả tìm em ngả nào?
Sông ngả bảy chảy về bảy ngả
Thuyền đến đây về ngả nào đây
Buồm không theo kịp chim bay
Xa nhau biết hẹn ngày nào gặp nhau.
Kinh Xáng mới đào, tàu Tây đương chạy,
Hai đứa mình thương nhau thương đại,
Đừng nghi đừng ngại bớ điệu chung tình,
Bao nhiêu thù oán để một mình anh bao.
Thùng thùng, cắc cắc,
Chim đậu không bắt, lại bắt chim bay,
Em thương anh vì bởi anh tài,
Tài cày tài cuốc, tài trồng thuốc, tài kéo vồng khoai,
Phải đâu em ham lên xe xuống ngựa,
Đi guốc đi giày mà anh nỡ bỏ em?
Thấy anh hay chữ, em hỏi thử đôi lời
Chị dâu đi cầu té giếng, nắm chỗ nào kéo lên?
- Anh nói quanh về tắt
Thấy anh hỏi gắt, em nói phứt cho rồi:
Nam theo nam, nữ theo nữ
Anh đứng làm người quân tử, đâu dám gần chị dâu
Anh lấy thang lầu xuống bắc cầu cho chị lên!
Cầu Cái Răng ba nhịp,
Anh đi không kịp nhắn lại cùng nàng,
Cái điệu tào khang sao nàng vội dứt?
Đêm nằm thao thức, hóa bức thơ rơi,
Bấy lâu em mang tiếng chịu lời,
Bây giờ anh hỏi thiệt: em đổi dời về đâu?
Tay anh bưng chén kiểu, tơ liễu con rồng,
Tuổi em còn nhỏ, chưa chồng, anh thương.
- Tuổi em còn nhỏ, anh đừng đợi đừng chờ,
Để cha với mẹ được nhờ đôi năm !
Thấy anh hay chữ, em hỏi thử đôi lời (3)
Nội Nam Kỳ lục tỉnh, có mấy cây cầu, anh biết không?
- Thấy em hỏi tức, anh đáp phứt cho thông:
Nội Nam Kì lục tỉnh, có bảy cây cầu:
Cầu Phú, cầu Quới, cầu Tình, cầu Lợi, cầu Tiền,
Cầu cho cha mẹ song tuyền,
Cầu cho anh với bạn kết nguyền trăm năm.
Chống Ngoại Xâm, Ái Quốc, Lịch Sử, Chính Trị, Quê Hương, Đất Nước
Giáp Thân đã mãn
Ất Dậu tấn lai
Chánh ngoạt sơ khai
Bình yên phước thọ
Nhựt nguyệt soi tỏ
Nam chiếu phúc bồn
Tục danh Hóc Môn
Xứ Bình Long huyện
Hà do khởi chuyện?
Hà sự hàm mai?
Tích ác bởi ai?
Giết quan rửa hận
Nhứt nhơn bất tận
Bá tánh thọ ương
Chẳng nhớ câu “bất cảm hủy thương”
Lại quên chữ “thời thìn vị đáo”
Người sang trọng vô nhơn vô đạo
Muốn đặng mình ích kỷ hại nhơn
Dân Hóc Môn ăn oán uống hờn
Bình Long huyện tha nha thiết xỉ
Tân trào dầu chẳng nghĩ
Có giết sự cũng đành
Giết một người đặng cứu dân lành
Sách có chữ “hại nhơn nhơn hại”
Gẫm đốc phủ giết đà thậm phải
Khai lục tuần địch thể với vua
Theo tân trào phá miễu đốt chùa
Thuở cựu chúa làm Cai Chánh Tổng
Ở một ngày một lộng
Lầu ba từng lại có vọng cung
Nhựt nhựt thường chuông đổ trống rung
Xe song mã sướng đà quá sướng
Dân bần tiện đem lòng chẳng tưởng
Ép lấy dầu nạp thiểu thâu đa
Tục danh chàng là Đốc Phủ Ca
Cập thân tử Phủ Luông mĩ hiệu
Bởi bội quốc hồn phi yểu yểu
Vì phi quân phách quá xa ngàn
Phi ân đã đáng tội chàng
Giết một gã mà răn muôn chúng
Vật phi nghĩa người ngay bất dụng
Nhơn phi ân kẻ chánh mạc giao
Người ở đời như giọt nước sóng xao
Gẫm sự thế như ngọn đèn trước gió
Xưa đạo Phật, lòng đà đành bỏ
Mộ Di Du tấc dạ yêu cầu
Bị tử hình đức Chúa đi đâu?
Cầm thánh giá sao không cứu khổ?
Chẳng qua thiên số
Rước mẫu tử ư thiên đàng
Theo Di Du mình thác chẳng oan
Phải đạo Phật đao tầm vạn đoạn
Nhựt trình đặt đọc chơi cho hãn
Sự bất khả lậu ngôn
Tuy là mình ăn ở tại đồn
Còn sợ nỗi di thần lăng nịnh
Tham biện quan bất định
Tống trát ra cho xã với làng
Gậy tầm vông mõ đánh vai mang
Qua giờ Dậu tự nơi yếu lộ
Chức cựu tân bất khả thệ tề
Năm canh chầy giấc ngủ đã mê
Trở lộn về nỗi sưu với thuế
Qua năm Dậu gẫm âu quá tệ
Dân bần hàn như khúc gỗ tròn
Tưởng có người quá hải vượt non
Ra giúp nước cứu dân thuỷ hoả
Người sang trọng vô ơn, án tả:
Đã quên câu thuỷ thổ quốc vương
Mười tám thôn ai dám trở đương
Hàn nhơn đáo thâu sanh thát tử
Người hữu học, quên câu “thiện ác đáo đầu”
Nhơn tham tài thác tại bao lâu
Điểu tham thực tắc vong mấy khắc
Dân Hóc Môn đau tầm ruột thắt
Huyện Bình Long tợ muối xát lòng
Chữ phu cừu chuyện ấy tưởng xong
Câu tử đạo tu đường ái nhựt
Chớ ỷ cao qườn lớn chức
Ra chăn dân trở lại hại dân
Giết một gã phi ân
Mà cứu dân đồ thán
Phật còn mang tám nạn
Huống chi người sao khỏi tai ba
Huyện Bình Long bất luận trẻ già
Nạp bắt hết giải qua tòa bố
Trời sanh dân vắn cổ
Dẫu có kêu, kêu chẳng thấu trời
Việc tân trào khảo đã hết hơi
Câu tích ác có câu phùng ác
Cư vương thổ sống thời gởi nạc
Tá vương thần thác lại gởi xương
Nhựt trình đặt đặng cho biết chữ phi thường
Ít người biết suy kim nghiệm cổ
(Vè giết đốc phủ Ca)
Bán buôn vật nọ hàng kia,
Lao xao thương khách xiết vì là đông.
Chiếc qua chiếc lại đầy sông,
Mù mù khói tỏa, đùng đùng máy kêu.
Những tàu đồng dát sắt neo,
Càng nhìn tận mắt càng xiêu cả hồn.
Sợ chi nghịch thủy nghịch phong
Dầu lòng chạy ngược, dầu lòng chạy xuôi.
Tàu xúp lê một, còn thương còn nhớ
Tàu xúp lê hai, còn đợi còn chờ
Tàu xúp lê ba tàu ra biển Bắc
Tay vịn song sắt, nước mắt ròng ròng
Thương em từ thủa mẹ bồng
Bây giờ em lớn, em lấy chồng bỏ anh!
Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê.
Đạo nào vui cho bằng đạo đi buôn
Xuống biển lên nguồn, gạo chợ nước sông.
Anh đi ghe gạo Gò Công
Về Vàm Bao ngược gió giông đứt buồm.
Hò.. ơ..
Ông Tánh, ông Nhâm cùng ông Huỳnh Đức,
Ba ông hết sức phò nước một lòng
Nổi danh Gia Định Tam hùng:
Trọn nghĩa thủy chung có ông Võ Tánh.
Tài cao, sức mạnh, trọn nghĩa quyên sinh,
Bước lên lầu bát ngát thiêu mình như không!.. Hò.. ơ..
Hiu hiu gió thổi đầu non
Mấy người uống rượu là con Ngọc Hoàng
Ngọc Hoàng ngồi tựa ngai vàng
Thấy con uống rượu hai hàng lệ rơi
Tưởng rằng con uống con chơi
Ai dè con uống con rơi xuống sình
Có bản khác
Hiu hiu gió thổi đầu non
Mấy thằng uống rượu là con Ngọc Hoàng
Ngọc Hoàng ngự tại đền vàng
Thấy con uống rượu hai hàng lụy rơi
Tưởng rằng con uống con vui
Nào ngờ con uống con vô nhị tỳ (*)
(Nhị tỳ = Nghĩa địa Tàu ở Quận 5)
Khế với chanh một lòng chua xót
Mật với gừng một ngọt một cay
- Ra về bỏ áo lại đây
Để khuya em đắp gió tây lạnh lùng
- Có lạnh lùng lấy mùng mà đắp
Trả áo cho anh về đi học kẻo trưa.
Hư nên các việc tỏ bày
Tôi không có ép có nài chi ai.
Thương thay ông lão Bán Khoai.
Lên non xuống núi hôm mai dạy đời.
Thân sao nay đổi mai dời.
Xóm kia làng nọ, khổ thay thân già!
Nam mô đức Phật Di Đà
Khiến người trở lại thảo gia của người .
Bạc bảy đâu sánh vàng mười.
Hiền lương đâu xứng với người hung hăng.
(Vãn ông Sư Vãi Bán Khoai)
Tà Lơn xứ rày con tạm ở
Nghiệp lưới chài nhiều tháng náu nương
Gởi thơ cho cha mẹ tỏ tường.
Cùng huynh đệ cho hãn ý
Kể từ con đăng trình vạn lý
Đến bây giờ có bảy tháng dư
Nghiêng mình nằm nhớ tới mẫu từ
Ngồi chờ dậy ruột tằm quặn thắt.
(Thơ người Minh gửi về cố quốc)